Thành Cát Tư Hãn sai chư tướng quân sĩ lui về, một mình ngồi trên ngai vàng xuất thần. Chiếc ngai vàng này lấy được lúc công phá Trung đô nước Kim, lưng đúc hình con rồng uốn khúc giữ hạt châu, mỗi tay vịn chạm một con mãnh hổ, vốn là bảo tọa của hoàng đế nước Kim. Thành Cát Tư Hãn nghĩ ngợi trầm tư, nhớ tới những gian nan nguy hiểm thời thanh niên, nhớ tới mẹ tới vợ, bốn con trai và con gái, nhớ tới vô số phi tần xinh đẹp, nhớ tới quân đội bách chiến bách thắng, tới đế quốc rộng lớn mênh mông, tới cường địch sắp gặp mặt.
Y tuy đã già nhưng tai vẫn còn rất thính, chợt nghe xa xa có tiếng một con ngựa hí lên thê thảm rồi đột nhiên im bặt. Y biết đó là một con ngựa già mắc bệnh không chữa được, chủ nhân không nỡ nhìn thấy nó đau khổ nên một đao chém chết. Y chợt nghĩ:
- Mình đã già rồi, lần này xuất chinh, liệu còn sống mà trở về không? Nếu mình mất mạng trên chiến trường, bốn đứa con trai tranh nhau chức đại hãn, há chẳng phải là long trời lở đất sao? Ờ, chẳng lẽ mình lại không bao giờ chết à?
Bất kể anh là đại anh hùng đánh đâu thắng đó không ai không sợ, nhưng khi tinh lực suy dần, nghĩ tới chữ chết trong lòng cũng không khỏi có cảm giác run sợ.
Y nghĩ:
- Nghe nói ở phương nam có một bọn người gọi là đạo sĩ, có thể dạy người ta thành tiên, trường sinh bất lão, rốt lại không biết đúng không?
Bèn vỗ tay hai tiếng gọi một tên Tiễn đồng vệ sĩ, sai đi gọi Quách Tĩnh vào trướng.
Giây lát Quách Tĩnh đã tới, Thành Cát Tư Hãn hỏi tới chuyện ấy. Quách Tĩnh nói:
- Trường sinh thành tiên thì hài nhi không biết là thật hay giả, nhưng nói luyện khí thổ nạp, kéo dài tuổi thọ thì quả là có thật.
Thành Cát Tư Hãn cả mừng, nói:
- Ngươi biết những người ấy à? Mau tìm một người tới gặp ta.
Quách Tĩnh nói:
- Loại kẻ sĩ có đạo ấy nếu tùy tiện mời gọi thì nhất định họ không tới đâu.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Không sai, ta phái một viên đại quan đem lễ vật mời họ lên bắc. Ngươi nói lần này nên mời ai?
Quách Tĩnh nghĩ thầm:
- Huyền môn chính tông trong thiên hạ thì có phái Toàn Chân. Trong Toàn Chân lục tử thì Khưu đạo trưởng võ công cao nhất, lại rất hăng hái, hoặc giả có thể mời được.
Lúc ấy bèn nói tên họ Trường Xuân tử KhưuXử Cơ.
Thành Cát Tư Hãn cả mừng, lập tức gọi viên thư ký vào, nói qua câu chuyện bảo y thảo chiếu. Viên thư ký mới rồi bị y đánh một trận, ngẫm nghĩ hồi lâu, viết rằng: “Trẫm có việc, ngươi tới ngay”, học lối lễ pháp của đại hãn, trên chiếu thư cũng chỉ viết sáu chữ, tự cho rằng lần này nhất định sẽ được xứng chỉ. Nào ngờ Thành Cát Tư Hãn vừa nghe thấy lại cả giận, lại vung roi đánh túi bụi, chửi:
- Ta nói với bọn cẩu vương như thế chứ lại có thể nói với kẻ sĩ có đạo như thế à? Phải viết thật dài, viết cho khiêm tốn lễ độ.
