watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:01:3526/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Kim Dung > Bích Huyết Kiếm - Hồi 11-20 - Trang 14
Chỉ mục bài viết
Bích Huyết Kiếm - Hồi 11-20
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Tất cả các trang
Trang 14 trong tổng số 24

 


Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí nói:
- Những võ khí của người Tây phương lợi hại lắm. Vậy muốn cướp được những khẩu súng đại bác đó, chúng ta phải đặt một mưu kế hoàn hảo trước. Còn thành công hay không, chưa dám quyết đoán ngay bây giờ được. Nhưng việc này có liên can đến vận mệnh của thiên hạ, dù sao tiểu đệ cũng phải tận lực ra làm và cũng phải nhờ vả hồng phúc của Sấm Vương nữa mới xong. Nếu nhứt cử mà thành công ngay, cái đó là phúc đức của dân chớ không phải là công lao của đệ.
Sau đó, Lý Nham bảo tùy tòng mở hành lý ra lấy thanh kiếm Kim Xà giao trả cho Thừa Chí, rồi nói:
- Chú Viên, từ khi gặp chú ở Thiểm Tây, tuy chưa có cơ hội được trò chuyện lâu với chú, nhưng tôi đã biết chú là một thiếu niên hào kiệt rồi. Thanh bảo kiếm chú nhờ tôi giữ, không giờ phút nào tôi không đem theo cạnh mình. Lúc đó, tôi quá lo xa, sợ chú trẻ người non dạ, võ nghệ chưa thành, kinh nghiệm còn thiếu, mà mang theo thanh bảo kiếm này với hai con đười ươi, chướng mắt người đời, có khi gieo họa đến mình, nhưng nay chú đã tạo nên bấy nhiêu đại sự rồi. Bây giờ tôi mới yên trí giao lại đười ươi và bảo kiếm cho cố chủ của nói. Hà, hà…
Thừa Chí cảm ơn xong liền đeo bảo kiếm vào bên hông. Lý Nam lại nói:
- Nhà tôi thấy tôi nói tới chú, chỉ muốn được gặp mặt chú ngay.
Thừa Chí nói:
- Thế nào tiểu đệ cũng thành tâm đến bái kiến.
An đại nương bỗng xen vào nói:
- Lý phu nhân là anh hào trong giới phụ nữ, được mọi người trên giang hồ tặng cho bà ta danh hiệu là Hồng Nương Tử. Không những người đẹp, phu nhân lại võ nghệ xuất chúng. À, cháu Thừa Chí, cháu đã có người yêu chưa?
Thừa Chí nghĩ tới Thanh Thanh, mặt đỏ bừng, mỉm cười không trả lời.


An đại nương thở dài nói:
- Nhân tài xuất chúng như cháu, không biết có tiểu thư nào có phúc được làm vợ cháu!
Nàng nghĩ tới Tiểu Tuệ liền thở dài một tiếng, rồi nghĩ thầm: “Con Tiểu Tuệ với y là bạn hoạn nạn từ hồi nhỏ. Nếu y làm rể của ta, con Tuệ có phải được nhờ vả suốt đời không? Nhưng con bé lại cứ thích cái thằng ngốc Thôi Hy Mẫn. Thật là duyên ai phận nấy không sai chút nào.”
Thấy Lý Nham, An đại nương và Thừa Chí nói chuyện tư, ba người họ Phạm, Lê, và Hầu liền cáo lui.
Người họ Phạm nói:
- Viên minh chủ, sáng sớm mai ba anh em chúng tôi sẽ đem thủ hạ tới đây để Minh chủ sai bảo.
Thừa Chí nói:
- Được.
Ba người xin cáo lui. Lý Nham và Thừa Chí thắp nên trò chuyện thiên hạ đại thế. Thật là anh hùng tương ngộ, càng nói càng ý hợp tâm đầu, chỉ hận biết nhau hơi muộn.
Cho tới khi gà gáy, mặt trời đã rạng đông, cả hai còn chưa muốn đi nghỉ. Lý Nham quay lại thấy An đại nương ngồi ngẩn người ra nhìn người chồng đang bị trói nằm dưới đất liền khẽ gọi:
- An đại nương!
An đại nương ngửng đầu lên nhìn. Lý Nham hỏi:
- Đại nương định xử trí người này như thế nào?
Trong lòng bối rối như mớ bòng bong, An đại nương chỉ lắc đầu không biết trả lời ra sao.
Lý Nham biết nàng không thể quyết định được nên quay lại hỏi Thừa Chí rằng:
- Tôi với chú chia tay ở đây phải không?
Thừa Chí đáp:
- Không, đệ còn muốn tiễn Lý tướng quân đi một quãng đường.
Hai người dắt tay nhau ra khỏi căn nhà đó, thủng thẳng ra đi vừa trò chuyện, các người tùy tòng và hai con đười ươi cũng đi theo độ bảy tám dặm, Lý Nham nói: “Tốn quân thiên lý, chung cư nhứt biệt!” (Tiễn chàng đi ngàn dặm, rốt cuộc cũng phải chia tay). Chú nên trở lại đi.
Hai người ý hợp tâm đầu, Thừa Chí vẫn muốn đi theo chuyện trò nữa.
