watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:12:0518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thanh Cung Mười Ba Triều 76 - 100 - Trang 5
Chỉ mục bài viết
Thanh Cung Mười Ba Triều 76 - 100
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tất cả các trang
Trang 5 trong tổng số 9

Hồi 86
VỤ ÁN VĂN TỰ: CHẾT CẢ HỌ CHỈ VÌ THƠ

Tên thủ hạ của Uông Như Long bị bọn thị vệ vây bắt tự thấy khó thoát, bỗng quay ngược mũi dao nhè thẳng tim mình mà đâm vào, miệng chỉ kêu được một tiếng "chao ôi!" rồi ngã quay ra đất, mắt, trợn ngược lên, chết luôn tại chỗ.

Bọn thị vệ vội chạy lại gỡ con dao ra, cởi chiếc áo ngoài của hung thủ, bỗng thấy lộ ra một bộ ngực trắng mịn với cặp vú cao vòi vọi có đôi núm danh dảnh. Cả bọn lấy làm lạ. Lột thêm cái mũ, họ lại thấy một bộ tóc mây dài đen óng như tơ. Cuối cùng lột đến đôi giày ra, họ còn thấy một đôi chân nho nhỏ xinh xinh. Thì ra một thiếu nữ tuyệt sắc chứ chẳng phải là tên thủ hạ nào của Uông Như Long.

Bọn thị vệ không dám xem thường, một mặt chạy về báo cho thị vệ trưởng biết, một mặt chạy báo cho gia đình Uông Như Long hay. Vợ Long hối hả chạy tới nhìn xem mới biết tên thích khách giết họ Uổng chẳng ai xa lạ mà chính là Tiểu Mai. Bộ quần áo nam trang nàng mặc đó chính là bộ quần áo của tên thủ hạ thân tín nhất của Uổng. Hỏi ra mới biết tên thủ hạ này đã cao bay xa chạy từ hồi nào không rõ! Người ta lại lục trong túi áo tìm ra được lá đơn kêu oan. Trong lá đơn này có kể nào Hoà Khôn vu khống gia đình họ Kháng, nào cha nàng là Dư Đại Hải muốn thay họ Kháng để báo thù, nào Uông Như Long cưỡng dâm nàng, lại còn bán đứng cha nàng ra sao, và sở dĩ nàng hạ sát Long là bởi vì: một để báo thù cho cha, hai để rửa hận cho mình. Lá đơn nói thêm Hoà Khôn là một gian thần hại nước, mong cầu hoàng thượng lập tức bắt hắn trị tội.

Bọn thị vệ đều là những tay tâm phúc của Hoà Khôn, vội đem huỷ đơn đi ngay cho chủ, rồi tâu láo với Càn Long hoàng đế rằng tên thích khách nọ tay cầm con dao nhọn xông tới phía dưới ngự lâu, ngó trước nhìn sau có ý hành thích hoàng thượng song bị Uông Như Long trông thấy chặn hắn, do đó hắn mới giết chết Uông Như Long.

Càn Long hoàng đế nghe bọn thị vệ tâu láo mà vẫn tin là thật. Bởi vậy ngài hạ chỉ truy tặng cho Long đệ nhất phẩm triều đình, còn sai Lương Thi Chính thay mặt mình tới nhà Long làm lễ "ngự tế", đồng thời cấp cho vạn lạng bạc dùng cho đám tang.

Từ khi xảy ra vụ Uông Như Long bị giết, Càn Long hoàng đế hễ đi tới đâu cũng nơm nớp đề phòng. Ngài nghĩ rằng Thanh Hà, Giang Hà cùng cả bọn mười con danh kỹ kia đều không có ý tốt cho nên ngay đêm đó đuổi ra vườn hết. Mặt khác ngài hạ lệnh cho tập hợp người ngựa rồi điều động tuần thám ngày đêm bên ngoài vườn.

Hai chị em Thanh Hà và Giang Hà đang được hoàng đế sủng ái, bỗng thấy bị đuổi ra chẳng hiểu ý tứ của ngài ra sao, nên hai nàng nũng nịu làm bộ như quyến luyến lắm không muốn đi. Ngài mới nói dối là khi nào hồi loan sẽ đem cả hai về kinh, lại vờ hỏi hai nàng sống nơi đâu thì Thanh Hà hồi tấu:

- Khuê phòng của bọn thiếp ở ngay trên bờ sông, phía dưới lều có trồng một cây liễu lớn.

Càn Long hoàng đế lại bảo:

- Bọn ngươi chờ tin ta hồi loan, khi tới Dương Châu thì treo ngay một chiếc lồng đèn đỏ lên trên lầu. Ta sẽ sai người tới đón bọn ngươi về kinh.

Hai chị em Thanh Hà thấy Càn Long hoàng đế nói vậy, mừng rỡ khôn xiết, và sau đó về ngay căn phố lầu bên sông ngày ngày chờ đợi.

Trên đường du ngoạn, Càn Long hoàng đế thường gặp phải thích khách, cho nên ngài nghi rằng lòng dân vẫn còn nhiều kỳ thị Mãn - Hán, chỉ muốn giết hoàng đế nhà Mãn Thanh để báo thù cho dân tộc Hán. Ngài lại tự nhủ cái tư tưởng báo thù rửa hận đó phần nhiều là do bọn đọc sách, tức bọn trí thức xách động mà nên. Bởi vậy muốn tra xét xem dân tâm ngay dối, yêu ghét ra sao, trước hết cần phải theo sát mấy anh chàng đọc sách đó đã.

Nghĩ vậy Càn Long hoàng đế bèn hạ chiếu cho những vùng ngài đi ngang qua, bọn sĩ tử được phép dâng thơ văn sáng tác lên để đích thân ngài xem, nếu hay sẽ thưởng tiền nếu hay tuyệt sẽ thưởng quan hàm chức tước. Chiếu chỉ vừa ban xuống thì bọn sĩ tử vọng tưởng danh lợi ùn ùn kéo tới dâng thơ, hiến văn. Hoàng đế nhận thơ và giao cho mấy vị đại thần thị tòng giỏi văn thơ duyệt xét. Tuy không có áng văn chương nào gọi là kiệt tác nhưng cũng không có câu nào tỏ ý chống đối cả

Hồi đó có một vị danh sĩ già họ Giao người Giang Âm, nhân vì công danh chẳng vừa ý bèn sáng tác một bộ tiểu thuyết tên là "Dã tấu bộc ngôn" (lời nói thẳng của ông lão nhà quê).