Viên thư ký phủ phục dưới đất, thảo chiếu rằng:
- Trời ghét Trung nguyên kiêu sa quá đáng, trẫm ở sa mạc thương xót dân đen, theo chất phác thích yên lành, bỏ xa xỉ theo kiệm ước, mỗi manh áo mỗi miếng ăn đều cùng chia sẻ với bọn chăn trâu nuôi ngựa. Coi nhân dân tựa con đỏ, nuôi kẻ sĩ như anh em, mưu vốn hòa, ơn vốn chứa. Luyện muôn quân lấy thân yêu làm trước, gặp trăm trận không hèn nhát lùi sau. Trong bảy năm thành đại nghiệp, giữa lục hợp dựng cơ đồ. Không phải trẫm có đức, vốn là Kim bất nhân, nhờ thế được trời phù hộ, lên ngôi chí tôn. Nam liền Triệu Tống, bắc giáp Hồi Hột, đông hạ tây di thảy đều xưng thần. Nghĩ nước Thuyền Vu ta ngàn năm trăm đời lại đây chưa từng được như thế. Nhưng trách nhiệm thì to, trị bình còn thiếu, vả lại đóng thuyền làm chèo, còn mong qua sông, tìm hiền chọn tài, muốn an thiên hạ. Trẫm từ lên ngôi đến nay chuyên cần chính sự nhưng ngôi Tể tướng còn chưa gặp người. Nghe nói thầy Khưu tiên sinh rõ đời giữ mực, học rộng biết nhiều, hiểu sâu đạo lý, đạo đầy đức sáng, ôm phong thái kẻ quân tử, có tiết tháo bậc thượng nhân, ở trong hang núi, náu thân ẩn hình. Phát dương giáo hóa tổ tông, khiến kẻ sĩ có đạo ùn ùn theo về không sao kể xiết Từ sau cơn binh lửa, lại biết tiên sinh còn ẩn cư ở quê cũ sơn Đông, lòng trẫm vô cùng ngưỡng mộ.
Viên thư ký viết tới đó, ngẩng đầu hỏi:
- Đã đủ dài chưa?
Thành Cát Tư Hãn cười nói:
- Một mớ chữ như thế thì đủ rồi. Ngươi viết thêm là ta phái đại quan Lưu Trọng Lộc người Hán đi đón y, xin y nhất định phải tới.
Viên thư ký lại viết:
- Há chẳng nghe việc chung xe trên sông Vị, ba bận tới lều tranh? Chỉ vì sông núi xa xôi, cho nên đón rước thất lễ. Trẫm chỉ chừa chỗ ngồi nghiêng, trai giới tắm gội, chọn sai quan cận thị Lưu Trọng Lộc mang ngựa khỏe xe bền, không nề ngàn dặm, kính mong tiên sinh tạm khuất gót tiên, không vì sa mạc xa thẳm ngại ngần, hoặc vì việc thương dân lo đời, hoặc dạy trẫm bảo thân giữ mạng. Trẫm đợi chờ tiên giá, chỉ mong tiên sinh sau lúc coi rẻ chỉ ừ một tiếng là được. Nay tỏ ý trẫm trong muôn một, viết rõ nơi chiếu chương, rất mong tiên sinh đã rõ đầu mối đạo lớn, điều thiện không gì không nên làm, há làm trái nguyện vọng của chúng sinh sao? Vì vậy có chiếu tỏ ý, mong thầy hiểu cho.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Được, cứ thế mà làm Rồi thưởng cho viên thư ký năm lượng vàng, lại sai Quách Tĩnh viết một lá thư khẩn khoản mời Khưu Xử Cơ ngay hôm sau phái Lưu Trọng Lộc phụng chiếu xuống nam. (Xét: tờ chiếu thư Thành Cát Tư Hãn gửi mời Khưu Xứ Cơ này là theo nguyên văn mà sách sử ghi chép ).
Hôm sau Thành Cát Tư Hãn đại hội chư tướng bàn việc tây chinh. Trong đại hội phong Quách Tĩnh làm Na nhan sai thống suất một vạn người ngựa. Na nhan là quan hàm tối cao của Mông Cổ, không phải là bậc đại tướng thân quý thì không thể được danh hiệu ấy.
Lúc ấy Quách Tĩnh võ công tăng tiến, nhưng nói về việc hành quân hãm trận thì không biết gì, chỉ đành thỉnh giáo các đại tướng Triết Biệt, Tốc Bất Đài Nhưng tư chất y vốn ngu xuẩn, việc chiến trận lại biến hóa đa đoan, trong một giờ ba khắc làm sao học được? Nhìn thấy các đại tướng điểm binh nhận lương, chọn chiến mã xét khí giới, ai cũng bận rộn. Mười lăm vạn đại quân tây chinh, đi qua vùng giá rét không có cỏ mọc, thời gian chuẩn bị lần này quả không phải tầm thường. Lúc ấy mọi sự vụ y hoàn toàn không biết, đành phân phó cho mười viên Thiên phu trưởng dưới quyền chia nhau liệu lý, Triết Biệt và Đà Lôi hai người thỉnh thoảng ghé qua chỉ dẫn.