Lý Nham lại nói:
- Tôi với chú mới gặp nhau đã trở nên tri kỷ. Nếu chú vui lòng, chúng ta cùng nhau kết nghĩa làm anh em nhé?
Thừa Chí cả mừng, hai người liền ngừng chân ở bên vệ đường, nặn đất làm hương nến, quỳ lạy trước trời đất, kết nghĩa kim lan. Lý Nham lớn hơn làm anh, hai người lại nói thêm một lát, rồi mới gạt lệ chia tay.
Dắt hai con đười ươi, Thừa Chí quay trở về khách điếm đã thấy ba người họ Phạm, Lê, và Hầu cùng mấy chục tên tráng hán túc trực tại đó rồi. Những người đó kẻ ngồi người đứng, chật ních cả nhà ngoài nhà trong khách điếm.
Thanh Thanh, chàng Câm, và Hồng Thắng Hải không biết đi đâu. Còn những tùy tòng của A Chín đều là thị vệ cả, thấy nhiều người lạ mặt ở cả trong phòng, không dám lộ diện. Thừa Chí liền nói với Phạm Phi Vân rằng:
- Phạm đại ca, anh dẫn mấy anh em đi về phía Nam điều tra hộ xem bọn quan binh Tây phương vận tải Hồng Y đại bác đi thẳng lên phía bắc, hay là chúng đã quay trở lại phía Nam rồi? Và hỏa tốc trở về cho tôi hay tin ngay.


Được lệnh, Phạm Phi Vân liền đem theo ba đại hán ra khỏi khách điếm phóng ngựa đi ngay.
Phạm Phi Vân vừa đi khỏi, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đã về tới khách điếm, trông thấy Thừa Chí đều cả mừng. Sa Thiên Quảng nói:
- Ồ, Viên tướng công đã về đấy à?
Thừa Chí chưa kịp trả lời, đã thấy Thanh Thanh, chàng Câm chạy xổ vào trong khách sảnh. Đầu tóc của Thanh Thanh bị gió thổi bù rối, hai má đỏ hồng lên. Nàng trông thấy Thừa Chí mừng quá, với giọng oán hờn nói:
- Tại sao đến giờ mới về thế?
Tới lúc này, Thừa Chí mới hay vì mình đi không dặn bảo trước, ai nấy thấy lâu không về, đều bủa đi các nơi tìm kiếm. Thấy mặt Thanh Thanh vẫn còn vẻ lo âu, chàng cảm động vô cùng, vào trong phòng liền kể hết sự thể cho nàng nghe. Thanh Thanh cúi đầu, không nói năng gì cả. Thấy sắc mặt nàng khác thường, Thừa Chí vội hỏi:
- Tại anh cả, làm em phải lo lắng thế này!
Thanh Thanh vẫn còn hờn giận, làm thinh như cũ. Không hiểu nàng giận mình vì lẽ gì, Thừa Chí nói lảng ra chuyện khác:
- Vừa rồi anh kết nghĩa với một vị đại anh hùng, chú lại có thêm một người anh rồi đấy.
Tuy là con gái, Thanh Thanh mặc giả trai luôn luôn, nên Thừa Chí cứ quen miệng gọi là chú.
Thanh Thanh nói:
- Anh mà vô lương tâm, thì lấy người anh ấy làm gì?
Thừa Chí nói:
- Thôi, anh xin lỗi chú, lần sau anh không làm cho chú phải lo lắng như thế này nữa.
Thanh Thanh nói:
- Lần sau đã có người khác lo lắng hộ cho rồi. Anh cần gì phải lo lắng hộ nữa.
Nói xong, Thanh Thanh luôn không thèm quay lại, hình như nàng đang giận dỗi một chuyện gì.
Thừa Chí đưa mắt nhìn theo Thanh Thanh khe khẽ lắc đầu, rồi trở về phòng mình nghỉ ngơi…
Chàng thức giấc, Thừa Chí sang phòng không thấy Thanh Thanh, chẳng hiểu nàng đã đi đâu rồi.
Thừa Chí lo sợ bước ra ngoài đi tìm Thanh Thanh. Đi được một quãng Thừa Chí nghe có tiếng la hét ở phía trước.
Thừa Chí chạy nhanh tới trước, trông thấy Thanh Thanh, Hồ Quế Nam, và Thiết La Hán đang đánh nhau với một người đàn ông và ả đàn bà phương Tây.
Thiết La Hán bị tên đàn ông phương Tây to lớn bắn trúng một phát đạn, vừa ôm tay vừa chạy, kêu la ầm ĩ.
Tên đàn ông phương Tây lại chĩa mũi súng ngay Thanh Thanh làm nàng cuống cuồng cả lên.
Thừa Chí kinh hãi phóng mìnnh tới, ném một quân cờ ngay khẩu súng ngắn trong tay gã đàn ông to lớn.
Rảng!


Khẩu súng ngắn rời khỏi bàn tay gã đàn ông phương Tây bay bổng ra ngoài xa, rơi trở xuống đất.
Thừa Chí bước tới, cản trước mặt Thanh Thanh, đưa mắt nhìn gã đàn ông phương Tây.
Hắn trợn mắt trỏ tay vào Thanh Thanh tuôn ra một loạt tiếng gì Thừa Chí không rõ.