Họ Giao ỷ vào tài học của mình cho nên trong sách nói đủ thứ: nào là thiên văn, địa lý, nào là quân sự, nào là lễ nhạc, lịch số, nào là âm nhạc văn thơ… chẳng có thứ nào là chẳng nói tới. Nhân vật chính trong chuyện chẳng phải ai khác mà chính là ông ta đội cái tên khác đó thôi. Khì kể đoạn "Tây Hồ giết rồng" thì lời lẽ khí khái quả chẳng tầm thường, nhưng khi kể tới nàng Lý Xuân Nương nào đó thì giọng văn lại dâm đãng nhơ nhớp lạ thường.

Ông lão có một cô gái tên gọi Hàng Nương, thông hiểu chữ nghĩa lại rất thông minh. Cô Hàng thấy cha mình viết sách có nhiều chỗ phạm kỵ lại mô tả quá dâm ô thì thế nào cũng bị huỷ hoặc cấm, nên thường hay khuyên cha sửa chữa lại. Nhưng phải cái ông lão Giao, tính ngông nghênh hết sức chướng, chẳng thèm nghe con! Đã thế ông lại còn bắt Hàng Nương chép lại bộ sách của ông bằng chữ chân phương hết sức cẩn thận, và đóng thành một trăm bản, chứa trong một cái tráp. Ông chứa tại đây là để chờ khi Càn Long hoàng đế ngự giá ngang qua là sẽ đem dâng. Ngày thường có vị thân hữu nào đến nhà là y như ông đem sách ra cho họ xem, để khoe cái học rộng của mình. Trong số thân hữu đó có một vị tên gọi Kim Lang Phủ, vốn là một tay thiếu niên đọc sách, lại giàu có. Phủ thấy Hàng Nương xinh đẹp nên đã nhờ mối lái tơ ướm đôi ba lần nhưng lão Giao chê Phủ là người khinh bạc, từ chối. Phủ im lặng từ đó nhưng luôn căm giận trong lòng.

Chú ruột của Phủ tên gọi là Kim Ngẫu Phương cũng có chuyện kiện tụng lôi thôi tới cửa quan về chuyện ruộng đất với gia đình họ Giao, do đó đôi bên lại cũng có điều không thuận nhau.

Kim Lang Phủ được biết ông lão họ Giao viết bộ sách trong đó rất nhiều điều kỵ huý. Bộ sách này chính Phủ đã được đọc. Tin chắc được dịp tốt để rửa hận, Phủ liền lên nha môn của quan tri phủ Giang Âm để mật cáo. Viên tri phủ này vốn đã được mật chỉ của triều đình về việc sưu tra những trước tác phản nghịch, nay được Kim Lang Phủ cáo mật tỏ ý mừng lắm.

Thế là viên tri phủ Giang Âm đích thân tới nhà lão Giao để thăm viếng. Ông lão họ Giao có biết đâu là kế, lại còn vác cả bộ sách "Dã tẩu bộc ngôn" của ông ra để khoe nữa. Viên tri phủ thấy trên đầu sách có rất nhiều những lời khoa trương khoác lác, nhất là đoạn kể việc "giết rồng" thì rõ ràng ngụ ý giết vua rồi, bèn ngỏ lời tán tụng mấy câu lấy lệ, và quyết rằng một khi dâng sách lên hoàng đế thì thế nào cũng được thưởng. Ông lão họ Giao nghe nói lấy làm đắc ý lắm!

Hôm đó, Càn Long hoàng đế tới Giang Âm. Ông lão họ Giao mặc áo thụng dài trịnh trọng nâng cái tráp, cung kính quỳ lạy ngay bên bờ sông để dâng sách. Viên tri phủ Giang Âm đã chờ đợi trước, chỉ còn chờ trên ngự chu hô tiếng "bắt" là y hạ thủ ngay. Không ngờ khi dâng lên ngự chu, đem mở tráp ra thì tuy có một bộ sách thật nhưng bên trong chẳng có chữ nào, toàn là giấy trắng mà thôi.

Càn Long hoàng đế lấy làm lạ, truyền chỉ ra ngoài hỏi như thế nghĩa lý gì. Ông lão họ Giao lúc đó mới biết sách của mình chi toàn có giấy trắng bèn hoảng hồn bạt vía, chẳng hiểu ra sao cả, miệng méo xệch đi không còn nói được một câu nào nữa.

Càn Long hoàng đế thấy bộ tịch ông lão như vậy, cho rằng chỉ là một lão khùng bèn truyền chỉ ra ngoài quở trách vài ba câu rồi cho về. Thế là Kim Lang Phủ với viên tri phủ Giang Âm hoài công bao ngày đồ mưu lập kế hại người, rút cục suýt hại chính cả mình.

Riêng đối với ông lão họ Giao bộ sách "Dã tẩu bộc ngôn" là cả một bầu tâm huyết từ lúc còn trẻ đến lúc đời đã hầu tàn. Ấy thế mà nay một chữ cũng chẳng thấy, thử hỏi làm sao ông chẳng thương tâm. Ông ở trong nhà thở ngắn than dài, hết ngày này qua ngày khác.

Ông có ngờ đâu rằng bộ sách quý của ông đã bị chính con gái cưng của ông đánh cắp đem chứa vào trong một cái chum nhỏ, chôn kỹ trong vườn sau. Mặt khác nàng mua giấy về đóng một trăm quyển khác giống in như những quyền cũ, bỏ vào trong tráp khoá lại cẩn thận. Ấy chính nhờ cô con gái biết lo xa cô hành động khôn ngoan này mà ông đã thoát tội.

Mãi về sau, khi cha đã mất và mình đã có chồng rồi, Hàng Nương đến đào chum sách lên cất kín trong nhà nên mới còn truyền đến ngày nay, đó là việc sau xin kể vào dịp khác.