Qua hơn một tháng, càng nghĩ càng thấy bất ổn, tự biết mình kém việc dùng mưu nghĩ kế, đánh vào hàng trăm vạn quân đối phương thì Hàng long thập bát chường và Cửu âm chân kinh lại hoàn toàn vô dụng, chỉ cần ra một lệnh không đúng thì toàn quân lập tức tan rã, không những làm thương tổn oai danh của Thành Cát Tư Hãn mà còn làm một vạn con người dưới quyền chết uổng mạng. Hôm ấy định tới gặp Thành Cát Tư Hãn từ chức, xin làm một tên lính thường, lúc gặp giặc chỉ một mình một ngựa xông vào hãm trận chém tướng là được, đột nhiên thân binh vào báo ở ngoài trướng có hơn một ngàn người Hán cầu kiến.
Quách Tĩnh cả mừng, nghĩ thầm:
- Khưu đạo trưởng tới mau thật.
Vội ra ngoài đón, chỉ thấy trên thảo nguyên có một đám người, đều ăn mặc theo lối ăn mày, đột nhiên sửng sốt. Ba người bước lên khom lưng làm lễ, nguyên là Lỗ Hữu Cước và hai trưởng lão Giản Lương trong Cái bang. Quách Tĩnh vội hỏi:
- Các ngươi được tin của Hoàng cô nương chưa?
Lỗ Hữu Cước nói:
- Bọn tiểu nhân tìm kiếm khắp nơi vẫn chưa được tin tức bang chủ, nghe nói quan nhân mang quân tây chinh nên vội tới giúp đỡ.
Quách Tĩnh rất ngạc nhiên, hỏi:
- Làm sao các ngươi biết được?
Lỗ Hữu Cước nói:
- Đại hãn phái người mang chiếu thư triệu kiến Khưu đạo trưởng, bang tôi được tin của quan nhân từ phái Toàn Chân.
Quách Tĩnh ngẩn ra nửa ngày, nhìn nhìn đám mây trắng lững lờ phía nam, nghĩ thầm:
- Bang chúng Cái bang đi khắp thiên hạ mà cả họ cũng không biết nơi Dung nhi hạ lạc, chỉ e là nàng dữ nhiều lành ít.
Nghĩ tới đó mi mắt đỏ lên. Lúc ấy liền hạ lệnh cho thân binh thu xếp chỗ ăn chỗ ở cho bang chúng, mình thì đi bẩm với đại hãn.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Tốt, cứ phiên chế hết vào dưới cờ của ngươi là được.
Quách Tĩnh xin từ chức, Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:
- Ai sinh ra đã biết đánh trận? Không biết à, cứ đánh vài trận là biết. Ngươi theo ta từ nhỏ đến lớn, sợ gì chuyện mang quân đánh nhau? Con rể Thành Cát Tư Hãn lại không biết đánh trận à?
Quách Tĩnh không dám nói nữa, trở về trong trướng, vô cùng lo buồn. Lỗ Hữu Cước hỏi biết chuyện, an ủi vài câu. Đến xế chiều, Lỗ Hữu Cước vào trướng nói:
- Nếu sớm biết thế này thì tiểu nhân đã đem theo bộ Tôn tử binh pháp hoặc Thái công thao lược từ nam lên thì hay quá.
Câu ấy đề tỉnh Quách Tĩnh, y sực nhớ trong người có bộ di thư của Vũ Mục, đó đều là yếu quyết hành quân hãm trận, tại sao lại quên? Lúc ấy bèn rút bộ sách trong bọc ra, thắp đèn ngồi đọc suất đêm, đến mãi trưa hôm sau mới thấy hơi mỏi mệt.
Trong bộ sách ấy phàm những việc bày mưu, xét việc tấn công, phòng ngự, luyện quân, khiển tướng, bày trận, dã chiến cho tới tình thế động tĩnh an nguy, đạo lý dùng chính xuất kỳ, không gì không giảng giải rõ ràng. Hôm trước Quách Tĩnh lúc chìm thuyền đã đọc lướt qua một lần nhưng không hề để ý, bấy giờ đang lúc cần dùng, chỉ cảm thấy không câu nào không phả i là danh ngôn chí lý.
Trong sách có nhiều chỗ không hiểu, bèn mời Lỗ Hữu Cước tới thỉnh giáo. Lỗ Hữu Cước nói:
- Tiểu nhân nhất thời không rõ, để suy nghĩ thêm.
Y chỉ ra khỏi trướng giây lát liền trở vào giải thích rất rõ ràng, Quách Tĩnh cả mừng, liên tiếp thỉnh giáo y. Nói ra cũng kỳ quái, Lỗ Hữu Cước vừa hỏi thì không thể trả lời ngay trước mặt, nhưng chỉ cần ra ngoài suy nghĩ một lúc là lập tức tâm tư linh mẫn, những điều nghi nan lập tức giải thích được ngay. Quách Tĩnh lúc đầu cũng không để ý, nhưng liên tiếp mấy ngày lần nào cũng thế, bất giác cảm thấy kỳ lạ.