Tên thông ngôn người Hán nói với Thừa Chí:
- Ông ta hỏi tại sao đương nhiên cô kia lại chận đường phá rối vợ chồng ông.
Biết Thanh Thanh tìm người chọc phá, Thừa Chí nhìn mọi người:
- Bọn chúng ta trở về thôi, ở đây sẽ có chuyện xảy ra lớn lao.
Bốn người trở lại, lui bỏ mặt vợ chồng người phương Tây và tên thông ngôn đứng đó.
Trở về dọc đường…
Vừa chạy, Thừa Chí vừa hỏi:
- Tại sao chú lại bị bọn chúng hành hung như thế?
Thanh Thanh đáp:
- Biết đâu đấy!
Thấy mặt nàng vẫn còn hậm hực, Thừa Chí mỉm cười không hỏi nữa.
Chạy được hơn hai mươi dặm, mọi người ngừng lại, xuống ngựa nghỉ ngơi. Hồ Quế Nam dùng dao lấy viên chì nằm trong thịt ra cho Thiết La Hán. Đau quá, Thiết La Hán kêu la và chửi mắng om sòm. Thấy vậy, Thanh Thanh bứt rứt trong lòng, kéo Thừa Chí sang một bên, khẽ nói:
- Ai bảo con ấy ăn mặc lố lăng, để hở hang hai cánh tay, không biết xấu hổ!
Không hiểu nàng nói gì, Thừa Chí ngơ ngác hỏi:
- Ai cơ chớ?
Thanh Thanh đáp:
- Con đàn bà Tây phương ấy!
Thừa Chí nói:
- Nó ăn mặc như thế thì việc gì đến chú nào?
Thanh Thanh cười nói:
- Trông chướng mắt quá, em bực mình dùng hai đồng tiền đồng ném gẫy đôi hoa tai của nói.
Thừa Chí không nhịn được cười, cười ồ rồi hỏi:
- Hà! Chú quấy nhiễu thật. Sao, rồi thế nào nữa?
Thanh Thanh cười đáp:
- Tên sĩ quan Tây phương thủa ngày nọ, nhận ra em, liền gọi bọn lính chĩa súng vào em. Không hiểu tiếng, em cứ tưởng chúng muốn thách em đấu kiếm. Sợ gì chúng mà em không dám đấu. Đang lúc ấy thì anh với các anh em vừa tới.
Thừa Chí hỏi:
- Tại sao chú bỏ ra đi một mình như thế?
Thanh Thanh đang hớn hở, thấy Thừa Chí hỏi như vậy, đổi ngay sắc mặt, vênh váo nói:
- Hừ, anh còn nói gì nữa? Anh đã làm gì, anh không biết hay sao?
Thừa Chí nói:
- Quả thật anh không biết anh đã làm việc gì mích lòng chú?


Thanh Thanh quay đầu đi không trả lời. Biết tánh của nàng, cứ giả vờ coi thường chuyện đó, không thèm hỏi, là nàng không nhịn được phải nói ra ngay. Thừa Chí liền nói sang chuyện khác:
- Chú Thanh, hỏa khí của lính Tây phương lợi hại lắm. Chú xem có cách gì đánh cướp được những khẩu đại bác của chúng không?
Thanh Thanh nổi giận nói:
- Ai nói chuyện ấy với anh?
Thừa Chí nói:
- Thôi được, để anh đi thương lượng với anh Sa Thiên Quảng vậy.
Nói xong, chàng đứng dậy định đi. Thanh Thanh vội kéo ngay vạt áo của chàng lại, và nói:
- Em chưa nói xong, cấm không cho anh đi.
Thừa Chí vừa cười vừa ngồi xuống. Một lát sau, Thanh Thanh mới nói:
- Cô em gái Tiểu Tuệ của anh đâu?
Thừa Chí đáp:
- Từ hôm chia tay đến giờ anh chưa gặp cô ta bao giờ. Và ai biết cô ta đâu cơ chứ?
Thanh thanh hậm hực nói:
- Thế còn người khác đâu?
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, chú nói người khác nào? Người khác là ai thế?
Thanh Thanh dậm chân một cái, quay luôn vào trong phòng cho tới bữa cơm trưa cũng không ra ăn. Thừa Chí gọi phổ ky bưng cơm nước vào trong phòng cho nàng dùng. Rồi chàng nghĩ thầm: “Không hiểu nàng giận ta việc gì? Chờ lát nữa cơm xong, ta vào trong phòng xin lỗi nàng vậy. Vì ta mà nàng phải lo sợ nửa ngày…”
Vừa nghĩ tới đó, chàng đã thấy phổ ky bưng cơm nước quay trở lại, liền hỏi:
- Cô nương không dùng ư?
Phổ ky đáp:
- Thưa Tướng công, đại cô nương không có ở trong phòng.
Giật mình kinh hãi, bỏ bát đũa xuống, Thừa Chí chạy xổ vào trong phòng, không thấy hình bóng Thanh Thanh đâu, mà cả khí giới lẫn túi dết cũng không thấy nốt.
Biết nàng đã bỏ đi, trong lòng lo lắng vô cùng, bề ngoài Thừa Chí vẫn bình tĩnh, nghĩ thầm: “Nàng giận dỗi bỏ đi. Đi đâu nàng không cho hay? Nàng tuy có võ nghệ thật, nhưng dễ gây nên tai họa lắm. Như thế này rắc rối cho ta không? Đang có công việc lớn phải thi hành, ta thân hành đi kiếm sao?”
