watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:12:0418/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thanh Cung Mười Ba Triều 76 - 100 - Trang 8
Chỉ mục bài viết
Thanh Cung Mười Ba Triều 76 - 100
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tất cả các trang
Trang 8 trong tổng số 9

Hồi 95
GIA KHÁNH ĐẾ KẾ VỊ CÀN LONG

Càn Long đã quá già. Ngài truyền ngôi lại cho Gia Khánh hoàng đế, đứng địa vị của một thái thượng hoàng hướng dẫn con tập sự nghề vua. Đất nước Trung Hoa lúc này còn được thanh bình, quần chúng vẫn được an cư lạc nghiệp, vua chúa Mãn Thanh vẫn còn được vững tâm trên ngai vàng thống trị dân tộc Hán.

Năm đó tổ chức lễ Vạn thọ thứ tám mươi sáu của thái thượng hoàng. Không những văn võ bá quan toàn triều mà cả đến các bối lặc, sứ thần ngoại quốc đều kéo nhau nườm nượp đến chúc thọ. Gia Khánh hoàng đế hạ chỉ thết yến ở ba đại điện là Thái Hoà, Trung Hoà và Bảo Hoà.

Ngài cho triệu tập ba ngàn vị quan viên, thân sĩ tuổi ngoài sáu mươi, cử hành Thiên Tẩu yến tại vườn Minh Viên, ở trong cung thái thượng hoàng. Ngài đích thân đem các viên ngọc Đông châu Mạo châu và Đông châu Triều châu của Hiếu Hiền hoàng hậu để lại cho hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp. Ngài còn thưởng cho bọn hoàng tử, phúc tấn rất nhiều những trân bảo khác.

Hồi đó chỉ có Xuân A Phi là còn sống. Bà ngồi hầu bên cạnh. Thái thượng hoàng nhìn Xuân A phi, trong lòng bỗng nhớ lại bao kỷ niệm êm đẹp thuở xưa mà xúc động can tràng, bồi hồi buồn bã. Giữa lúc đang ngậm ngùi não ruột ấy bỗng từ bên ngoài viên thái giám bưng vào một tráp nhỏ, nói đấy là một thứ đồ chơi của tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Văn Tương hiếu kính Thái thượng hoàng.

Gia Khánh hoàng đế xem qua không hiểu cái gì, bèn bảo viên thái giám mở tráp ra xem thì thấy bên trong có mô hình một toà nhà nhỏ, giữa nhà có một tấm bình phong, trước mặt tấm bình phong này có một cái bàn trên bày đủ bút nghiên giấy mực. Mặt sau cái tráp đặt một bộ máy. Nếu phát động bộ máy đó, người ta sẽ thấy một cô gái Tây Dương xuất hiện, trước hết chạy tới dưới mái hiên, rồi quay mặt ra ngoài làm lễ Tam quy cửu khấu. Hành lễ xong, cô gái quay vào đứng trước mặt bàn, rót nước vào nghiên để mài mực, lấy một tờ giấy hoa tiên màu đỏ từ đằng sau bức bình phong bước ra, tay cầm cây bút chấm mực rồi viết trên giấy trắng bốn chữ "Vạn thọ vô cương" bằng chữ Mãn. Viết xong bốn chữ thì bộ máy cũng ngừng chuyển vận, người trong chiếc tráp cũng không cử động nữa.

Thái thượng hoàng xem xong lấy làm thích lắm, vội bảo thương cho Phúc Văn Tương mười vạn lạng bạc. Ngài lại viết một chữ "Thọ" dưới đề lạc khoản "Thập toàn lão nhân", đều thưởng cho Tương cả.

Phúc Văn Tương tuy được Thái thượng hoàng thưởng tứ nhưng món đồ chơi của y trị giá không kém mười vạn lạng bạc mà y phải dốc hết túi ra để làm, đó còn chưa kể thêm một mạng người nữa.

Nguyên lai đồ chơi nọ vốn do một tên thân tuỳ tâm phúc của Tương trong nha môn chế ra. Hắn biết ý tổng đốc muốn dâng lễ thọ thật đặc biệt lên thái thượng hoàng, nên đã bò lên nóc nhà, lấy một tấm vải buộc chặt lấy đầu mình rồi nay tưởng mai suy, suy nghĩ mãi, cuối cùng nghĩ ra được một món đồ chơi tuyệt diệu này. Hắn đóng cửa lại, tỉ mỉ lắm mới làm xong, đem dâng quan tổng đốc.

Phúc Văn Tương xem qua một lần trình diễn, khen lấy khen để. Nhưng khi xem đến bốn chữ "Vạn thọ vô cương" chỉ bằng chữ Hán, sợ Thái thượng hoàng không vui, nên lại bảo thay bằng chữ Mãn. Tên thân tuỳ lại bò lên mái nhà, suy mãi hơn hai chục hôm mới chế thêm được bộ máy viết bốn chữ Mãn, Phúc Văn Tương bèn thưởng cho tên thân tuỳ hai vạn lạng bạc. Nhưng khi dùng hết trí thông minh của mình, tên thân tuỳ bỗng trở nên ngây ngây ngô ngô, rồi về nhà, không đầy hai tháng chết luôn.

Phúc Văn Tương cho người đem món đồ chơi đó lên kinh. Qua cửa quán thứ nhất, người của Tương không thoát khỏi tay Hoà Khôn, tiêu luôn một lúc năm vạn lạng bạc, món đồ chơi nọ mới được phép vào cung. Khi đến Ninh Thọ cung, viên thái giám trông coi cung này cũng đòi tiền và doạ: "Nếu không có tiền, bộ máy này chỉ chạy tới ba chữ "vạn thọ vô" là ngừng. Lúc đó Thái thượng hoàng tức giận thì bọn này chẳng chịu tội thay cho đâu.

Bọn Tương sợ quá lại phải lo lót thêm ba vạn lạng. Câu chuyện này Gia Khánh hoàng đế đều rõ cả, nên có ý muốn điều tra Hoà Khôn, nhưng chỉ tại Thái thượng hoàng còn đó đành phải nín nhịn đợi chờ. Trước đây, Hoà Khôn dâng cho ngài viên ngọc như ý thì ngài vốn đã không ưa Khôn bèn ghét bỏ luôn viên ngọc đó. Theo phong tục Mãn Châu thì khi năm hết tết tới, bọn vương công đại thần phải dâng lên một viên ngọc như ý để tụng nhà vua được như ý suốt đời. Đến khi Gia Khánh hoàng đế lên ngôi, ngài hạ chỉ cấm hẳn việc dâng tiến loại ngọc này. Trong sớ chỉ dụ của ngài có hai câu: "Chư thần đều cho là như ý, riêng ý trẫm thì lại là bất như ý".