Lại nói Càn Long hoàng đế phòng người Hán phản bội, nên đã gây ra những vụ "án văn tự". Bởi thế hồi đó, ngài đã tìm ra được hai vụ - một vụ là "Hắc mẫu đơn thi" (thơ vịnh hoa mẫu đơn mầu đen), còn một vụ nữa là "Trụ lâu thi cảo". Bài thơ vịnh hoa mẫu đơn đen vốn là sáng tác phẩm của Đại học sĩ Thẩm Đức Tiềm. Tiềm tên tự là Qui Ngu, vốn một tay thơ cự phách. Càn Long hoàng đế tuy vốn liếng văn chương chẳng mấy gì, nhưng lại thích khoe mình là người văn học thường xướng hoạ thi ca với bọn đình thần. Nhưng ngài chỉ sợ mình có phen lộ tẩy, lòi cái dốt nát ra khiến bọn bày tôi cười vào mũi cho, bởi thế ngài mời hai vị đại thần luôn luôn ở cạnh để làm bài "gà" cho mình. Một người tên gọi Kỷ Hiều Phong chuyên làm văn thay cho ngài. Còn một người nữa chính là Thẩm Đức Tiềm, chuyên làm thơ. Về sau Tiềm chết đi. Lương Thi Chính thế vào chân đó. Thẩm Đức Tiềm thấy Càn Long hoàng đế coi trọng mình nên thường có vẻ kiêu ngạo, ngay cả trước mặt ngài. Cũng vì mọi việc thơ phú đểu phải nhờ Tiềm, Càn Long hoàng đế cũng bỏ qua đi, không muốn nói đến những tiểu tiết đó trái lại còn đặc biệt kính trọng là khác. Lúc sáu mươi tuổi, Tiềm vốn là một tú tài. Nhưng đến bảy mươi tuổi thì Tiềm vọt lên cái chức Tể tướng. Và đến tám mươi tuổi, Tiềm từ quan về vườn. Thế mà Hoàng đế vẫn thường còn sai người tới nhà riêng vấn an, thật là cả một điều vinh dự lớn lao cho Tiềm.

Càn Long hoàng đế có làm mười hai "Ngự chế thi tập", bèn sai đưa tới nhà Thẩm Qui Ngu để nhờ duyệt lại, và nếu cần thì sửa sang cho thơ được thập phần hoàn hảo. Thẩm Qui Ngu nhận sách, đem duyệt, chẳng thèm nể nang gì nhà vua, cứ thực mà khen chê, khiến trong tập thơ có nhiều chỗ bị phê bình quá gắt gao, với những lời lẽ rất tệ nữa, đó là chưa kể còn rất nhiều đoạn thơ bị vứt bỏ đi là khác. Khi bộ "Ngự chế thi tập" gởi trở về kinh, Càn Long hoàng đế xem lại, trong lòng thực không vui tí nào, nhưng vì nể mặt lão thần, ngài đảnh làm thinh, không nói gì cả.

Cách một năm sau, Thẩm Qui Ngu chết. Năm này cũng là năm mà Càn Long hoàng đế tuần du phương Nam, đi về ngả Tô Châu. Qua địa phương này, ngài bỗng nhớ lại họ Thẩm, bèn truyền chỉ xa giá tới phần mộ của Thẩm để tế viếng. Cũng trong dịp này, ngài xuống chỉ gọi hết con cháu của họ Thẩm đến. Ngài nghĩ bụng Thẩm Đức Tiềm tức Qui Ngu vốn là thi nhân một thời thì trong nhà tất nhiên phải có trước tác, thế là ngài liền hỏi thử xem. Đám con cháu của Tiềm thừa hưởng sự nghiệp của ông cha, quá sung sướng rồi, ngày đêm chỉ rủ nhau cờ bạc rong chơi, chẳng học hành gì cả, cho nên có biết chữ nghĩa gì nhiều đâu. Bởi thế, khi Càn Long hoàng đế hỏi tới, chúng đâu có biết gì là phạm huý hoặc không phạm huý, vội vào nhà lễ mễ đem hết mọi di cảo của ông cha ra và dâng lên.

Càn Long hoàng đế mở ra xem, thấy còn có rất nhiều bài thơ chưa được ghi vào trong thi tập, hơn nữa rất nhiều bài thơ làm thay cho hoàng đế cũng được chép vào trong, phía dưới chú thêm ba chữ "ĐẠI ĐẾ TÁC" (làm thay vua). Hoàng đế xem xong, bất giác thẹn quá hoá giận. Ngài tự nhủ: lão già này biết thơ của trẫm đã in và phát ra ngoài rồi, ấy thế mà lão vẫn còn đề chữ "làm thay" trong thi cảo này, há chẳng phải là có dụng ý phỉ báng trẫm? Lòng lúc này quả không được vui tí nào, song ngài vẫn chưa tìm ra cách để xử trí.

Nhưng đến lúc xem tới cuối sách, ngài thấy một bài thơ nhan đề là, "HẮC MẪU ĐƠN THI" 0 ngay vào bài đã hạ hai câu: "Đoạt Chu phi chính sắc. Dị chủng diệc xưng vương", thì ngài không còn giữ được bình tĩnh nữa, cả giận quát lớn:

- Chà! Tên đại nghịch bất đạo Thẩm Qui Ngu giỏi thật! Rõ ràng hắn nói trẫm đã cướp ngôi thiên tử của họ Chu, lại còn chửi trẫm là dị chủng nữa. Như thế thì làm sao trẫm nhịn được?

Thế là ngài lập tức hạ chỉ:

"Thẩm Đức Tiềm lúc sinh thời được hậu ơn của triều đình. Nay xem tới di trước, trẫm mới biết y có ý phỉ báng triều, có lòng phản loạn chống đối. Vậy trẫm hạ chỉ: quật mồ phá bia của hắn, kéo thây ma hắn trong quan ra, chém đầu răn chúng. Còn con cháu họ Thẩm nhất luận đày tới Hắc Long Giang để sung quân. Chỉ giữ lại cháu nội năm tuổi, truất làm thường dân, để nối dõi tông đường mà thôi"
.