Nghĩ đoạn, chàng sai Hồng Thắng Hải đi kiếm, hễ thấy tung tích nàng ở đâu, trở về cho hay tin ngay.
Chờ tới chiều tối, Phạm Phi Vân phi ngựa trở về, vừa vào tới cửa liền nói:
- Thưa Tướng công, quan binh Tây phương quả nhiên quay trở lại phía Nam thật. Chúng ta phải đuổi theo ngay mới kịp.
Thừa Chí nhảy phắt lên, dặn chàng Câm giữ hai con đười ươi ở lại khách sạn canh giữ những hòm sắt bảo vật. Rồi chàng dẫn Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, bọn anh em Phạm Phi Vân, và các đại hán Hà Bắc phóng ngựa tiến thẳng về phía Nam. Đến sáng sớm ngày thứ ba, xuyên qua một thị trấn nhỏ, bọn Thừa Chí quả nhiên trông thấy mười khẩu đại bác xếp hàng một đều ở trước cửa một tửu quán nọ. Mỗi khẩu đại bác có sáu tên lính Tây phương bồng súng canh gác.


Thiết La Hán nói:
- Đói lắm rồi! Đói lắm rồi!
Thừa Chí nói:
- Chúng ta lên tửu quán này để tái ngộ hai viên sĩ quan ngoại quốc cũng hay.
Tám người cùng lên thẳng tửu lầu. Thiết La Hán đi trước, vừa lên tới trên lầu đã thất kinh là lớn. Thì ra lúc ấy mấy tên lính Tây phương cầm súng đang nhắm Thanh Thanh bắn. Tay chúng đã sửa soạn bóp cò, tình thế rất nguy hiểm. Còn phía bên kia, Bỉ Đắc, Lô Mông và cô gái Tây phương Nhược Khắc Lâm đang ngồi cạnh cái bàn. Thấy các vị anh hùng lên lầu, Lô Mông liền chỉ nói mấy câu tiếng Tây, lại có mấy tên lính ngoại quốc chĩa súng vào các người, quát lớn bắt giơ hai tay lên.
Nhanh trí không, Thừa Chí cầm luôn hai cái bàn bày ở đó ném luôn vào người bọn lính Tây, đồng thời phi thân tới cạnh Thanh Thanh, vít vai nàng cùng ngồi xổm xuống.
“Đoành, đoành…” mấy tiếng, khói bốc lên trần nhà, mấy khẩu súng đều nổ một lúc, những đạn chì bắn ngập cả vào mặt bàn.
Sợ hỏa khí lợi hại, Thừa Chí vội kêu gọi:
- Tất cả xuống hết nhà dưới.
Nắm tay Thanh Thanh, chàng cùng mọi người xuyên qua cửa sổ nhảy xuống dưới lầu. Lô Mông cả giận, rút luôn súng ngắn ra bắn xuống phía dưới.
Thiết La Hán kêu “ối chà!” một tiếng, mông đít đã bị bắn trúng một phát, đứng không vững sắp ngã. Sa Thiên Quảng vội chạy lại đỡ luôn. Các người nhảy lên mình ngưạ phóng về phía Nam. Hồi đó hỏa khí của ngoại quốc bắn xong một phát, phải nhồi thuốc và đạn vào mới bắn tiếp được. Nên tới khi bọn quan binh Tây phương sửa soạn bắn tiếp thì mọi người đã chạy mất dạng rồi. Thừa Chí và Thanh Thanh cùng cỡi chung một con ngựa.
Thừa Chí kề ngựa lại gần Thiết La Hán:
- Chuyện xảy ra như thế nào?
Thiết La Hán đáp:
- Lúc nãy chúng tôi theo bọn người Tây phương, tới chỗ trú ngụ của chúng để dò la tin tức.
- Rồi sao nữa?
- Tôi và anh Sa Thiên Quảng lẻn vô phòng nghe bọn chúng nói chuyện, nhưng toàn là tiếng lạ nghe không rõ, kế đó mấy tên này bỏ ra ngoài, tôi lẻn vào đánh cắp được mấy khẩu súng.
- Ồ! Mấy khẩu súng ở đâu rồi?
- Tôi cất một khẩu, còn một khẩu cô Thanh Thanh đòi lấy nên tôi đã trao cho cô ấy.
Thừa Chí day lại:
- Chú Thanh, khẩu súng đâu rồi?
Thanh Thanh cười cười:
- Khẩu súng tôi cất trong mình đây.
- Chú đưa tôi xem.
- Lát nữa rồi sẽ xem.


Thiết La Hán hỏi:
- Viên tướng quân, giờ chúng ta trở về khách sạn phải không?
- Phải! Chúng ta trở về khách sạn rồi mọi chuyện sẽ tính sau.
Thanh Thanh ngồi chung ngựa với Thừa Chí ra đường, nhắm khách sạn đi lại. Thanh Thanh bỗng bật cười như có điều gì thích thú lắm.
Thừa Chí quay lại:
- Chú Thanh cười gì đấy?
Thanh Thanh đáp:
- Lát nữa anh sẽ rõ.