Bọn bá quan văn võ tiếp chỉ dụ, thấy hoàng đế căm giận cái gọi là "như ý" đó, chẳng anh nào hiểu lý do tại sao, đành phải phụng chỉ, không dám sai lời. Thế là từ đó, toàn triều được miễn lễ tiết này. Có nhiều đại thần còn dâng sớ lên ca tụng hoàng đế nào là cần kiệm, nào là đạo đức. Duy chỉ có Lưu tướng quốc là hiểu được nỗi niềm tâm sự của Gia Khánh. Do đó ông được ngài trọng dụng, mỗi khi có việc là đem bàn với ông.

Hoà Khôn dần dần cũng cảm thấy Gia Khánh hoàng đế không ưa mình. Khôn cho rằng hiện nay y còn có thế lực của Thái thượng hoàng thì dù Gia Khánh có thù ghét mấy cũng chẳng làm gì, khi Thái thượng hoàng mất rồi thì y cứ việc từ quan về vườn là xong. Do đó Khôn thường ra vào trong cung, hết lòng hầu hạ thái thượng hoàng. Mặt khác, Thái thượng hoàng nếu không có Hoà Khôn cũng không chịu nổi. Trong thì có Xuân A Phi, ngoài thì có Hoà Khôn, suốt ngày hầu hạ bầu bạn với ngài.

Càn Long hoàng đế tuổi đã quá cao, không còn đủ tinh lực để du ngoạn đó đây. Ngài rất tin bùa phép của bọn Lạt ma tăng, thường xếp bằng tròn ngồi trên giường niệm kinh chú.

Gia Khánh hoàng đế mỗi ngày ngự triều về lại tới cung Thái thượng hoàng bàn luận về việc triều chính. Thái thượng hoàng ngồi quay mặt về hướng nam. Gia Khánh hoàng đế ngồi quay mặt về hướng tây. Hoà Khôn cũng đứng ở một bên, tham nghị việc đại sự.

Một hôm, giữa lúc ba người đang bàn soạn, bỗng Càn Long hoàng đế nhắm mắt, xếp bằng tròn lại, ngồi trên giường không nói một lời nào. Gia Khánh hoàng đế thấy thế, không dám gọi hỏi gì. Một lúc sau ngài thấy miệng thái thượng hoàng cử động, mở rồi lại ngậm và trong cổ hình như có tiếng nói vọng ra. Gia Khánh hoàng đế chú ý nghe nhưng chẳng nghe rõ được câu nào, chỉ thấy những tiếng tụng niệm rì rầm. Một lát sau ngài bỗng nghe thái thượng hoàng quát lên một tiếng lớn!

- Kẻ nào đó?

Hoà Khôn ở bên cạnh, vội quỳ xuống hồi tấu:

- Cao Thiên đức, Cẩu Văn Minh.

Tiếp đó, Thái thượng hoàng lại tụng niệm rì rầm một hồi nữa, lấy tay khoát một cái, bảo Gia Khánh hoàng đế lui ra ngoài.

Gia Khánh không dám trái lệnh, đành rút lui. Nhưng hình trạng cổ quái của thái thượng hoàng ngài đã nhìn thấy tận mắt nên hết sức nghi ngờ. Ngài muốn hỏi mà lại chẳng dám.

Qua ngày hôm sau. Gia Khánh hoàng đế lẻn tới hỏi Lưu tướng quốc. Nhưng ông này cũng bảo là không biết gì. Về sau, ngài không chịu nổi nữa bèn tới hỏi Hoà Khôn, Khôn nói:

- Đây là mật chú của Lạt ma giáo. Khi đang niệm chú nếu có người gọi tên thì kẻ bị gọi tên đó chết ngay tức khắc.

Hiện nay Bạch Liên giáo đang sôi động bên ngoài, thần biết rằng thái thượng hoàng niệm chú để giết chết tên thủ lĩnh của giáo này, cho nên lúc ngài hỏi kẻ nào đó thì thần hồi tấu ngay hai cái tên của hai tên thủ lĩnh Bạch Liên giáo.

Gia Khánh hoàng đế nghe xong, trong lòng hết sức sợ hãi.
Ngài tự nhủ Hoà Khôn hiện cũng biết những lời thần chú đó, cần phải thanh toán hắn càng lẹ càng hay.

Hồi 96
CÀN LONG MẤT, HÒA KHÔN BỊ XỬ TỬ

Càn Long hoàng đế vừa hoàn thành bộ Thập toàn đại võ công kệ thì Bạch Liên giáo bỗng ồ ạt dấy binh. Suốt một giải Hồ Bắc, Kinh Châu, Chiết Giang, Nghi Đổ liên tiếp thất thủ. Giáo đồ Bạch Liên giáo ở các nơi khác như Nghi Xuân, Tràng Lạc, Tràng Dương đều hưởng ứng nổi dậy. Tin cáo cấp gởi về triều như bươm bướm.

Gia Khánh hoàng đế xem sớ giật mình kinh hãi. Hồi này Phúc Khang An đã chết, Hoà Lân bị nhiễm độc chướng chết ở đất Miêu. Tướng Minh Lương đi đánh giặc Miêu lại chưa về nhất thời không biết kiếm đâu một viên đại tướng lão luyện chiến chinh. Ngài được tin Bạch Liên giáo có ba đầu mục, một gọi Lưu Chi Hiệp, một nữa Điêu Chi Phú, còn tên thứ ba là Vương thị, vợ của Tề Lâm.

Cả ba đều hung hãn uy mãnh lạ thường. Nhân thấy quân binh kéo đi đánh giặc Miêu chưa về, bọn này thừa thế định tiến đánh lấy kinh, viên tướng Nghi Thi năm phủ, oai thế rất hung dữ.

Bọn quan tổng binh ở những địa phương này đều thuộc bè cánh của Hoà Khôn. Chúng thường nhận mật ý của Hoà tướng quốc, đem ém nhẹm hết quân tình hằng ngày. Chúng còn cả gan tâu láo về triều, nói giết hàng vạn quân giặc để lĩnh thưởng, mãi về sau, đại cục đã nát bét, không còn có cách gì giấu diếm nữa, chúng mới chạy về kinh cấp báo.