Tối hôm ấy, Quách Tĩnh hỏi y một chữ trong sách. Lỗ Hữu Cước lại nói không nhớ ra, phải ra ngoài suy nghĩ. Quách Tĩnh nghĩ thầm:
- Những chỗ khó khăn trong sách ngươi từ từ suy nghĩ cũng còn được nhưng nếu không biết một chữ thì chẳng lẽ lại suy nghĩ mà biết à?
Y tuy thân làm đại tướng nhưng rốt lại còn trẻ tuổi, tính tình vẫn còn trẻ con, chờ Lỗ Hữu Cước ra ngoài lập tức theo cửa sau trướng lần ra, rình trong bãi cỏ, muốn xem rốt lại y giở trò gì.
Chỉ thấy y vội vã đi mau vào một gian lều nhỏ, không bao lâu lập tức trở ra.
Quách Tĩnh vội trở vào trướng. Lỗ Hữu Cước bước vào, nói:
- Tiểu nhân nghĩ ra rồi.
Rồi nói rõ âm nghĩa chữ ấy. Quách Tĩnh cười nói:
- Lỗ trưởng lão, ngươi đã có thầy riêng, sao không mời tới đây gặp ta?
Lỗ Hữu Cước sửng sốt nói:
- Không có đâu.
Quách Tĩnh nắm tay y cười nói:
- Chúng ta đi xem nào.
Nói xong kéo y ra khỏi trướng, đi về phía gian lều nhỏ.
Trước lều có hai bang chúng Cái bang canh gác, thấy Quách Tĩnh tới, cùng ho khan một tiếng. Quách Tĩnh nghe tiếng ho, vội kéo Lỗ Hữu Cước sãi chân sấn mau vào. Vừa vén cửa lều lên, chỉ thấy sau trướng còn rung rung, rõ ràng mới có người ra ngoài. Quách Tĩnh rảo chân đuổi theo, vạch cửa sau ra chỉ thấy một bãi cỏ dài, không có bóng người, không kìm được ngẩn ra không nói được tiếng nào.
Quách Tĩnh quay lại hỏi Lỗ Hữu Cước, y nói gian lều này là nơi ở của y, hoàn toàn không có ai ở trong. Quách Tĩnh không hiểu, lại hỏi y mấy chỗ nghi nan trong bộ di thư của Vũ Mục. Lỗ Hữu Cước đến mãi sáng hôm sau mới trả lời rõ ràng. Quách Tĩnh biết người trong trướng không có ác ý gì với mình, chỉ là không muốn gặp mặt, đoán ắt là một vị cao nhân trên giang hồ, cũng không tiện làm khó, lúc ấy cũng gác qua một bên.
Y chiều tối nghiền ngẫm binh thư, ban ngày thì theo sách thao luyện quân sĩ.
Lại qua hơn tháng, Thành Cát Tư Hãn binh lương đã đầy đủ, một vạn quân dưới quyền Quách Tĩnh cũng đã luyện tập thuần thục Bát quái trận pháp Thiên phúc, Địa tải, Phong dương, Vân thùy, Long phi, Hổ dực, Điểu tường, Xà phiên. Trận Bát quái này vốn là Gia Cát Lượng theo phép cổ sáng chế ra, truyền tới tay Nhạc Phi lại thêm nhiều phép tắc biến hóa.
Nhạc Phi lúc trẻ tuổi chỉ thích dã chiến, quan trên là Tôn Trạch nói:
- Ngươi trí dũng tài năng, bậc lương tướng thời cổ cũng không hơn được. Nhưng thích đánh nhau ngoài đồng trống không phải là kế vạn toàn.
Nên dạy trận pháp cho. Nhạc Phi nói:
- Bày trận đánh nhau là chuyện thường của binh pháp, còn vận dụng ảo diệu là ở lòng mình.
Tôn Trạch rất tán thành lời ông. Về sau Nhạc Phi chinh phạt càng nhiều, cũng biết cố chấp vào trận pháp là không được, nhưng lấy trận pháp để dạy tướng luyện quân, dùng trên chiến trường cũng rất có công hiệu khắc địch chế thắng, những kinh nghiệm ấy đều được ghi lại trong bộ Vũ Mục di thư.
Hôm ấy trời trong gió mát, trải dài muôn dặm, xanh biếc một màu. Mười lăm vạn người ngựa Mông Cổ bày hàng trên thảo nguyên. Thành Cát Tư Hãn xem chiều trời, ra lệnh xuất chinh, nói với chư vương chúng tướng:
- Trên đá không có da, mạng người có lúc hết. Râu tóc ta đều đã bạc cả rồi, lần này xuất chinh chưa chắc đã có thể còn sống mà trở về. Đêm qua phi tử Dã Toại nói với ta việc ấy, ta nghĩ thấy không sai, hôm nay ta muốn lập một đứa con, sau khi ta chết sẽ giương cao ngọn cờ đại độc của ta.