Vụ án văn tự này kết liễu thì cả một bọn văn nhân anh nào anh nấy hoảng quá, suốt ngày chỉ cúi đầu rụt cổ ngồi trong xó bếp, chẳng dám bò ra tới cổng nữa. Và cũng từ đó, chẳng anh nào đám ho he thơ phú để đem dâng ngự lãm.

Chú thích:


HẮC MẪU ĐƠN THÍ (Thơ hoa mẫu đơn đen)

Đoạt chu phi chính sắc.

Dị chủng diệc xưng vương

Có nghĩa là:

"Cướp màu đỏ thì chẳng phải là màu sắc chính

Giống quái lạ cũng xưng vương"

Trong câu thơ thứ nhất: Chu có nghĩa là màu đỏ. Hoa mẫu đơn được gọi là vua các loài hoa - mẫu đơn màu đen tức là đã bị mất đi màu đỏ. Chu còn là họ của vua nhà Minh vì thuỷ tổ triều. Minh là Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ). Câu thơ trên có ý ám chỉ nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh thì chằng phải là chính thống. Câu thứ nhì có nghĩa "giống quái lạ cũng xưng vua". Ý mỉa mai khinh ghét nhà Màn Thanh: "dị chủng" (giống quái lạ) ám chỉ nhà Mãn Thanh thuỷ giống Man rợ ở phía bắc, chứ không phải giống Hán.

Càn Long nghĩ vậy nên tức giận quá mà trừng phạt Thẩm Đức Tiềm.

Hồi 87
THÊM HAI VỤ ÁN VĂN CHƯƠNG LY KỲ

Trong khi vụ án Hắc mẫu đơn thi diễn xảy ra thì có một vụ khác cũng chẳng kém phần bi thương. Số là tại miền Đông Đái đất Dương Châu có một vị thân sĩ tên gọi Phó Vĩnh Giai, bỗng đem tới dâng một tập thơ nhan đề là "Nhất lâu thi tập" và cáo mật tới viên tuần phủ Giang Tô nói tác giả của tập thơ này là Từ Thuật Quỳnh có ý phản nghịch, nên trong thơ có rất nhiều điều ngụ ý chống đối, ví dụ như bài "Chính Đức bôi thi" 0 có hai câu "Đại minh thiên tử trùng tương kiến, Thả bà hồ nhi các bán biên" (xin tạm dịch: Vua rất sáng suốt hai lần gặp. Hãy gác bỏ cái bầu rượu kia một bên). Sau khi móc ra hai câu thơ này rồi, Giai còn tán rộng nghĩa những chữ quan trọng để viên tuần phủ thấy rõ hơn:

- Hai chữ Hồ nhi (hồ kia) có ý ám chỉ dân rợ Hồ và như thế tức là tên phản nghịch họ Từ nhằm vào đương kim hoàng đế chứ còn gì. Câu thơ "Thả bà hồ nhi các bán biên" phải chăng có ý nói: lật đổ nhà Đại Thanh để lập lại triều Minh nếu như ta ghép thêm cả câu thơ trên "Đại minh thiên tứ trùng trùng kiến" vào nữa?

Hồi đó Càn Long hoàng đế đang cho người đi khắp nơi sưu tra những thi ca ngụ ý phản nghịch. Bọn quan lại địa phương lập tức ra sức lấy lòng hoàng đế để bước thang danh lợi của mình được chóng vánh hơn. Vì thé, bài thơ đối với viên tuần phủ Giang Tô quả thật là một con đường tắt mau lẹ nhất để đạt tới nấc thang danh lợi chót vót. y mừng như bắt được vàng, tức khắc đem tâu lên hoàng đế.

Chẳng mấy ngày, một đạo thánh chỉ ban xuống, quả nhiên, phần mộ của Từ Thuật Quỳnh cũng bị quật lên, con cháu họ Từ bị chính pháp một loạt. Gia tài điền sản bị tịch thu và đem thưởng cho Phó Vinh Giai. Nhưng đau hơn nữa là viên tri phủ Dương Châu Tạ Khải Côn và Giang Tô nhiên đài Đào Dị, bị viên tuần phủ Giang Tô hạ bệ luôn cả hai người bằng cách vu họ là che chở cho Quỳnh nên không báo. Thế là Côn và Dị mất chức, bị tống lên mãi Tân Cương để sung quân.

Tuần phủ Giang Tô có công lớn, quả nhiên được thăng một bước lên chức Lưỡng Giang tổng đốc. Thật đáng thương cho toàn gia Từ Thuật Quỳnh, chi vì vài câu thơ mà chết một cách thê thảm!

Nhưng tại sao Phó Vĩnh Giai lại đi cáo mật như vậy? Số là Giai có tư thù với gia đình họ Từ. Cha của Giai đã làm tới chức ngự sử, cáo lão về nhà, tính lại ham chơi bời phóng đãng. Hồi đó miền Đông đái có một ả kỹ nữ tên gọi Tiểu Ngũ Tử, mặt mũi xinh đẹp, tính tình lại nhã nhặn, nhu hoà. Chỉ vì mê người đẹp này, Phó Thân Sĩ đã nướng luôn một lèo hơn vạn lạng bạc. Ông cứ tưởng rằng tiền vãi ra như nước thì thế nào cũng phải cưới được người đẹp đem về chứa ở nhà vàng.

Nào ngờ Tiểu Ngữ Tử vốn đã thầm yêu Từ Thuật Quỳnh từ lâu Quỳnh hồi đó là ruột mạc hữu trong nha môn quan tri phủ Dương Châu. Quỳnh trẻ tuổi, đẹp giai, lại học giỏi.

Sau khi được điều tới Giang Tô phiên ty thì thế lực của Quỳnh lại còn hách hơn nhiều, Quỳnh lúc đó chẳng còn e ngại gì, cưới phăng Tiểu Ngữ Tử về, sống rất hạnh phúc.

Phó Thân Sĩ nghe được tin này tức đến điên ruột. Thế rồi xảy ra vụ án "Náo tào" (chống đối việc chuyên chở lương thực) tại Dương Châu. Từ Thuật Quỳnh cáo mật nói Phó Thân Sĩ là người chủ mưu trong cuộc "Náo tào" này. Công văn nã tróc đã gởi xuống nhưng Phó Thân Sĩ nhờ hối lộ đã thoát được cái vụ lớn này. Tuy thoát được nạn, nhưng gia tài cũng vì đó mà khánh tận, Sĩ cũng vì đó thành bệnh mà chết.