Những tình hình này, Gia Khánh hoàng đế dò xét cũng biết được. Một mặt ngài ghi hết tội lỗi của Hoà Khôn, một mặt hạ chỉ sai tổng đốc Lưỡng Hồ là Tát nguyên thị vệ Thư Lượng, thống lĩnh quân đội tiêu diệt giáo đồ ở Kinh Môn; sai tuần phủ Hồ Bắc Huệ Linh, thống binh Phú Chí Na, càn quét giáo đồ suốt một giải Kinh Châu, Giang Nam, sai đô thống Vinh Bảo, tướng quân Hằng Thuỵ tiễu trừ giáo đồ suốt một giải Tương Dương; sai đề đốc Ngọc Huy, tổng đốc Thiểm Cam là Nghi Cẩm quét sạch giáo đồ suốt một giải Xuyên Dương. Ngài cũng triệu hồi tướng Minh Lương từ đất Miêu về để phòng ngự một dọc dài Xuyên - Thiểm.

Đáng thương cho giáo đồ Bạch Liên Giáo bị bọn quan binh nhà Mãn Thanh đánh cho nhiều trận tơi bời, chạy đông trốn tây như đàn ong vỡ tổ. Giữa lúc nguy khốn đó, họ được hai vị giáo chủ ở vùng Tứ Xuyên là Vương Tam Hòe và Lãnh Thiên Lộc đón hết tất cả từ Hồ Bắc và Tứ Xuyên rồi xưng là "Xuyên giáo", có mòi hung dữ đáng sợ.

Bọn quan binh rõ tình hình này, hết sức sợ hãi. Thế là giáo đồ lại từ Tứ Xuyên kéo ra Thiểm Tây. Gia Khánh hoàng đế ngồi trong cung một ngày hốt hoảng đến mấy lần, suốt đêm cùng bọn đại thần bàn tính kế hoạch tiễu trừ giáo đồ.

Thái thượng hoàng Càn Long được tin đó cũng lấy làm lo, đêm ngày ăn ngủ chẳng yên. Mãi về sau, may nhờ được một viên quan tri huyện tên gọi Lưu Thanh dần dần thu phục được các giáo đồ. Thái thượng hoàng tuổi đã cao, lại bị lo sợ kinh hoàng nhiều phen nên mồng một tháng giêng năm đó, ngài băng hà tại cung Kiều Thanh.

Thái thượng hoàng Càn Long vừa ngã xuống tức thì một ban Cửu khanh khoa đạo dâng sớ hạch tội đại học sĩ Hoà Khôn lộng quyền làm bậy đủ hết những tội đại nghịch bất đạo. Trong ban, phải kể giám sát ngự sử Quảng Hưng, lại khoa cấp sự trung Vương Tổ là hai người đàn hặc ghê gớm nhất. Họ tâu Hoà Khôn có mười tội đại nghịch, mười sáu tội đáng chết, đúng là một chữ một nhát dao, một lời một mũi kiếm, khiến Khôn dù có tài trời cũng khó sống.

Gia Khánh hoàng đế nhận được đến sáu mươi tám tờ sớ đàn hặc. Ngài cả giận, lập tức hạ chỉ sai Thành thân vương đem ngự lâm binh tới bắt Hoà Khôn, sợ đi giữa đường có kẻ cướp, ngài lại sai ngự tiền thị vệ dũng sĩ A Lan Bảo, đi theo kèm giữ, đưa thăng Hoà Khôn vào công đường của Hình bộ.

Một đạo thánh chỉ hạ xuống, sai Lưu tướng quốc, Đổng trung đường, Bát Vương gia, Thất phò mã dùng nghiêm hình thẩm vấn. Khôn không chịu nổi trọng hình, đành nhất nhất cung khai. Lưu tướng quốc truyền cho quân lính cùm chân xích tay Khôn, tống vào nhà lao. Rồi đem hết bản khẩu cung tâu lên.

Gia Khánh đế xem bản cung, bèn triệu Lưu tướng quốc vào bàn định mọi việc. Lưu tướng quốc tâu:

- Kẻ gian thần chuyên quyền đại nghịch như vậy, cần nghiêm hình trừng trị.

Gia Khánh đề bèn hạ chỉ, sai Thập nhất vương gia tới nhà Khôn sưu tra, sai nhị hoàng tử Miên Ninh lục soát. Hai vị vương gia vâng thánh chỉ, không dám trễ, lập tức kéo bọn nha dịch rẩm rầm rộ rộ chia đường tới. Nhà Khôn rất lớn, gia sản lại nhiều. Bọn nha dịch phải sưu tra luôn một lèo mất năm ngày năm đêm mới kiểm kê được hết, rồi quay về phục chỉ, Thập nhất vương gia tâu:

- Trong nhà Hoà Khôn có một toà bằng gỗ nam, xây cất đúng in như cung điện trong đại nội, nào cột rồng, nào nóc phượng. Lại có một cái gác Đa Bảo kiểu cách như cung Ninh Thọ. Còn nói tới vườn hoa của nhà Khôn thì lối kiến trúc giống hệt Dao đài, Bồng đảo trong vườn Viên Minh. Trân bảo thì nhiều đến kể không xiết. Riêng tịch biên gia tài tên gia nô của Khôn là Lưu Toàn cũng đã tới hơn bảy trăm vạn lạng rồi. Tên Toàn binh nhật ỷ quyền dựa thế chủ, tha hồ tác oai tác quái. Thập nhất vương gia vừa nói tới đây thì thất phò mã vội cắt ngang, tâu tiếp:

- Trân bảo của Hoà Khôn chỉ riêng trong mật thất đã thấy chứa đến một gánh, lại có cả những áo mão ngự dụng (của vua). Chỉ chừng đó cũng đủ tỏ hắn đại nghịch bất đạo, có chết cũng chẳng oan rồi. Thẩm vấn tên gia nô thân cận của hắn, thần mới biết cứ tới lúc đêm khuya, hắn đội mũ áo ngự dụng vào đeo đủ chín châu triều châu soi trước kính rồi truyền lệnh cho bọn gia nô quỳ bái xưng thần. Hành động này, lại thêm những đồ quốc cấm kia, càng biểu lộ tâm địa của một tên phản nghịch bất đạo, chẳng phải chỉ có một tội tham nhũng mà thôi.

Thất phò mã tâu xong, thập nhất vương gia lại dâng một bản tổng kê gia tài điền sản của Khôn.