Thừa Chí hoài nghi trong lòng nhưg không hỏi nữa vì biết Thanh Thanh tánh hay giận hờn, có thể phóng xuống ngựa bất ngờ và chạy đi.
Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chìu chuộng cô gái đến thế, nhưng vì còn nhiều chuyện bận rộn, chàng không có thời gian nhàn rỗi để suy tư.
Chợt nghe phía sau bọn người Tây phương đuổi theo rất gấp, Thừa Chí nói:
- Chúng ta hãy chạy mau, bọn chúng có hỏa lực nguy hiểm lắm!
Bọn người chạy nhanh hơn trước, dần dần tiếng người đuổi theo ở phía sau xa ra rồi mất dạng.
Lúc bấy giờ bọn Thừa Chí, Thanh Thanh mới cho ngựa đi chậm lại.
Tới khách sạn, mọi người ngồi quanh một cái bàn trò chuyện về hỏa lực của bọn người Tây phương.
Thanh Thanh cầm một khẩu súng lên chơi, sơ ý bấm phải cò, đoành một tiếng, khói tỏa ra khắp căn phòng. Sa Thiên Quảng, ngồi ở phía trước nàng, may nhanh nhẹn chui ngay xuống gầm bàn mới tránh khỏi tay bay vạ gió đó. Thanh Thanh sợ hãi, mặt tái xanh, vội xin lỗi luôn mồm. Sa Thiên Quảng lè lưỡi và nói:
- Lợi hại thật!
Mọi người đem hai khẩu súng kia ra xem xét, thấy trong nòng có nhồi thuốc súng và đạn chì.
Thừa Chí nói:
- Thứ thuốc nhồi trong nòng súng vốn của người Trung Quốc mình phát minh. Chúng ta chỉ dùng nó làm pháo đốt chơi, còn người Tây phương lại dùng thứ thuốc này làm võ khí giết người. Đội hình Tây Âu này có hơn trăm người, hơn một trăm khẩu súng cùng bắn ra một lúc, hỏa lực mạnh vô cùng chớ không phải chuyện chơi đâu!
Mọi người đều nghĩ cách để đối phó. Hồ Quế Nam nói:
- Viên tướng công, đệ có một quỷ kế nho nhỏ này, không biết có thể dùng được không?
Thừa Chí hỏi:
- Kế gì thế? Anh cứ việc nói ra.
Hồ Quế Nam vừa cười vừa nói kế đó ra. Thanh Thanh vỗ tay khen ngợi. Sa Thiên Quảng công nhận kế đó rất thần diệu. Ngẫm nghĩ một lúc, Thừa Chí cũng nhận thấy cần phải mạo hiểm như vậy mới có kế quả, liền hạ lịnh bố trí.


Hãy nói, Lô Mông và Bĩ Đắc vì tranh dành nàng mỹ nhân Nhược Khắc Lâm mà đêm khuya đấu kiếm. Sự thật thì Nhược Khắc Lâm với Bĩ Đắc yêu nhau từ lâu rồi. Lô Mông tuy tự phụ là người phong lưu mã thượng, nhưng không có dịp may để xen chân vào, sau mới nghĩ ra cách đấu kiếm. Rốt cuộc đấu kiếm y cũng thua tình địch, liền sử dụng gian tế, lại bị Thừa Chí bỗng ở đâu tới phá bĩnh. Vì y là quan trên, Bĩ Đắc đành phải nghiến răng cam chịu, chỉ cẩn thận đề phòng, chớ không dám báo thù.
Ngày hôm đó, bọn quan binh Tây phương đi tới một làng nọ. Làng này tên Vạn Công thôn, chỉ có ba trăm nóc nhà thôi. Lúc ấy trời đã tối, bọn chúng đành phải vào nhà thờ của họ Vạn để nghỉ ngơi. Nửa đêm, bỗng nghe tiếng người ồn ào, lính canh gác vội vào báo cáo, trong làng có nhà cháy. Lô Mông và Bĩ Đắc dậy ngay tức thì, thấyngọn lửa rất gần nơi đó liền ra lịnh cho binh lính khuân hết các thùng thuốc súng ra để ngoài bãi cỏ.
Trong lúc bối rối, những người trong làng xách thùng nước cứu hỏa đến quây quần nhà thờ nọ và hắt nước khắp mọi nơi. Lô Mông quát hỏi nguyên nhân tại sao lại tạt nước tứ tung như vậy? Mấy chục người làng nói với Thông dịch viên Tiền Thông Tứ rằng:
- Nhà này là nhà thờ duy nhất của chúng tôi. Trong lúc cháy nhà chúng tôi phải đem nước tới tạt cho thật ước trước, để khỏi bị thần hỏa cháy lan tới.
Thấy lời nói rất có lý, Lô Mông đành phải để yên cho họ tạt nước. Ngờ đâu người làng tạt vào cả những thùng thuốc súng. Bọn binh lính thấy vậy vội dùng cán súng đánh đuổi. Nhưng đuổi sao cho xuể? Có người còn tạt cả vào người các binh lính Tây phương nữa. Không đầy chốc lát, xung quanh nhà thờ bịt tạt nước đẫm như hồ ao. Tất cả đại bác, thùng thuốc súng, và những khẩu súng của binh cũng bị ướt đẫm cả. Còn căn nhà bị cháy đã tắt dần.