Lúc hấp hối Phó Thân Sĩ trối trăng lại cho con là Phó Vĩnh Giai lo trả cho bằng được thù này. Đã nhiều năm qua, Giai vẫn khắc ghi trong lòng, nhưng phải đợi mãi tới vụ tập thơ "Nhất lâu thi tập", mới hại được gia đình họ Từ đến nhà tan người chết. Đã thế Giai lại còn được hưởng cả gia tài điền sản họ Từ, thử hỏi Giai mãn nguyện thế nào.

Lúc này. Càn Long hoàng đế ngự giá từ Hàng Châu trở về, thuyền đi qua tỉnh Dương Châu, nơi đây xảy ra một vụ án khá ly kỳ nữa. Số là đất Dương Châu có một ông nhà giàu họ Tôn chết cách đây năm năm. Bà Tôn sống trong cảnh goá bụa, cố mà dạy dỗ hai đứa con gái. Đứa lớn tên gọi Tôn Hàm Phương đứa nhỏ tên gọi Tôn Thục Phương. Cả hai lớn lên đứa nào cũng xinh đẹp như hoa lại còn biết chữ, giỏi may vá thêu thùa nữa.

Năm ấy Hàm Phương đã mười bảy, Thục Phương mười sáu. Đó là cái tuổi dậy thì nhiều hứa hẹn nhất của người con gái. Toàn thành Dương Châu ai cũng đều ca ngợi cặp giai nhân tuyệt sắc của gia đình họ Tôn và đều muốn đem lễ vật tới để mối mai ướm hỏi. Nay họ Trương, mai họ Lý, các ông mai bà mối chút xíu nữa thì đạp gãy cửa ngõ nhà họ Tôn.

Bà Tôn vốn cưng con, cái gì cũng phải hỏi con trước đã. Không ngờ với việc gả bán, hai cô gái cưng của bà đều cự tuyệt hết, đều nói đợi tới hai mươi mới tính chuyện chồng con. Ý nguyện của hai cô là phải chọn một đức lang quân tài mạo song toàn mới thèm lấy. Ngoài ra hai cô còn có một điều tâm nguyện đặc biệt nữa là: Vì hai cô rất thương yêu nhau nên kiếp này đời này quyết không rời nhau và thề chỉ lấy chung một người chồng mà thôi. Ví thử sau này không được như nguyện, hai cô cùng thề suốt đời không lấy ai. Nguyện vọng của hai cô như vậy quả thật hiếm có trên đời, đến nỗi bà Tôn tuy là mẹ mà cũng chẳng rõ được cớ sự.

Hai cô cùng ở trên một căn phố lầu bên sông, phía dưới lầu có trồng một cây dương liễu buông mành lả lướt xanh xanh, che khuất một phiến đá lớn bằng phẳng mịn màng. Cứ mỗi lần cuộn rèm, xuống lầu, hai cô lại kề vai ngồi trên phiến đá buông câu ngắm cảnh. Cảnh trí trên sông này quả thật u nhã, ít thuyền bè qua lại, nên nhờ đó hai cô cũng ít sợ người ta nhòm ngó tới cái sắc của mình. Tuy hai cô tưởng vậy nhưng thực ra kẻ cố tình ngồi rình trong bụi.

Về phía bờ sông đối diện, có một anh chàng trẻ tuổi đẹp trai ngắm nhìn đến no, đến chán cặp vưu vật mà tạo hoá khéo nặn khéo đúc cho dòng họ Tôn. Chàng trẻ tuổi đẹp trai tên Cố Thiếu Xuân cũng vốn con nhà quan, thân phụ tên gọi Cố Đại Xuân làm ngự sử tại kinh đô. Mẫu thân chàng là Hồ thị ở nhà nuôi dạy cậu con trai đọc sách đêm ngày. Thư phòng của công tử Thiếu Xuân lại ở ngay dưới căn lầu nhìn qua bên kia. Cứ mỗi lần thấy hai chị em Hàn Phương ngồi trên phiến đá buông câu, Thiếu Xuân lại ngồi bên trong cửa sổ chăm chú nhìn qua. Thật là một bức hoạ tuyệt mỹ của đôi thiếu nữ!

Thiếu Xuân còn trẻ người nên nhút nhát trước hai nàng, chàng chỉ dám nhìn chứ chẳng dám nói. Tính chàng lại hiền hậu, chẳng bao giờ dám đường đột làm quen cả.

Nhưng về sau, chàng thấy mình cầm lòng không đậu, bèn thổ lộ hết cho mẹ nghe để mẹ nhờ người mối lái đánh tiếng cho mình. Hai chị em nhà họ Tôn văn nhắc lại lời nguyện xưa là hai mươi tuổi mới lấy chồng. Thiếu Xuân đành chịu, chẳng còn biết cách nào, chỉ ngày ngày ngồi bên cửa sổ ngó qua bờ bên kia, để cho lòng chết dần theo mối tình tuyệt vọng, bỏ cả sách vở, bỏ cả thơ văn.

Suốt ngày chàng chỉ ngồi trong thư phòng thở ngắn than dài. Con thì thế nhưng mẹ thì khác. Bà Hồ thị cứ cho rằng Xuân chăm học lắm, đang cố sức dùi mài kinh sử để chờ cướp mũ áo Trạng nguyên nên chẳng dám tới làm mất thì giờ vàng ngọc của cậu con trai cưng của bà.

Phía bờ bên kia, hai chị em Hàm Phương có biết đâu rằng hiện có người đang tan nát cõi lòng vì mình. Nhưng ở đời, thiên hạ thường có nhiều chuyện trớ trêu, đâu có bình an nổi mãi. Hồi đó trời đã hết xuân sang hè. Suốt một giải dọc sông hoa nở tưng bừng, nước trong leo lẻo. Khách nhàn du nhìn cảnh ai chẳng bâng khuâng tấc dạ. Còn hai chị em Hàm Phương chiều chiều ra ngồi trên phiến đá hóng mát buông câu.