Gia Khánh xem xong, bèn sai đưa hết vàng bạc thu được vào kho của bộ hộ để dùng vào việc uỷ lạo nạn nhân chiến tranh miền Xuyên Thiểm. Còn những sản nghiệp chưa định giá xong thì sẽ giao cho Bát vương gia, Miễn nhị gia, Lưu tướng quốc giữ lấy bản kê khai cùng với hai bộ Hộ và Công định giả phát mãi, sung công hết số bán được.

Cuộc tịch biên sung công này, ngoài những trân bảo, đồ cổ đưa vào đại nội không kể, đem lại cho Gia Khánh đế tám tỷ sáu trăm triệu ngàn lạng bạc. Do đó trẻ con trong kinh thành mới có câu hát.

"Hoà Khôn ngã quỵ

Gia Khánh no nê"


Gia Khánh đế lại còn hạ chỉ dụ giao cho Đại học sĩ cả sáu bộ, và tất cả Cửu Khanh, Du thiền khoa đạo họp đại hội quyết nghị tội danh Hoà Khôn.

Cách vài ngày sau, quan viên dâng sớ tâu Hoà Khôn tham tàn làm nguy hại quân cơ, lòng mang ý khác, đại nghịch bất đạo; có kẻ xin chém đầu, có kẻ lại đòi lăng trì xử tử, xương đập nát, thịt bầm viên, có người lại nói nên chu di tam tộc.

Gia Khánh đế xem qua các bản sớ, nghĩ thầm:

- Hoà Khôn vốn là sủng thần của tiên hoàng. Nay tiên hoàng vừa mới mất mà đem hắn ra chính pháp thì thật ta chẳng yên lòng chút nào. Thôi ta sẽ thi ân đặc biệt, cho hắn được chết toàn thây.

Nghĩ thế, ngài lập tức hạ chỉ:
- Cố nghĩ rằng Hoà Khôn là một vị thủ phu đại thần, nên miễn cho phải chết nơi thị tứ. Trẫm gia ân cho được phép tự tận. Con của Khôn là Phong Thân Kính Đức, tội cũng không thể chuộc, nhưng khì còn trẻ được tiên hoàng sủng ái gả Hoà Hiếu Cố Luân công chúa cho nên trâm nghĩ đến tấm lòng từ ái của hoàng khảo mà ân gia thể tuốt. Vậy nay thu hết chức tước của Phong thân Kính Đức giáng xuống làm dân, không còn được đứng hàng phò mã nữa, tước công của Khôn không bị cách đi mà gia ân thưởng cho tước bá để Khôn Đức thừa tập. Sau khi trẫm đã gia án, Kính Đức không được ra ngoài làm bất cứ việc gì mà phải ở trong nhà tĩnh thu.

Hồi 97
LẠI MỘT KINH KHA: THÀNH ĐẮC


Đạo thánh chỉ bản án Hoà Khôn vừa hạ xuống thì Lưu tướng quốc, tới ngay nha môn bộ Hình và cho lôi Khôn từ lao ra, kiểm nghiệm lại xem có phải đích thân y không rồi mới tuyên đọc thánh chỉ.

Hoà Khôn ngước mặt lên phía trên, lạy tạ thánh ân, bỗng đôi mắt nhỏ lệ như mưa. Bọn nha dịch kéo Khôn sang một cái phòng bên cạnh, trên xà nhà có cột một tấm vải trắng. Khôn tự thắt tấm vải vào cổ mình rồi treo lên mà chết.

Sau khi Khôn chết rồi, liên tiếp mấy phong mật sớ dâng lên cáo Phúc thượng thư có tâm giúp kẻ ác. Thế là Phúc thượng thư cũng bị tống vào lao. Lại có kẻ tâu Đại học sĩ Tô Lăng A cố tình xui gia với Khôn, Gia Khánh đế cũng cho A về vườn luôn. Lại có người tâu thị lang Ngô Tỉnh Lan, Lý Hoàng, thái bộc khanh Lý Quang Vân đều là người được Hoà Khôn đưa vào làm quan, Gia Khánh đế cũng đồng loạt giáng chức và điều đi nơi khác. Bản án Hoà Khôn quả là một vụ động trời, ai nghe cũng phải hoảng hồn bạt via.

Lúc này, giáo đồ Bạch Liên Giáo đã lần lượt bị tảo thanh cả, tháng hai năm thứ tư niên hiệu Gia Khánh, đầu đảng là Vương Đình Chiếu bị tướng Minh Lượng bắt được, còn Từ Thiền Đức nhảy xuống biển chết chìm. Kinh lược đại thần cùng với bọn tổng đốc ba tỉnh đều tâu về triều đã thu hoạch đại công cáo thành, bình định xong loạn đảng.

Nhân Tông hoàng đế (tức là Gia Khánh đế) bèn tế cáo lăng miếu ngay tại kinh sư, phong thưởng công thần. Quốc gia xem như đã thái binh.

Hoàng đế cử hành điển lễ đi tuần thú lên Ngũ Đài sơn, Không ngờ, hoàng hậu Hỉ Tháp Lạp nhuốm bệnh mất. Gia Khánh đế hết sức thương cảm. Bà phi, Nữu Cô Lộc vốn người hiền đức, được ngài hết sức sủng ái, được sắc phong làm hoàng hậu và theo lệ, thân phụ của bà là Cung A Lạp cũng được tấn phong làm Thừa Ân công. Hoàng hậu từ tạ đôi ba lần.

Khắp triều văn võ, bá quan đều dâng sớ khen bà là hiền đức. Mãi đến khi quan tài của bà Hỉ Tháp Lạp chôn cất xong rồi, hoàng đế mới bớt mối thương cảm.

Ngài ở trong cung rảnh rang chẳng có việc gì, lại tính cách xuất hành Ngũ Đài sơn. Bỗng ở góc trời tây bắc xuất hiện một ngôi sao chổi rất lớn. Khâm thiên giám khuyên ngài không nên đi vì sao chổi xuất hiện là chỉ việc binh đao và đổi tháng tám nhuận năm đó ra tháng hai năm sau.

Trẻ con trong thành đều hát bài đồng dao:

"Hai tám trung thư (nhị bát trung thu)

Hoa vàng rớt đất" (Hoàng hoa lạc địa)


Ngoài ra còn truyền thuyết tai nạn binh đao sẽ xảy ra vào giờ ngọ ngày rằm tháng chín năm Gia Khánh thứ mười tám.