Cho tới sáng ngày hôm sau, Lô Mông và Bĩ Đức ra xem xét, thấy thuốc súng bị ướt sũng hết thảy, liền nghi ngờ có người âm mưu, vội ra lện cho lên đường ngay. Đang sửa soạn khởi hành, bỗng có một tên tiểu quan quân tới báo cáo rằng:
Không hiểu tại sao đêm hôm qua, những lừa ngựa kéo đại bác đã chạy mất dạng hết cả. Giận quá, Lô Mông liền đánh cho tên tiểu quan quân một trận nên thân, rồi sai Tiền Thông Tứ dẫn các binh lính Tây phương vào trong làng trưng tập. Ngờ đâu, cả một cái làng to lớn như thế mà không co một con lừa con ngựa nào cả.
Sự thật thì người làng hay tin trước đã đem lừa ngựa dấu đi nơi khác rồi. Lô Mông đành phải sai Bĩ Đắc đi cùng Tiền Thông Tứ tới thành thị phía đằng trước mộ tập vậy.
Bĩ Đắc liền đem theo bốn tên lính và dắt Nhược Khắc Lâm đi theo. Lô Mông tức giận vô cùng, liền đốc thúc binh lính mở thùng lấy hết thuốc súng ra, đổ lên trên chiếu phơi. Cho tới chiều tối hôm đó, thuốc đã sắp khô hẳn, Lô Mông đang sai binh lính đổ vào thùng thì bỗng có mấy chục mũi tên lửa ở trên nóc nhà đầu làng bắn tới. Thuốc súng gặp lửa bùng cháy rất chóng. Bọn binh lính thấy vậy, mất cả hồn vía, bỏ chạy tán loạn.
Hò hét mãi, Lô Mông mới đốc thúc nổi binh lính xếp hàng thành đội ngũ và bắn một loạt súng vào các nhà của dân làng. Trong đám khói lan man, có mấy chục đại hán chạy trốn vào trong rừng. Kiểm điểm thuốc súng, Lô Mông thấy bị đốt cháy mất 80, 90 phần trăm, buồn bực vô cùng, chỉ có cách canh phòng cẩn thận thêm để khỏi bị cháy nốt chỗ còn lại thôi. Chờ tới ngày thứ ba, Bĩ Đắc mới trưng tập được mấy chục con lừa ngựa về để kéo đại bác.


Hôm sau, bọn quan binh Tây phương lại tiếp tục lên đường. Đi được bốn năm ngày, hôm đó đi tới khe núi, một con đường hiểm đạo, vừa dốc vừa chật hẹp. Lô Mông và Bĩ Đắc chỉ huy binh sĩ, mỗi chiếc đại bác dùng mười người ở phía sau lôi kéo, để khỏi bị bắn trượt xuống chân núi.
Đường núi càng đi càng nguy hiểm, trong lúc mọi người đang chăm chú vào lối đi, bỗng trong khe núi có mấy chục mũi tên bắn ra. Mười mấy mũi bắn trúng binh lính Tây phương và mười mấy mũi bắn trúng lừa ngựa. Đau quá, mười mấy con lừa ngựa cứ cắm đầu mà chạy thẳng, bọn lính Tây phương kềm giữ sao nổi. Khẩu đại bác nào cũng nặng mấy ngàn cân bị lừa ngựa lôi kéo xuống dốc, thế mạnh vô song. Chạy được vàitrăm thước, lừa ngựa bị sa xuống hố đào sẵn ở giữa lối đi, thế là hai khẩu đại bác lôi theo bị lật nhào, chỉ nghe thấy “ùm ùm” mấy tiếng, mấy tên lính bị đại bác đè bẹp như tương. Tiếp theo đó tám khẩu đại bác đi sau cũng bị sa hố lật đổ rồi lăn xuống hang núi hết cả.
Lô Mông và Bĩ Đắc sợ hãi mất hết hồn vía còn Nhược Khắc Lâm thì kinh hãi đến chết giấc. Chưa kịp ra tay cứu tỉnh nàng nọ, Bĩ Đắc đã phải ra lịnh cho binh lính phục xuống, để chống cự lại kẻ địch.
Đối phương núp trong hố đào sẵn ở bên sườn núi, nên súng đạn không sao trúng được. Mà những mũi tên của địch bắn xuống binh lính Tây phương không có chỗ tránh núp, nên chết khá nhiều.
Chiến đấu hơn hai tiếng đồng hồ, binh lính Tây phương không sao thoát khỏi vòng vây.
Lô Mông nói:
- Đạn dược của chúng ta còn rất ít, bây giờ có cách xông bừa đi mới được mong thoát chết.
Bĩ Đắc nói:
- Gọi Tiền Thông Tứ tiến lên hỏi xem, bọn thổ phỉ muốn đòi hỏi cái gì?
Lô Mông nổi giận nói:
- Với bọn thổ phỉ chỉ có cách xông pha thôi, chớ nói với chúng sao được? Nếu anh không dám xông thì để tôi xông trước vậy.
Bĩ Đắc nói:
- Cung tên của thổ phỉ lợi hại lắm. Hy sinh và mạo hiểm như vậy vô ích.