Một hôm, trời đã về chiều, trước cái cảnh ngày dài người vắng, Hàm Phương một mình ra bờ sông, vừa định ngồi xuống, bỗng nàng xây chân té xuống nước.

Lúc đó hai bên bờ vắng lặng không một bóng người, nên chẳng ai biết mà tới cứu. Nhưng đối với Thiếu Xuân, có cái gì của hai nàng mà chàng lại chẳng biết, bởi vì lúc nào đôi mắt của chàng hình như cũng có một chất keo nó dính chặt vào hình dáng của người đẹp, không muốn rời ra lấy một phút một giây nào!

Thấy "người của lòng mình" rơi xuống sông, Thiếu Xuân vội cởi áo dài, mở cửa sau, tung người ra phía trước, nhào xuống giữa dòng nước. Mục đích của chàng lúc đó là nhào ra để cứu nàng, nhưng ngờ đâu cả hai người, chàng cũng như nàng, chẳng một ai biết bơi lội, thành thử chỉ chút xíu mất mạng cả hai.

Thiếu Xuân cố sức cứu người đẹp cho bằng được nên tuy không biết lội, chàng vẫn nhảy xuống nước, nhào tới cạnh nàng, chàng thấy miệng mình đã uống nước, đầu đã như vang váng, thấy mình hình như bị chìm dần xuống đáy sông. Nhưng chàng vẫn cố ngoi lên để thấy "người của lòng mình" đang quẫy đạp nháo nhào, mớ tóc mây bị nước cuốn rã rời trên mặt sông. Chàng đem hết sức bình sinh ngoi tới, cố mong nắm được áo nàng.

Hàm Phương thấy có người tới cứu, mạng sống là cốt thiết nên chẳng còn e sợ xấu hổ gì nữa, vội quơ tay ôm cứng lấy.

Thiếu Xuân lúc đó dù biết cái chết cập kề, cũng không muốn rời Hàm Phương ra nữa. Thế là hai cô cậu ôm cứng lấy nhau.

Nhưng cô cậu có biết đâu ở dưới nước mà cứ ôm nhau như ở trong phòng kín thì chỉ có xuống đáy sông mà ngồi. Đúng như vậy, hai cô cậu rủ nhau rơi xuống đáy sông thiệt.

Tuy vậy Thiếu Xuân vẫn cố đem sức trai để chống với tử thần, chàng đạp chân xuống đáy sông tung người lên, đội hẳn người yêu lên trên mặt nước. Mấy lần như vậy.

Giữa lúc nguy cấp ấy, cô em gái Thục Phương đi ra bờ sông tìm chị, thấy vắng hoe mà giữa sông lại sủi tăm, sủi bọt dữ dội và cuối cùng một cái đầu lúc hiện lúc mất khỏi mặt nước. Nàng nhận ra là chị mình vội la lên một tiếng lớn rồi chính nàng cũng nhào luôn xuống nước.

Nhưng may tiếng la lớn ấy đủ để báo động cho bà con lối xóm hai bên bờ sông biết, rồi họ xô tới cửa sổ nhìn ra sông thấy một cô gái đang loi ngoi trên mặt nước. Thế là họ tông cửa chạy ra, ba chân bốn cẳng chạy kiếm nào sào nào gậy thọc xuống nước để cứu Thục Phương lên bờ.

Lên được bờ rồi Thục Phương lấy tay chỉ xuống lòng sông, vừa khóc vừa bảo chị nàng đang chìm xuống đáy kia. Cả bọn nghe nói, vội vã lao xuống nước để cứu. Khi đem được lên bờ thì Hàm Phương đã mê man bất tinh. Nhưng kẻ đáng thương nhất phải là Cố Thiếu Xuân. Chàng đã chìm xuống lòng sông và không có ai cứu chàng cả!

Bà Tôn ôm con gái lớn vào lòng, một tiếng khóc kèm theo một tiếng gào. Cả bọn xô lại tìm cách cứu Hàm Phương, còn có ai chú ý tới anh chàng dại gái kia nữa đâu. Mãi đến khi bà mẹ của Xuân nghe bờ sông bên kia kêu la om xòm, quay nhìn vào thư phòng không thấy con mà căn phòng thì lạnh ngắt, bèn chột dạ, rồi đến khi nhìn thấy cái áo dài cởi bỏ đó, bà mới biết con bà nguy rồi.

Bà vội chạy ra bờ sông hô hoán ầm ĩ. Nhìn thấy nơi đây còn đôi giầy của con bà, kêu khóc vang lên. Bà chỉ xuống sông, lạy van mọi người cứu con bà.

Thế là những kẻ biết bơi lội nhất tề nhảy ùm xuống nước để cứu Thiếu Xuân. Phải mò đáy sông một lúc, họ mới đem được chàng lên bờ. Bà mẹ Hồ thị chạy lại ôm lấy con thì đã thấy đôi mắt của con mình mờ đi, hơi thở như đứt đã từ lâu.

Bà hoảng hồn bạt vía, hai tay múa loạn lên, đôi chân như muốn khuy xuống, khóc rống lên: "Ôi con ôi là con ôi!"

Hàm Phương lúc này đã dần dần tỉnh lại, bà Tôn vực nàng trở vào phòng, thế là cả đám Hàm Phương quay lại với Thiếu Xuân để cấp cứu. Bà Hồ thị lại mời cả một ông lang thuốc đến dùng phép gia truyền cứu chữa.

Cấp cứu suốt từ đầu hôm mãi tới nửa đêm mới thấy Thiếu Xuân hồi tỉnh lại. Nhưng khi mở được mắt ra thì câu nói đầu tiên của chàng là nhờ mọi người đi cứu Tôn tiểu thư. Khi mẹ chàng cho biết Tôn tiểu thư đã được cứu thoát, chàng mới nhắm mắt và không nói thêm lời nào nữa.

Từ hôm đó, Cố Thiếu Xuân nhuốm bệnh liệt giường, luôn một tháng trời mới nhóc nhách bò dậy được. Về phía bên kia, người đẹp Hàm Phương của chàng đã đi lại được như thường từ lâu. Và cũng từ đó, nàng đã giữ lại trong tâm khảm cái hình bóng dáng quý đáng yêu của người ân nhân giàu lòng hy sinh, đã liều mạng cứu mình.