Các tướng khai quốc theo Thành Cát Tư Hãn đánh đông dẹp tây, đến lúc ấy đã thân qua trăm trận, đều đã râu tóc đốm bạc, nghe đại hãn chợt muốn lập người nối ngôi, đều bất giác vừa mừng vừa sợ nhất tề nhìn vào mặt y, im lặng nghe y nói ra tên người nối ngôi.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Truật Xích, ngươi là con trưởng, ngươi nói ta nên lập ai?
Truật Xích tim đập thình thịch, y tinh minh dũng cảm lập công nhiều nhất, lại là con trưởng, trước nay vẫn cho rằng sau khi phụ vương chết thì phải do y nối ngôi, lúc ấy đại hãn chợt hỏi như thế, không biết trả lời thế nào là tốt. Con thứ của Thành Cát Tư Hãn là sát Hợp Đài tính nóng như lửa, trước nay vốn bất hòa với đại ca, nghe phụ vương hỏi y, bèn kêu lên:
- Muốn Truật Xích nói, là muốn cho y nối ngôi à? Chúng con làm sao để thằng con hoang Miệt Nhi Khất Thích cai quản chứ?
Nguyên là lúc đầu Thành Cát Tư Hãn mới dấy nghiệp thì binh lực còn yếu, vợ từng bị kẻ thù là người Miệt Nhi Khất Thích bắt, sau mấy năm mới cướp được về, đã sinh được Truật Xích, chỉ là Thành Cát Tư Hãn không hề vì thế mà ghét bỏ, trước nay vẫn coi Truật Xích như con ruột.
Truật Xích nghe anh em nhục mạ như thế, đời nào nhịn được, sấn lên phía trước nắm cổ áo sát Hợp Đài, quát:
- Phụ vương chưa từng coi ta là người ngoài, mà ngươi lại làm nhục ta như thế! Ngươi có bản lĩnh gì giỏi hơn ta chứ? Ngươi chỉ là kẻ nóng nảy ngạo mạn mà thôi. Chúng ta cứ ra ngoài tỷ thí hơn thua, nếu ta bắn tên thua ngươi, ta sẽ chặt bỏ ngón tay cái, nếu ta tỷ võ thua ngươi, ta sẽ nằm dưới đất vĩnh viễn không đứng lên nữa!
Rồi quay đầu nhìn Thành Cát Tư Hãn nói:
- Xin phụ vương hạ chỉ!
Hai anh em nắm áo nhau, định liều mạng với nhau tại chỗ.
Các tướng nhao nhao đứng lên khuyên can, Bác Nhĩ Truật kéo tay Truật Xích, Mộc Hoa Lê kéo tay sát Hợp Đài. Thành Cát Tư Hãn nhớ lại lúc trẻ bị kẻ thù bức bách, ngay cả vợ cũng không bảo vệ được đến nỗi xảy ra chuyện tranh giành ngày hôm nay, không khỏi buồn bã im lặng. Các tướng đều trách sát Hợp Đài không nên nói tới chuyện cũ, làm cha mẹ đau lòng. Thành Cát Tư Hãn nói:
- Hai người buông tay ra, Truật Xích là con trưởng của ta, trước nay ta yêu y trọng y, từ nay không ai được nói tới chuyện ấy nữa.
Sát Hợp Đài buông Truật Xích ra, nói:
- Bản lĩnh của Truật Xích cao cường, ai cũng đều biết. Nhưng y không nhân từ bằng tam đệ Oa Khoát Đài, con suy cử Oa Khoát Đài.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Truật Xích, ngươi nói sao?
Truật Xích thấy tình hình như thế biết không còn mong gì được làm đại hãn nữa, y trước nay vẫn hòa hảo với tam đệ, lại biết y nhân ái, sau này sẽ không hại mình, bèn nói:
- Tốt lắm, con cũng suy cử Oa Khoát Đài.
Tứ vương tử Đà Lôi cũng không nói gì. Oa Khoát Đài từ chối không nhận.
Thành Cát Tư Hãn nói:
- Ngươi không cần nhường nhịn, đánh nhau thì ngươi không bằng đại ca nhị ca, nhưng ngươi đối đãi với người khác thân thiết trọng hậu, tương lai làm đại hãn thì chư vương chư tướng không đến nỗi tranh giành tàn hại lẫn nhau. Người Mông Cổ chúng ta chỉ cần mình không tự đánh mình thì thiên hạ không ai địch nổi, còn gì phải lo lắng nữa chứ?