Đến đúng ngày giờ nói trên, tuần phủ Hà Nam Cao Di quả nhiên nhận được mật bẩm của viên tri huyện Hoả thuyên tên là Cường Khắc Tiệp nói ở Khiết huyện hiện có giáo đồ Bạch Liên Giáo Lý Văn Thành thiết lập tà giáo, đổi tên là Thiên Lý Giáo, còn có tên là Bát Quái Giáo, chiêu binh mãi mã. Tiệp cũng mật cáo cả tri phủ Vệ Huy biết nữa. Không ngờ cả hai thượng ty này đều chẳng thèm để ý tới lời y. Tiệp bèn dùng kế lừa cho Lý Văn Thành vào nha môn rồi bắt trói, chặt đứt lìa tay Thành.

Lúc đó đồng đảng của Thành có tới mấy vạn. Họ liên kết với bọn Lâm Thanh ở huyện Đại Hưng. Thanh vốn là một tay đầu mục có tên tuổi trong Bát Quái Giáo. Thanh thấy Lý Văn Thành bị một vố cay, nhịn không nổi nữa, bèn ngầm ước dấy binh vào ngày trung thu tháng tám nhuận.

Lâm Thanh quen biết nhiều thái giám trong nội cung, bèn đem vàng bạc mua chuộc bọn này, chờ dịp Gia Khánh đế xuất hành núi Ngũ Đài sơn là khởi sự ngay tại trong cung. Thanh lại ước định với Lý Văn Thành ở bên ngoài tiếp ứng.

Không ngờ Gia Khánh đế nghe lời bọn Khâm thiên giám, bèn ngừng việc tuần phủ. Thanh xem chừng cơ mưu không thành lại tìm một kế sách khác. Thanh bỏ ra sáu vạn lạng mướn một tên thích khách đi hành thích Gia Khánh đế. Tên thích khách này là Thành Đắc, vốn là một tên nhà bếp trong nội vụ phủ. Trong hoàng cung. Đắc có thể kể được là tay mạnh tợn nhất.

Hồi đó có một tên thị vệ gọi Quan Bát phò mã, sức khỏe rất ghê. Những lúc rỗi rảnh, Quan Bát phò mã thường bốc cặp sư tử đá ngoài cửa cung điện để giải trí. Cặp sư tử này nặng ít ra cũng năm, bảy trăm cân. Quan Bát phò mã thường bốc lên, đi một vòng quanh sân rồi lại từ từ để xuống nguyên chỗ cũ. Bọn thái giám đứng hai bên xem đều vỗ tay khen thần lực Trong bọn có một tên thái giám lên tiếng:

- Thành Đắc đã gọi là khỏe, nhưng làm sao mà địch được Quan Bát phò mã nhỉ?

Bát phò mã nghe nói tới Thành Đắc vội hỏi:

- Thành Đắc là đứa nào?

Tên thái giám lên tiếng:

- Hắn là một tên nhà bếp trong nội vụ phủ.

Bát phò mã vốn khoái những kẻ có sức khỏe, nghe nói vậy liền bức tên thái giám đi gọi cho kỳ được Thành Đắc tới.

Thành Đắc vừa trông thấy phò mã, hoảng hồn bạt vía, vội bò sát đất, chẳng dám cất đầu lên ngó nữa. Bát phò mã lấy lời ôn tồn an ủi Đắc, lại bảo Đắc có bao nhiêu khí lực cứ mang hết ra, may mà thắng được y thì y sẽ cất nhắc cho.

Đắc nghe phò mã nói vậy, mới dám cả gan đứng dậy và không còn sợ sệt như trước. Bát phò mã bảo Đắc lại bốc cặp sư tử đá. Đắc tiến lên mấy bước, mỗi tay bốc một con, chạy như bay quanh sân một lượt, rồi hai, rồi ba lượt. Lúc đó mới đặt cặp sư tử vào chỗ cũ, hơi thở không gấp, mặt không đỏ ửng lên chút nào.

Bát phò mã thấy vậy, mừng quá, chạy lại cầm tay Đắc tỏ vẻ ngợi khen, lại bảo Đắc cắm luôn bảy cây côn gỗ thành một hàng trước viện, cứ mỗi cây cắm sâu ít ra là ba thước.

Bát phò mã bước tới nhảy tung người lên, đá vụt ngọn cước ra nhanh như chớp vào bảy cây côn, người ta chỉ nghe một loạt tiếng "rắc, rắc, rắc…" tức thì bảy cây côn gãy gập thành đôi, bắn văng ra chung quanh tung toé. Bọn thái giám đứng hai bên vỗ tay hoan hô rầm trời.

Bát phò mã đứng hẳn người lên, bảo bọn thái giám cắm bảy cây côn khác cắm thành một dây như trước rồi bảo Đắc đá xem. Đắc bước lên vài bước, lấy mắt nhắm một lượt đo dò, rồi bảo cắm thêm cây. Bọn thái giám cắm thêm một cây.

Đắc bảo thêm nữa. Lại cắm thêm cây nữa. Đắc lại bảo cắm thêm - thêm một lúc mười hai cây. Lúc đó Đắc mới gật đầu cho là đủ.

Mọi người trố mắt nhìn, Đắc cũng không vội. Hắn thong thả bước tới, cũng bắt chước Bát phò mả, tung người lên đá vút chân phải ra một cước, tức thì mười hai cây côn gỗ bị tiện làm đôi chẳng khác gì bị đao chặt. Bát phò mã luôn mồm khen hay khen giỏi. Từ đó, phò mã giữ Đắc lại trong cung, làm chức quản đội doanh Thần cơ. Cứ mỗi lần Bát phò mã có phiên trực thì Đắc luôn luôn ở cạnh. Tiếng đồn Đắc có thần lực mỗi ngày một lớn rộng mãi ra khiến Lâm Thanh cũng phải biết tới.

Thế là bọn thái giám đứng làm môi giới cho hai người gặp nhau. Thanh đưa cho Đắc sáu lạng bạc tại nhà đồng đảng tên gọi Thôi Sĩ Tuấn, còn hứa với Đắc nếu việc thành sẽ phong cho làm Vương gia. Đắc nhận lời và trở về cung nội.

Rồi đến đêm rằm tháng tám trung thu, Gia Khánh đế giá hạnh vườn Viên Minh, mở tiệc thưởng trăng trên đài Hàm Hư lãng giám, có bọn phi tần cung nga ngồi hầu hai bên. Bát phò mã trực ở bên trên đài, Thành Đắc đứng thị vệ ở phía dưới.