Được tin chàng bị bệnh nặng, hai chị em nàng đốt nhang ngay tại phòng mình, cầu trời khấn phật phù hộ cho chàng chóng lành.

Sau khi được biết bệnh đã thuyên giảm, hai chị em bèn xin mẹ sang thăm để đáp lại lòng tốt của chàng đã cứu mình đến nỗi suýt bỏ mạng và để bà con lối xóm chê cười gia đình nhà họ Tôn chẳng biết lễ nghĩa, gì. Bà Tôn nghe con nói có lý, bèn đưa hai cô gái sang nhà họ Hồ.

Hồ thị ra tiếp, trò chuyện thân mật với nhau một hồi, ba mẹ con lại tới bên giường Thiếu Xuân để hỏi thăm sức khỏe của chàng. Chàng cũng như nàng, hai bên đều có nỗi niềm tâm sự bâng khuâng, muốn nói mà không dám là bởi vì trước mặt còn có bà mẹ đứng đấy. Người ta chỉ thấy đôi bên bốn mắt nhìn nhau, chẳng nói một câu.

Nhìn thấy Thiếu Xuân rơi đôi dòng lệ trên má, Hàm Phương mắc cỡ quá cúi đầu đứng lùi lại sau lưng mẹ.

Bà Tôn cùng bà Hồ quay ra phòng ngoài, nhân lúc không có mặt Hàm Phương, hai bà đem câu chuyện cầu thân ra nói.

Bà Hồ nói với bà Tôn:

- Việc cầu hôn, gia đình chúng tôi bên này đã có đôi lần ngỏ lời xin bên quý quyến rồi. Bây giờ chỉ xin bà hỏi lại Tôn tiểu thư một tiếng, nếu tiểu thư bằng lòng thì chúng tôi bên này xin đủ lễ ngay.
Bà Tôn vui vẻ đứng dậy cáo từ.

Hồi 88
SỐNG CHẾT ĐỀU BỞI SỐ

Qua hôm sau, bà Tôn quả nhiên thấy bà Hồ cho mụ mối tới nhà. Lúc trước, Hàm Phương tiểu thư thấy nhà họ Cố đến cầu hôn, cứ tưởng rằng chàng họ Cố bất quá chỉ là anh chàng khố đũi áo nâu, quê mùa dốt nát nên mới cự tuyệt.

Nhưng lần này nàng thấy chàng rõ là một vị công tử đàng hoàng, hơn thế nữa còn đẹp trai, đa tình, thì hỏi sao nàng không ưng thuận. Một điều nữa khiến nàng coi như là đã có duyên tiền định, khi nhớ lại lúc hai người ôm cứng nhau ở dưới sông, da thịt đã gắn sát vào nhau hồi lâu rồi.

Trong tâm khảm, nàng đinh ninh rằng kiếp này duyên này coi như đã giao phó cho chàng. Nàng đem chuyện này hỏi nhỏ cô em thì cô em Thục Phương cũng bằng lòng cùng nàng lấy chàng họ Cố.

Thế là hai chị em nguyện ý cùng lấy một chồng. Hàm Phương bèn đem ý đó của mình và em thì thầm với mẹ. Thấy con đã bằng lòng, bà Tôn bèn cho mụ mối về báo cho bà Hồ biết.

Bà Hồ thấy bà Tôn đã bằng lòng hứa gả mà lại gả cả hai cô, vẻ mừng hiện ra nét mặt. Chàng Cố Thiếu Xuân lúc này có lẽ là người sung sướng hơn ai hết. Bởi thế bệnh chàng tự nhiên biến khỏi như có phép lạ. Bà Hồ thấy con đã khỏe mạnh như thường bèn chọn ngày định việc cấu hôn cho con.

Không ngờ ông tạo trớ trêu, mấy khi chuyện vui được trọn vẹn đâu. Một ngày trước hôm định việc cầu hôn, Cố Thiếu Xuân bỗng nhận được một phong thư của cha gởi từ kinh thành về nói ông đã định việc hôn nhân cho chàng tại Bắc Kinh rồi.

Ông thân bên nhà gái cũng làm quan ở kinh và đôi bên đã ước hẹn hôn lễ sẽ cử hành nội trong năm.

Cố Thiếu Xuân được tin này chẳng khác nào gáo nước lạnh dội lên đầu, miệng há hốc mà chẳng nói được lời nào. Chàng chỉ còn biết khóc suốt cả đêm đó. Qua ngày hôm sau, chàng bệnh nằm liệt giường liệt chiếu như cũ.

Bà Hồ thấy vậy trong lòng đau đớn lắm. Bà dùng lời ngon ngọt dỗ dành an ủi. Mặt khác bà cho mụ mối qua nhà bà Tôn từ hôn. Hai chị em Hàm Phương được tin này, trái lại không khóc lóc, không nói năng gì cả.

Hai nàng đã thủ thỉ với nhau quyết ở vậy không thèm lấy chồng nữa. Gia đình hai nàng vốn giàu có, lại không có con trai, cả cơ nghiệp đồ sộ đó đều do hai nàng nắm giữ cả.

Nhưng Cố Thiếu Xuân không thể thản nhiên được. Lòng chàng vừa buồn sầu vừa nóng nảy đến không nén nổi. Hồi đó đã vào lúc mùa hè nóng nực. Thiếu Xuân đưa cái giường của chàng ở thư phòng đến bên cạnh cửa sổ để có thể thấy được hình bóng người yêu trên lầu trang phía bên kia, ngay cả lúc chàng đi nằm nữa.

Dụng ý của chàng là như vậy, nhưng bà mẹ Hồ thị đâu có hiểu. Bà chỉ biết chiều theo ý cậu con trai cưng. Nằm tại nơi đây được vài hôm, Cố Thiếu Xuân nhìn sang lầu trang bên kia thấy cửa đóng suốt ngày im ỉm. Chàng tưởng rằng chị em Hàm Phương tiểu thư cũng bệnh như mình. Thật đáng thương cho cả đời người chỉ cách có một con sông mà không có cách gì trò chuyện được với nhau. Chàng nhớ đến người yêu mà lòng tê tái, nhiều đêm thức trắng chẳng chợp mắt.