Hôm ấy Thành Cát Tư Hãn mở tiệc mời chư tướng, ăn mừng thái tử mới lập.
Tướng sĩ uống rượu ăn tiệc đến khuya mới tan. Lúc Quách Tĩnh về doanh đã hơi say, đang định cởi áo đi ngủ, chợt một tên thân binh bước mau vào báo:
- Phò mã gia, không xong rồi, Đại vương tử và Nhị vương tử say rượu mang quân chém giết lẫn nhau.
Quách Tĩnh cả kinh, nói:
- Mau đi báo cho đại hãn.
Tên thân binh kia nói:
- Đại hãn say rồi, gọi mãi không tỉnh.
Quách Tĩnh biết Truật Xích và sát Hợp Đài đều có người thân tín, dưới cờ đều là tinh binh mãnh tướng, nếu chém giết nhau thì nhất định sẽ làm tổn thương nguyên khí của quân Mông Cổ, nhưng lúc ban ngày hai người trước mặt đại hãn còn suýt đánh nhau, bây giờ lại đều đã say, mình mà tới can thì làm sao can được.
Nhất thời bàng hoàng không có cách nào, đi đi lại lại trong trướng, lấy tay gõ vào trán, nói một mình:
- Nếu Dung nhi ở đây, nhất định sẽ chỉ được mình một cách.
Chợt nghe xa xa có tiếng quát tháo vang lên, hai đạo quân đã bắt đầu giao chiến, Quách Tĩnh càng thêm hoảng hốt, chợt thấy Lỗ Hữu Cước từ ngoài chạy vào, đưa lên một trang giấy, trên viết:
- Dùng trận Xà phiên chặn ngang hai bên, dùng trận Hổ dực bao vây kẻ nào không chịu phục tùng.
Trong mấy hôm ấy, Quách Tĩnh đã đọc thuộc làu bộ di thư của Vũ Mục, đột nhiên thấy hai hàng chữ ấy, lập tức tỉnh ngộ, kêu lên:
- Tại sao mình lại ngu như thế Không nghĩ ra được, binh thư đọc để làm gì?
Lập tức ra lệnh cho quân. Quân Mông Cổ quân lệnh nghiêm minh, tướng sĩ tuy quá nửa say rượu, nhưng vừa nghe hiệu lệnh lập tức mặc giáp lên ngựa, trong giây lát đã bày thành trận thế chỉnh tề.
Quách Tĩnh sai trung quân đánh ba tiếng trống, thổi tù và làm hiệu, tiền đội quát tháo xông về phía đông bắc. Đi được vài dặm, thám báo về báo rằng thân binh của Đại vương tử và Nhị vương tử đã đối trận, xông vào giao chiến, chỉ nghe tiếng ha hô ha hô vang lên ầm ầm. Quách Tĩnh trong lòng cuống lên:
- Chỉ sợ mình tới chậm mất một bước, thì trường đại họa này không cản trở kịp nữa.
Vội vung tay ra lệnh, ba đội Thiên trục bên trái phía sau cuốn về bên phải chuyển lên, ba đội Địa trục bên phải phía sau bày thành đuôi trận, các đội Thiên xung, Địa xung, Tây bắc phong, Đông bắc phong trong hữu quân hậu quân giữ bên phải trận, các đội tương ứng bên tả quân giữ bên trái trận, theo ngọn cờ đại độc trong quân của Quách Tĩnh bày thành trận Xà phiên, xông thẳng lên trước.
Thuộc hạ của Truật Xích và sát Hợp Đài mỗi bên có hơn hai vạn người, đang vung trường đao tiếp chiến, trận Xà phiên của Quách Tĩnh đột nhiên đánh ngay vào giữa, quân dung nghiêm chỉnh. Đôi bên vừa sửng sốt, đã có vẻ hỗn loạn. Chỉ nghe sát Hợp Đài cao giọng quát:
- Ai đấy? Ai đấy? Là giúp ta hay tới giúp thằng con hoang Truật Xích?
Quách Tĩnh không đếm xỉa gì tới, cờ lệnh huy động, các toán quân chuyển động, trận Xà phiên lập tức biến thành trận Hổ dực quay về bên trái, bốn đội Thiên xung của hữu quân tiền quân giữ đầu trận, các đội còn lại vây hai bên quân sát Hợp Đài, chỉ có hai đội Tả thiên Tiền xung quay về phía quân Truật Xích, giữ vững chân trận.
Lúc ấy sát Hợp Đài đã thấy rõ cờ hiệu của Quách Tĩnh, cao giọng mắng:
- Ta đã biết thằng giặc người Hán kia không phải là người tốt.