Lô Mông đưa mắt nhìn Nhược Khắc Lâm, rồi nhổ nước mắt xuống đất chửi đổng rằng:
- Hèn nhát!
Tức giận xanh cả mặt, Bĩ Đắc hạ thấp giọng nói:
- Bây giờ ta không thèm cãi vã với mi vội, chờ đánh lui được bọn thổ phỉ ta sẽ cho mi biết vô lễ như thế này sẽ phải trả giá đắt như thế nào?
Lô Mông nhảy lên lớn tiếng kêu gọi:
- Ai là anh hùng hảo hán thì theo ta!
Bĩ Đắc cũng lớn tiếng gọi:
- Đại tá Lô Mông muốn chết đấy à?
Bọn binh lính Tây phương cũng biết xông ra khỏi cái hố ấy là bị tên bắn chết ngay, nên không ai chịu theo Lô Mông cả. Quả nhiên, Lô Mông múa kiếm lên khỏi mặt hố, đi được vài bước, đã bị một mũi tên xuyên qua ngực nằm lăn ra chết liền.
Nhờ có súng ống lợi hại, kẻ địch không dám tới gần, Bĩ Đắc với bọn binh lính mới cầm cự được một ngày một đêm, chỉ mong có quan binh Triều đình tới cứu viện.
Ngờ đâu quan trường thời cuối Minh hủ bại vô cùng, muốn điều binh khiển tướng phải làm công văn thỉnh thị và thương nghị xuất binh, vân vân, ít ra năm bữa nửa tháng mới xuất binh được.
Đến chiều tối ngày thứ hai, bọn binh lính Tây phương đói và khát đến nỗi tối sầm mặt mày, đành phải giơ cờ trắng xin hàng. Tiền Thông Tứ lớn tiếng nói:
- Chúng tôi xin đầu hàng!


Trên sườn núi có một người lớn tiếng trả lời:
- Muốn hàng thì vứt hết súng ống ra ngoài hố trước!
Bĩ Đắc nói:
- Chúng ta không thể nào nộp hết súng ống cho chúng được.
Thấy bọn Tây phương không nộp súng, bên kia cũng không tấn công. Một lát sau, bỗng có mùi thịt rất thơm đưa tới. Những binh lính Tây phương đã nhịn đói hai ngày rồi, làm sao chịu được nữa. Ai nấy đều vứt cả súng ống lên trên mặt hố, rồi nhảy lên giơ tay đầu hàng. Thấy đại thế không còn, Bĩ Đắc đành phải hạ lịnh nộp súng đầu hàng. Bọn binh lính xếp súng thành một đống rồi kêu la đòi ăn uống.
Tiếng tù và ở sườn núi nổi lên, trong hàng có mấy trăm tên đại hán nhô ra, tay cầm cung tên chĩa vào bọn binh lính Tây phương. Tám, chín người thủ lãnh đi trước từ từ tiến tới. Nhìn rõ mặt, Bĩ Đắc mới hay người thủ lãnh của địch là thiếu niên đã cứu mình thoát nạn ở trong khách sạn bữa nọ. Bên cạnh y là người đàn bà mặt nam phục, mà bữa trước bị Lô Mông bắn rớt cái mũ xuống đất. Nhược Khắc Lâm lên tiếng nói trước:
- Ồ, ra là bọn người có phép thuật ma quỷ đấy!
Bĩ Đắc rút thanh kiếm ở bên hông ra, hai tay bưng ngang nộp Thừa Chí, tỏ vẻ đầu hàng thật sự. Y nghĩ thầm, thua người thanh niên tài ba này, cũng không đến nỗi nhục nhã lắm.
Thoạt tiên, ngẩn người giây phút, không hiểu đối phương làm như thế để làm gì? Sau Thừa Chí mới hay, đó là lễ nghi đầu hàng của người Tây phương, liền xua tay, rồi nói với Tiền Thông Tứ rằng:
- Thầy thông nói cho y hay. Binh lính Tây phương đem đại bác tới giúp chúng tôi bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm, chúng tôi rất cảm tạ và coi y là người bạn tốt.
Tiền Thông Tứ thông ngôn lại cho Bĩ Đắc hay. Gật đầu tán thành, Bĩ Đắc giơ tay bắt lấy Thừa Chí. Giây phút sau, Thừa Chí lại nói tiếp:
- Nếu các người tới Đồng Quan, giúp nhà vua giết hại nhân dân, chúng tôi tất nhiên không để cho yên đâu!
Bĩ Đắc nói:
- Thế ra là nhà vua bảo chúng tôi đi giết hại nhân dân đấy à? Điều này tôi không hay biết gì cả.
Thấy vẻ mặt y thành thật, Thừa Chí biết y không nói ngoa, liền nói:
- Hiện giờ nhân dân Trung Quốc khổ sở, thiếu ăn thiếu mặc, nên ai nấy đều mong mỏi co người đứng ra lãnh đạo, đánh đổ nhà vua để thoát khỏi bể khổ. Nhà vua hay tinLý tướng quân quật khởi, hướng dẫn cách mạng, liền ra lệnh cho các người đem đại bác đi giết hại nhân dân.
Bĩ Đắc cảm động, liền nói:
- Tôi xuất thân cũng là người nghèo, rất hiểu đau khổ của giới đó như thế nào! Thôi tôi trở về nước tức thì.