Rượu uống đã đến lúc chếnh choáng, Gia Khánh đế đứng dậy tiểu tiện, phía sau có ba bốn tên thái giám theo hầu. Bỗng Thành Đắc xông lên đài, đi sát theo gót hoàng đế. Bọn thái giám để ý thấy Đắc có vẻ khả nghi, vội chạy tới cản lại. Đắc rút trong ông tay áo ra một cây cương đao sáng quắc nhè giữa ngực tên thái giám cho một mũi, tên thái giám ngã quay xuống đất Hoàng đế Gia Khánh thấy nguy, miệng la "Có giặc", chân quýnh lên chạy vòng quanh cây hoa quế lớn để trốn.

Bát phò mã đang trên đài nghe tiếng hoàng đế kêu la, vội chạy tới. Thấy Thành Đắc, tay đương cầm cây cương đao, đuổi theo hoàng đế quanh gốc cây hoa quế. Bát phò mã gầm lên một tiếng, nhảy tới chộp hai tay Đắc khoá chặt lại. Bọn ngự lâm quân cũng chạy ồ tới vây chặt lấy hai người.

Nói đến sức mạnh thì Đắc hơn Bát phò mã. Nhưng lúc này Đắc thấy bọn thị vệ quá đông đâm ra luống cuống tay chân đôi mắt chỉ trừng trừng nhìn phò mã, đờ hẳn người ra không dám chống trả.

Bọn quân ngự lâm ồ cả tới vây bắt Đắc, tống vào khám lớn của bộ hình. Đêm đó, lục bộ cửu khánh đều vội tới vườn Viên Minh vấn an. Gia Khánh đế bảo các vương đại thần cùng với lục bộ cửu khánh hỏi tội thích khách. Tướng quốc Trương Trai hôm đó làm chánh án thẩm.

Trương tướng quốc thẩm vấn hơn chín ngày mà chẳng được một câu khẩu cung nào. Dùng tới đại hình tra tấn mà Đắc cũng chẳng nói chẳng rằng. Chịu cực hình đến lúc ghê gớm nhất, Đắc cười nhạt vài tiếng bảo:

- Có gì mà phải thẩm vấn. Việc không thành thì ta mất đầu. Còn nếu thành thì chỗ các ngươi đang ngồi ấy chính là chỗ của ta.

Nói xong, Đắc lại ngậm miệng nín bặt, Trương tướng quốc chẳng còn biết cách nào hơn. Ngày hôm sau vào chầu, Trương tướng quốc tâu rõ tình hình trên, Gia Khánh đế bảo khỏi phải thẩm vấn, cho đem ra ngoài đập chết, băm vằm Thành Đắc muôn mảnh.

Trương tướng quốc vâng thánh chỉ lui về, định tội Đắc lăng trì xử tử. Ông lại tra xét, biết Đắc có hai đứa con trai, một đứa mười sáu tuổi, một đứa mười bốn, mặt mũi rất khôi ngô, hiện đang đi học. Trương tướng quốc hạ lệnh bắt cả hai anh em tới để cùng thọ hình với cha.

Hôm xử Đắc, một đội binh mã áp giải hung phạm tới Tây Hiệu trương, trói Đắc vào cây cột sắt, cột hai đứa con ở phía trước. Hai đứa con oà lên khóc, miệng gọi "Cha, cha". Nhưng Thành Đắc nhắm nghiền mắt, chẳng thèm để ý.

Đến lúc hành hình, bọn đao phủ giết hai đứa con, rồi mới tùng xẻo Đắc. Chúng lột hết quần áo Đắc trần như nhộng rồi mới cầm dao nhọn, trước hết cắt tai, cắt mũi, cắt hai đầu vú, sau đó cắt hai cánh tay, rồi cứ thế xẻo từng miếng thịt trên người Đắc, từ vai qua lưng rồi lại từ lưng qua ngực. Lúc đầu máu trong người Đắc chảy ra như suối nhưng khi kiệt sức rồi, chỉ còn có nước vàng rỉ xuống thánh thót. Tất cả phần trên người đều bị xẻo hết, chỉ còn trơ bộ xương. Thành Đắc bỗng mở choàng đôi mắt quát lớn:

- Xẻo mau đi chứ!

Bọn đao phủ trả lời Đắc:

- Hoàng thượng có ý chỉ bảo bọn ta xẻo từ từ để cho mi chết một cách đau đớn khổ sở.

Thành Đắc nhắm mắt lại không thèm nói thêm. Bọn đao phủ xẻo cắt xong toàn thân Đắc, lúc đó mới bồi một đao vào cổ kết quả tính mạng luôn.

Không ngờ Thành Đắc mất mạng trong cung thì bên ngoài, Bát Quái Giáo nổi dậy hung dữ sôi động lạ thường. Giáo đồ tại huyện Hoạt khởi nghĩa ngày mùng 7 tháng chín, tập hợp đông tới ba ngàn, xông vào giết bọn nha lại, phá tan nhà lao, cướp Lý Văn Thành đi mất, chém chết Cường Khắc Tiệp và toàn gia quyến. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa này, có các huyện Tràng Viên, Đông Minh tinh Trực Lệ, toà huyện Định Đào Kim Lương tỉnh Sơn Đông. Lâm Thanh mang theo hai trăm cảm tử quân mai phục trong kinh thành, một mặt nghe ngóng tình hình bên ngoài, một mặt bắt mối với bọn thái giám trong cung cấm, ước đính nửa đêm ngày rằm tháng chín hội đủ tại cổng chợ, rồi xông qua cửa Tuyên Võ mà vào cung.

Hồi 98
BÁT QUÁI GIÁO PHÁ CUNG THANH

Một năm trước, khi Lâm Thanh mưu phản, quan Đồng trị huyện Đạm Thuỷ tỉnh Đài Loan có bắt được một giáo đồ tên gọi Cao Ma Đạt. Đạt tự nhận là tiểu đầu mục của Bát Quái Giáo và cung khai là còn có vị đầu mục Lâm Thanh thông đồng với bọn thái giám tại kinh đô, ước định mùa thu sang năm hội binh mã đánh thẳng vào cung. Quan Đồng Trị được tin này, vội viết văn thư đưa về kinh. Quan đại thần tại kinh nhận được lại cho là y hoảng bảo, ném đi không thèm tâu.

Đến ngay trước lúc khởi sự một hôm, viên tuần kiểm Lư Câu Kiều được tin, vội lén tới báo cho quan phủ doãn phủ Thuận Thiên, nói Lâm Thanh ước định ngày mai mưu phản. Quan phủ doãn được tin lại cũng cho viên tuần kiểm hoảng báo, mắng om lên, bảo việc như vậy mà dám liều lĩnh nói bậy. Thế là vị quan này cùng chẳng thèm sửa soạn phòng chống gì.