Rồi hạ lệnh xông vào quân Quách Tĩnh xung sát. Nhưng trận Hổ dực này biến hóa tinh vi, oai lực của hai cánh rất mạnh, là thế trận mà năm xưa Hàn Tín đại phá Hạng Vũ ở Cai Hạ sáng tạo ra. Binh pháp nói:
- Đông gấp mười thì vây.
Vốn là phải có binh lực đông gấp mười mới có thể bao vây quân địch, nhưng trận này vô cùng biến ảo, lại có thể lấy ít vây nhiều.
Bộ thuộc của sát Hợp Đài thấy từng đội từng đội nhỏ trong quân Quách Tĩnh tung hoành qua lại, không biết có bao nhiêu nhân mã, trong lòng cảm thấy ngờ sợ. Trong giây lát, hơn hai vạn quân của sát Hợp Đài đã bị cắt ra tan nát, hai cánh tả hữu không cứu viện cho nhau được. Lúc họ đánh nhau với quân Truật Xích, đã vốn không có lòng giao chiến, một là đối thủ đều là người trong bộ tộc, quá nửa là quen biết nhau, hai là lại sợ đại hãn trị tội, lúc ấy bị trận thế của Quách Tĩnh đánh cho rối loạn, lại càng không có ý liều mạng, chỉ nghe cánh trung quân của Quách Tĩnh quát lớn:
- Chúng ta đều là anh em Mông Cổ, không nên tàn sát lẫn nhau. Mau ném cung tên đao thương xuống đất, thì khỏi bị đại hãn trừng phạt xử tử, Các tướng sĩ thấy rất hợp ý mình, nhao nhao xuống ngựa, ném võ khí xuống đất.
Sát Hợp Đài suất lĩnh hơn một ngàn quân sĩ thân tín xông thẳng vào trung quân của Quách Tĩnh. Chỉ nghe ba tiếng thanh la vang lên, tám đội binh mã từ tám hướng đổ tới bao vây, trong chớp mắt hơn một ngàn kỵ binh đều vướng dây ngã ngựa. Tám đội quân của Quách Tĩnh cứ bốn năm người đè bắt một người, trói hết tất cả quân thân tín của sát Hợp Đài.
Truật Xích thấy Quách Tĩnh đánh tan quân sát Hợp Đài, bất giác vừa sợ vừa mừng, đang định bước lên nói chuyện, chợt nghe tiếng tù và vang lên, tiền đội của Quách Tĩnh biến thành hậu đội, hậu đội biến thành tiền đội bốn phía đổ tới bao vây. Truật Xích lâm trận đã nhiều nhưng thấy loại trận thế này cũng vô cùng kinh nghi, vội hạ lệnh cự chiến, lại thấy tám đội quân của Quách Tĩnh chia làm mười hai đội nhỏ, không xông lên trước mà lui về phía sau. Truật Xích càng thêm ngạc nhiên, nào biết mười hai đội nhỏ ấy chia làm Đại hắc Tý, Phá địch sửu, Tả đột Dần, Thanh xà Mão, Thôi hung Thìn, Tiền xung Tỵ, Đại xích Ngọ, Tiên phong Mùi, Hữu kích Thân, Bạch vân Dậu, Quyết thắng Tuất, Hậu xung Hợi, án theo mười hai chi, kỳ chính thay đổi, ruổi rong qua lại. Trận pháp của mười hai đội luân phiên thay đổi, hoặc hữu quân đánh vào bên trái, hoặc tả quân đánh vào bên phải, đánh nhau một trận, quân của Truật Xích lập tức tan vỡ. Không đầy thời gian một bữa cơm, Truật Xích cũng bị bắt sống.
Truật Xích nhớ lần đầu gặp Quách Tĩnh từng đánh y chết đi sống lại, sát Hợp Đài nhớ tới lúc ấy mình xua chó săn cắn y, đều sợ y thừa cơ trả thù, sau lúc run sợ đều tỉnh cả rượu, lại sợ cha trừng phạt, đều vô cùng hối hận.
Quách Tĩnh bắt được hai người, nghĩ thầm mình rốt lại cũng là người ngoài, làm được việc lớn thế này cũng không biết là họa hay phúc, đang muốn tìm Oa Khoát Đài và Đà Lôi để bàn bạc, đột nhiên nghe tiếng tù và thổi vang, trong ánh lửa sáng thấy ngọn cờ đại độc chín chòm lông của đại hãn từ xa lướt mau tới.