Thừa Chí nói:
- Thế thì hay lắm! Ông nên cho binh lính đi theo một thể.
Bĩ Đắc liền tập họp bộ đội, xếp hàng chuẩn bị lên đường. Thừa Chí bảo bộ hạ đem rượu và thị ra thế đãi binh lính Tây phương ăn một bữa no say. Bĩ Đắc giơ tay lên kính chào Thừa Chí, rồi ra lịnh cho binh sĩ lên đường.


Thừa Chí lớn tiếng gọi:
- Tại sao ông không đem những súng ống này đi?
Tiền Thông Tứ thông ngôn lại, Bĩ Đắc ngạc nhiên nói:
- Những súng đó là chiến lợi phẩm của các ông. Chúng tôi được các ông buông tha mà không bắt nộp tiền chuộc mạng, đã cám ơn quý ông khoan hồng đại lượng lắm rồi!
Thừa Chí cười nói:
- Ông đã mất số đại bác mà không đem súng ống này đi, tôi chỉ sợ về tới nơi đại bản doanh, ông bị khiển trách nặng nề hơn. Thôi, đem đi cả đi!
Bĩ Đắc nói:
- Thế quý ông không sợ chúng tôi dùng những súng này bắn lại quý ông hay sao?
Thừa Chí cả cười:
- Đại trượng phu, nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Nam nhi hảo hán Trung Quốc chúng tôi rất trọng nghĩa khí, đã coi ông là hảo hán thì không bao giờ còn nghi ngờ ông nữa!
Bĩ Đắc thấy chàng trai như vậy, càng cảm động thêm, liền ra lịnh cho binh lính bồng hết súng ống, rồi xếp hàng ra đi.
Đi được một quãng đường, càng nghĩ càng kính phục Thừa Chí, Bĩ Đắc ra lịnh cho binh lính ngồi nghỉ ngơi, rồi cùng Tiền Thông Tứ quay trở lại móc túi lấy một gói đồ ra đưa cho Thừa Chí và nói:
- Thấy ngài hào hiệp như vậy, tôi xin tặng một vật này.
Mở gói đồ ra xem, Thừa Chí mới hay đó là bản đồ một hòn đảo. Trên đó có chú thích rất nhiều chữ Tây phương, không hiểu gì cao, ngửng đầu nhìn Bĩ Đắc với vẻ mặt nghi ngờ chất vấn.
Bĩ Đắc nói:
- Đây là một hòn đảo lớn ở về phía Nam, cách bờ biển độ hơn một nghìn dặm. Khí hậu trên đảo rất ôn hòa, các sản vật rất phong phú. Thật không khác gì một nơi thiên đường, khi đi qua đó, tôi đã lên quan sát rồi.
Thừa Chí hỏi:
- Chẳng hay ông tặng cho tôi bức địa đồ này để làm gì?
Bĩ Đắc trả lời:
- Quý ông ở đây chiến đấu vất vả như thế này, thà đem những người thiếu ăn thiếu mặc ra đó khai khẩn, còn sung sướng hơn nhiều.
Thừa Chí cười thầm và nghĩ rằng: “Tâm địa của người ngoại quốc này cũng tốt đấy. Nhưng y có biết đất nước Trung Quốc chúng ta lớn rộng biết bao? Dân chúng có hàng ức, thì cái đảo nho nhỏ này làm sao đủ ở được?”


Nghĩ đoạn, chàng liền nói:
- Cái đảo này không có người ở hay sao?
Bĩ Đắc đáp:
- Đảo đó có khi giặc bể Tây Ban Nha tới ở ít lâu lại đi. Có khi không có một bóng người nào. Các vị anh hùng hảo hán như thế này thì sợ gì bọn giặc bể ấy?
Thấy y có lòng thành thật như vậy, Thừa Chí cảm tạ và nhận lấy. Bĩ Đắc vừa đi khỏi, Tiền Thông Tứ cũng đi theo. Thanh Thanh bỗng kéo tay tên thông ngôn đó lại và quát lớn:
- Lần sau, ta còn gặp ngươi tác oai tác quái, bắt nạt đồng bào thì liệu hồn nhé?
Bị kéo tai đau quá, Tiền Thông Tứ không dám kêu la chỉ năn nỉ nói:
- Tiểu nhân không dám ạ! Xin hảo hán tha cho…
Thừa Chí chỉ huy các người xem xét lại mười khẩu đại bác, thấy hư hỏng hết cả, liền ra lệnh cho lấp đất lên. Thế là những hỏa khí giới lợi hại ấy đều bị vùi chôn dưới hố, không còn tang tích gì nữa.
Thấy đại công đã hoàn tất, Thừa Chí cùng các hào kiệt và bọn Phạm Phi Vân liên hoan nửa ngày. Sáng sớm ngày hôm sau, chàng chờ chàng Câm và Hồng Thắng Hải tới mới khởi hành đi lên Bắc Kinh.
Lần này công của Hồ Quế Nam lớn nhất, tất cả kế hoạch làm ướt thuốc súng, đào hố đánh bẫy, vân vân, đều do y nghĩ ra. Từ đó mọi người đều kính trọng chớ không coi thường y như trước nữa.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 333
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com