Hôm đó, quả nhiên cuộc đại loạn xảy ra, các giáo đồ cầm giáo cầm mác kéo xuống đầy phố, xông thẳng vào cửa Đông Hoa môn và Tây Hoa môn. Bọn thái giám Lưu Đức Tài, Dương Tiến Trung ở ben trong phục sẵn. Còn có cả viên tổng quản thái giám là Diệm Tiến Hỉ tại trong cung tiếp ứng. Toán bộ binh tại Đông Hoa môn thấy các giáo đồ xông vào vội đóng cửa lại, nhưng đã trễ. Năm, bảy trăm người đã đánh thốc qua cửa Đông Hoa và tiến thẳng vào điện Hoàng Đức Lại có bọn thái giám từ bên trong cung đánh thốc ra.

Bọn cung nga mỹ nữ hoảng hồn bạt vía, kêu khóc như ri. Trong cung nội vụt thành bãi chiến trường, cảnh hỗn loạn xảy ra khủng khiếp chưa từng thấy. Tại Tây Hoa môn cũng có năm, bảy trăm giáo đồ tiến đánh. Toán ngự lâm quân tại đây vội đóng chặt cửa cung, liều chết chống cự. Hôm đó, Gia Khánh đế không có tại cung nội. Ngài đã qua vườn Viên Minh hôm trước rồi cho nên tại đây chỉ còn lưu lại có một ít thị vệ thôi. Chống cự được một lúc thì cửa Tây Hoa môn bị phá tung. Giáo đồ ồ vào, đánh qua Thượng A giám, Văn Dự quán, đánh thẳng vào Long Tôn môn. Bọn thị vệ vừa đánh vừa lùi. Bỗng bọn thái giám cũng từ phía trong đánh ra. Tiếng hò hét, kêu la vang trời, máu chảy lênh láng cả mặt đất. Bọn phi tần trong các cung Dực Khôn, Vĩnh Hoà, Hàm Phúc, nghe tiếng hò hét kêu la hoảng quá, túm lại với nhau thành từng chùm. Có vài cung nga nhát gan, nhảy xuống giếng tự vận. Nhị hoàng tử Mân Ninh cùng các bối lặc đang xem sách tại thư phòng, nghe nói trong cung có biến, không hoảng hốt sợ hãi gì, liền gọi bọn thái giám đem súng điểu thương và yêu đao tới. Họ tập hợp được hơn hai mươi tên thái giám rồi bảo chạy theo. Chạy tới cửa Võng Tâm, thấy một toán giáo đồ hò reo xông tới, Nhị hoàng tử hô đóng cửa lại, cho bọn thái giám bò lên mặt tường thám sát nếu thấy giáo đồ leo lên tức thì xuất kỳ bất ý dùng côn đánh xuống. Nhiều giáo đồ vô tình bị bọn thái giám đánh cho vỡ đầu, óc phọt ra, ngã gục dưới chân tường.

Trong đám giáo đồ, có vài đầu mục thấy thế vội khích động anh em, tay cầm cờ xông lên mặt tường. Phía đông tường là Đại nội. Các giáo đồ đứng trên tường kêu la hò hét, chay về phía đông. Nhị hoàng tử đứng dưới thềm điện Dưỡng Tâm, cầm súng điểu thương nhắm thật chính xác bắn luôn một lúc chết mấy đầu mục. Bối lặc Miêu Chí, đứng ở phía tả Nhị hoàng tử cũng bắn chết một đầu mục. Thấy đầu mục chết, các giáo đồ đâm chùn bước, không dám vượt qua tương nữa, đành tản đi hướng khác.

Bản lĩnh của Nhị hoàng tử phải nói là cao cường. Năm Càn Long thứ năm mươi bốn, Mân Ninh mới lên tám. Hồi đó Càn Long hoàng đế tới hành cung Trương Gia loan. Ngài đưa hoàng tử, hoàng tôn đi thi bắn tại xạ trường. Mân Ninh đứng bên cạnh ngài. Chờ khi các chư vương, bối lặc bắn xong. Ninh bèn quỳ trước mặt Càn Long hoàng đế, xin cho mình bắn. Hoàng đế lấy làm vui thích lắm. Ngài bèn truyền bảo tất cả các hoàng tôn cùng tuổi đều ra xạ trường dự bắn, tám chú bé cùng chạy ra thử cung bắn tên, nhưng yếu quá không làm gì được. Duy chỉ có Mân Ninh cầm chiếc cung nhỏ đặt tên lên, bắn liền ba phát thì hai phát trúng ngay giữa hồng tâm.

Càn Long hoàng đế thấy cháu bắn trúng, phá lên cười khà khà, cho gọi Mân Ninh lên điện, vừa vuốt tóc cháu vừa bảo:

- Bản lĩnh cháu khá lắm! Ông muốn thưởng cho cháu về tài bắn cung này, vậy cháu thích cái gì?

Ninh dập đầu nói:

- Cháu chỉ xin ông nội thưởng cho cháu chiếc áo khoác thôi!

Càn Long hoàng đế mỉm cười gật đầu, hạ lệnh mang chiếc áo tới. Ngay lúc đó chẳng có chiếc áo nào vừa, bọn thị vệ đành phải lấy một chiếc áo dài của người lớn đem lại khoác lên vai Mân Ninh, còn một tên thái giám thi ôm lấy chân cậu bế thốc lên cho cao. Từ đó, mọi người trong cung đều gọi Ninh là Tiểu tướng quân. Và Ninh cũng ngày đêm theo sư phó tập luyện. Ninh thích bắn chim, cho nên thường dùng cây súng điểu thương bắn bách phát bách trúng (xin nhớ, hồi này đã có súng của bọn Tây đưa vào Trung Quốc rồi). Nhờ đó nên hôm đại biến này, Ninh mời giải vây được cho Đại nội.

Toán giáo đồ thấy cửa Tây Hoa có người bảo vệ, bèn sang cửa Đông Hoa, hội họp với các toán bạn. Lúc đó các giáo phái tại đây đã phá tan cửa Đông Hoa, xông thẳng vào cung, đang định cướp cửa A Kỳ Cáp.

Bỗng họ thấy một đại hán mình trần trùng trục, đa đen thui, tay cầm một cây đòn gánh vừa to vừa nặng, quát lên một tiếng lớn:

- Chúng bay phản à?