Thành Cát Tư Hãn sau khi tỉnh rượu nghe báo hai con đem quân đánh nhau, đang lúc vừa sợ vừa giận, không kịp mặc áo khoác giáp, để đầu trần tới mau cản trở. Phóng gần tới nơi chỉ thấy tướng sĩ hai bên xếp hàng ngồi dưới đất, kỵ binh của Quách Tĩnh đang giám thị bên cạnh, lại thấy hai con tuy vẫn ngồi trên ngựa nhưng đều bị tám võ sĩ cầm đao vây chặt, bất giác rất ngạc nhiên.
Quách Tĩnh bước lên lạy rạp xuống đất bẩm rõ nguyên do. Thành Cát Tư Hãn thấy một trường đại họa lại được y xóa bỏ không còn dấu vết, vô cùng mừng rỡ. Lúc y vội vã tới, nghĩ thầm hai đội quân Mông Cổ tinh nhuệ mà hai con thống lĩnh tàn sát lẫn nhau ắt sẽ tử thương rất nặng, hai con biết đâu cũng phải phơi xác trên mặt đất, nào ngờ hai con không việc gì ba quân vẫn còn nguyên vẹn, quả thật vô cùng mừng rỡ. Lúc ấy đại hội chư tướng, chửi mắng Truật Xích và sát Hợp Đài một trận tàn tệ, trọng thưởng cho Quách Tĩnh và tướng sĩ bộ thuộc, nói với Quách Tĩnh:
- Ngươi còn nói không biết cầm quân đánh nhau nữa không? Công lao trận này so ra còn lớn hơn công đánh chiếm Trung đô nước Kim. Thành trì của địch nhân hôm nay đánh không được thì ngày mai vẫn có thể đánh, chứ nếu hai con ta và bấy nhiêu tinh binh đều chết thì làm sao sống lại được?
Quách Tĩnh đem vàng bạc súc vật được thưởng chia hết cho quân sĩ, trong quân ầm ầm reo mừng. Các tướng thấy Quách Tĩnh lập được công lớn cũng đều tới doanh của y chúc mừng.
Quách Tĩnh đưa khách về rồi, lấy tờ giấy mà Lỗ Hữu Cước đưa cho xem kỹ, thấy nét chữ run rẩy, rất là vụng về, có quá nửa đúng là do Lỗ Hữu Cước viết, nhưng lại nảy ý nghi ngờ, hai trận Xà phiên Hổ dực tuy mình dùng để luyện tập quân sĩ nhưng chưa từng nói tên trận với Lỗ trưởng lão, lúc thỉnh giáo y những chỗ khó hiểu trong binh thư cũng không có chỗ nào quan hệ với trận thế này, tại sao y biết được hai trận này? Chẳng lẽ y đọc trộm binh thư của mình à?
Lúc ấy bèn mời Lỗ Hữu Cước vào trướng, nói:
- Lỗ trưởng lão, nếu ngươi muốn đọc bộ binh thư này thì ta cho ngươi mượn cũng được.
Lỗ Hữu Cước cười nói:
- Gã ăn mày nghèo này suốt đời quyết không làm tướng quân, còn suất lĩnh bọn ăn mày nhỏ cũng không cần tới binh pháp, đọc binh thư cũng chỉ vô dụng.
Quách Tĩnh chỉ vào tờ giấy nói:
- Làm sao ngươi biết được trận Xà phiên, Hổ dực?
Lỗ Hữu Cước nói:
- Quan nhân từng nói với tiểu nhân, chẳng lẽ quên rồi à?
Quách Tĩnh thấy lời nói của y lần này không thật thà, càng nghĩ càng thấy kỳ quái, nhưng thủy chung vẫn không hiểu y giấu diếm chuyện gì.
Hôm sau Thành Cát Tư Hãn lên trướng điểm tướng. Đội tiền quân làm tiên phong do sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài thống lĩnh, tả quân do Truật Xích thống linh, hữu quân do Quách Tĩnh thống lĩnh. Ba đội tiền quân, tả quân, hữu quân đều có ba vạn người ngựa. Thành Cát Tư Hãn mang theo Đà Lôi, tự chỉ huy sáu vạn nhân mã làm hậu viện.
Mỗi quân sĩ đều dắt theo bốn con ngựa, thay phiên cưỡi để giữ sức ngựa, tướng lãnh còn mang theo nhiều hơn. Mười lăm vạn người, gần một trăm vạn con ngựa. Tiếng tù và cùng vang lên, trống nổi ầm ầm, ba vạn quân tiên phong trong đội tiền quân người mạnh ngựa khỏe ùn ùn kéo về phía tây. Đại quân dần dần đi xa, vào đất Hoa Thích Tử Mô rồi, dọc đường thế như chẻ tre. Ma Ha Mạt binh lực tuy đông nhưng còn lâu mới là đối thủ của quân Mông Cổ. Quách Tĩnh đánh thành phá địch cũng lập được không ít công lao.