Vừa quát, đại hán vừa múa chiếc đòn gánh đánh tạt ngang. Các giáo đồ thấy đại hán dữ tợn, bèn hè nhau vây lấy, đánh tới tấp. Tên đại hán múa tít chiếc đòn gánh chi đông đánh tây, chi nam đánh bắc quất vèo vèo, loang loáng như một chiếc bánh xe quay tít. Giáo đồ bị hắn đánh tơi bời, người thì gãy tay, kẻ gãy lưng, vỡ đầu máu chảy lênh láng. Cả toán đông tới hai, ba trăm, thế mà chỉ một lát, đã bị chết đến một nửa.

Tên đại hán đó chẳng phải là thị vệ trong cung mà là một tên gánh than mướn cho một tiệm bán than ngoài thành. Hằng ngày hắn phải gánh than qua cửa Đông Hoa đem vào cho Tu Thư quán. Suốt ngày phải chui ra chui vào trong đống than đen nên người hắn đen thui đi. Bọn thái giám thường gọi hắn là "chú than đen".

Chú than đen tính thẳng thắn, lại cậy mình sức mạnh hơn người nên hễ thấy chuyện bất bằng là cầm đòn gánh xông ngay vào đánh tới. Chiếc đòn gánh của chú than đen nặng ít nhất cũng phải trăm cân, đánh vào người không gãy xương thì cũng nát thịt.

Hôm đó, hắn thấy các giáo đồ Bát Quái Giáo xông vào cửa Đông Hoa, liền ra sức chống đánh. Mình hắn chống lại hai, ba trăm người. Hai bên đánh nhau một lúc lâu mà các giáo đồ không một kẻ nào lọt vào được A Kỳ Cáp. Cửa A Kỳ Cáp chính là cửa Hi Hoà. Tiếng hò hét kêu la trong trận chiên tại đây làm vang động mãi vào phía trong cung.

Lúc đó có một vị Đại học sĩ tên gọi Bảo Hưng, làm giáo thụ dạy chư vương đọc sách tại thư phòng, đi từ cửa Cảnh Vân môn tới. Trông thấy ở ngoài cửa, một tên đại hán mình đen thui như cục than đang chống đánh một toán giáo đồ.

Ông vội quay vào cung, gọi rất nhiều thái giám chạy ra đóng sập cửa A Kỳ Cáp lại, một mặt tập họp tất cả bọn học trò thực lục quán, quốc sử quán, công thần quán, giao cho mỗi người một cây côn dài, bò lên mặt tường để giữ cửa A Kỳ Cáp, một mặt điều động quân Hổ bi ở khắp nơi theo cửa ngách xông ra tiếp chiến.

Lúc đó về phía giáo đồ lại có một toán từ Tây Hoa chạy lại vây lấy tên đại hán, đánh chém tơi bời: Bọn này càng tới càng đông, ít ra cũng đến một ngàn, dù tên đại hán có mạnh tới đâu chăng nữa cũng khó bề chống đỡ. Hắn bị một đám đông giáo đồ nhất loạt xông vào, dùng dao chém nát người. Chú than đen, lúc gần chết miệng vẫn còn la hét, tay vẫn còn vung côn đập tới đập lui.

Các giáo đồ chém chết được tên đại hán rồi, tính vượt tường vào cung thì vừa lúc đó quân Hổ bí đã kịp xông tới.

Bọn chư vương, đại thần lưu phủ tại kinh thành cũng đã đem quân cấm vệ từ cửa Thần Võ đánh vào. Quân binh hai mặt giáp công, đánh các giáo đồ một trận tơi bời, dồn cho chạy ra ngoài cửa điện Trung Chính.

Lúc này trời đã tối. Đường xá trong cung nội các giáo đồ không thuộc, cho nên các giáo đồ đi dần vào đất chết. Bọn quan binh truy sát một trận, hai bên dọc tường thây chết ngổn ngang, giáo đồ bị dồn vào một góc tường. Giữa lúc bọn quan binh định xông vào bắt trói, thì bỗng một cơn mưa rầm rập đổ xuống. Một tiếng sét lở đất long trời nổ vang, đánh chết luôn một lúc đến mấy chục giáo đồ. Bọn quan binh tiến lên bắt nốt số còn lại, trói ké hết tay chân, đưa tới nha môn Cửu môn đề đốc để thấm vấn. Bọn giáo đồ cung khai ra đầu mục Lâm Thanh hiện đang ngồi đợi tin tại Hoàng thôn. Quan đề đốc tức khắc sai một đại đội quan binh tới ngay Hoàng thôn bắt Thanh điệu về kinh sư.

Qua ngày sau, Gia Khánh đế từ vườn Viên Minh trở về cung, thăng toạ vườn Phong Trạch, đích thân thẩm vấn Lâm Thanh. Thanh cung khai ra rất nhiều tên thái giám, Gia Khánh đế sai quan thị vệ cho đi bắt bọn đó tới, thẩm vấn rõ ràng, rồi hạ chỉ đem tất cả xử chém ngang lưng.

Các giáo đồ bị bắt khác cùng một loạt đem ra chính pháp hết. Hơn ba trăm cái đầu bị chặt đứt, máu chảy lênh láng trên mặt đất. Phố xá nơi kinh thành đóng cửa kín, dân chúng hoảng hồn bạt vía, gần như không dám thở nữa.

Gia Khánh đế quay vào cung nội, thăm đám phi tần, an ủi một hồi. Ngài lại truyền cho Nhị hoàng tử và bối lặc Miên Chí vào cung ngỏ lời khen và thưởng cho mỗi người một cái áo khoác ngoài bằng da rái cá, một chiếc nhẫn bằng ngọc bích.
Qua ngày hôm sau, một đạo dụ ban xuống, phong Nhị hoàng tử làm Trí Thân vương, tiền phong bối lặc Miên Chí làm quận vương. Đại học sĩ Bảo Hưng tâu việc chú than đen có công bảo vệ hoàng cung. Lúc đó, người ta mới bới tìm trong đống xác các giáo đồ, lấy ra chú than đen, đem rửa sạch đưa về tiệm than. Hoàng đế hạ chỉ thưởng cho chú than đen tước võ công lục phẩm, chiếu theo lệ võ quan trận vong mà tế lễ. Lại cho thêm món tiền chi phí tang ma một vạn lạng bạc. Vợ chú than đen phong làm phu nhân. Thực ra chú than đen chẳng có vợ con gì cả. Lão chưởng quỹ trong tiệm thấy đây là một dịp làm ăn thuận lợi, liền nhận chằng cho cô con gái lớn của mình làm vợ chú ta, bắt cô mặc đồ tang ở giá.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 173
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com