Có một hôm, vào nửa đêm, Cố Thiếu Xuân đang nằm trên giường trằn trọc xoay qua xoay lại không ngủ được, bỗng có tiếng gõ cửa cành cạch. Chàng gượng dậy, nhẹ bước ra mở cửa. Một hình bóng mỹ nhân sừng sững đứng trước mặt chàng dưới ánh trăng. Chàng nhìn kỹ và nhận ra là Hàm Phương.

Chàng mừng quá rồi như không tự chủ được nữa, chàng nhảy chồm ra, giơ hai tay ôm choàng lấy nàng, miệng run run cảm động nói:

- Anh nhớ em đến chết mất thôi.

Người con gái vội giơ tay đẩy Thiếu Xuân ra, thì thầm:

- Em không phải Hàm Phương đâu? Em là Thục Phương đó. Chị em nhớ anh quá lắm! Anh chạy mau sang thăm chị một tí.

Cố Thiếu Xuân nhìn thấy chiếc thuyền của Thục Phương cặp ngay bên bờ sông, bèn chẳng còn để ý đến mình bệnh mình đau nữa, vội nắm lấy tay Thục Phương bước xuống thuyền.

Khi thuyền đã qua bờ bên kia, chàng thấy Hàm Phương đang đứng chờ sẵn. Thế là cả ba cùng sánh vai ngồi trên phiến đá rộng trò chuyện với nhau. Một hàng liễu rủ bóng thướt tha che kín cả chỗ họ ngồi, thành thử không một ai thấy mà biết được, ba người trò chuyện mãi tới canh năm mới trở về phòng.

Thế rồi từ đó cứ mỗi đêm, trên phiến đá bên sông, người ta thấy phảng phất bóng ba người kề vai ngồi dưới ánh trăng ngà. Chỉ mãi tới lúc gió sớm nổi lên, trăng tàn bến vắng, ba cái bóng lại mới chia tay ai về phòng nấy.

Mùa hè qua mùa thu tới, gió heo may bắt đầu thổi, hơi lạnh đã thấm vào thịt. Thục Phương cảm thấy lạnh không chịu nổi bèn nghĩ ra một cách: Nàng bảo Thiếu Xuân chú ý cứ đến khi nào mẹ nàng đã an giấc thì nàng sẽ treo một chiếc đèn lồng đỏ ở trước lầu để báo hiệu. Và lúc đó chàng cứ việc chèo thuyền sang, hai nàng sẽ đón vào nhà.

Nàng cũng không quên căn dặn chàng là hễ không thấy đèn thì chớ có sang. Thiếu Xuân đã được ám hiệu, đêm hôm đó chèo thuyền sang lẻn vào lầu trang, quả là hương vị của tình yêu ngọt ngào không bút nào tả xiết.

Việc tư tình qua lại này thấm thoắt được nửa năm thì bỗng một đại hoạ xảy ra. Hai chị em Hàm Phương đêm đêm treo chiếc đèn đỏ rồi kề vai ngồi tại hiên lầu nhìn qua phía bờ bên kia. Nhưng rồi hôm đó hai chị em nàng đang ngồi đợi bỗng một mũi tên độc bay vụt tới, chỉ một mũi tên thôi mà đâm suốt thái dương huyệt của hai nàng.

Mũi tên độc này vốn thuộc loại "thấy máu đóng hầu" nghĩa là bắn trúng không kêu la gì được: một loại tiễn thường dùng vào việc ám sát. Trúng mũi tên hai chị em Hàm Phương ngã quay xuống sàn lầu chết luôn, không kêu la được một tiếng.

Cố Thiếu Xuân đêm đó thấy lồng đèn liền chèo thuyền sang, nhưng chẳng thấy hai chị em Hàm Phương ra mở cửa.

Tứ bề vắng lặng. Chàng cố ngồi đợi. Nhưng đợi mãi tới sáng mai vẫn chẳng thấy người yêu ra mở cửa? Xuân lòng nghi hoặc, không muốn bỏ đi.

Trời sáng hẳn. Con a đầu chạy lên lầu thấy hai chị em Hàm Phương đã chết cả, vội tri hô lên. Bà Tôn nghe kêu giật mình nhảy lên lầu xông vào phòng con gái. Bà ôm lấy thây con khóc rống lên, người như điên loạn.

Thiếu Xuân ngồi ngoài cửa, nghe tiếng khóc, biết có chuyện chẳng lành, chẳng quản nếp tẻ gì, tông cửa nhảy vào rồi cũng gục xuống thây hai chị em Hàm Phương khóc đến chết đi sống lại.

Bà Tôn thấy cảnh tượng khó coi bèn bảo người kéo Thiếu Xuân dậy, một mặt làm đơn báo quan. Quan huyện Giang Đô thấy vụ án không đầu mối, bèn đích thân tới khám nghiệm.

Ông thấy Thiếu Xuân hình tích có vẻ khả nghi bèn cho người dẫn về nha môn thẩm vấn.

Cố Thiếu Xuân thấy người yêu đã chết, hận rằng mình không được chết theo cho nên khi quan huyện Giang Đô thẩm vấn, Xuân bèn nhận khai ngay là chính mình đã giết.

Nhưng đến khi hỏi tại sao mà giết thì chàng chẳng biết khai ra sao. Bà Hồ thị thấy con mình bị quan huyện bắt đi, vội đem ngàn lạng bạc đút lót cho bọn nha lại, mặt khác viết thư gởi thẳng lên kinh cho quan ông cấp báo.

Quan ông Cố Đại Xuân được tin như sét đánh ngang tai, vội rời Bắc Kinh, đi gấp đường tới Dương Châu lập cáo trạng dâng lên Càn Long hoàng đế cứu con. Hồi này hoàng đế đã từ Hàng Châu trở lại Dương Châu. Ngài nhận được cáo trạng bèn bảo tri phủ Dương Châu đem phóng thích Cố Thiếu Xuân.

Nhưng phía bên kia, bà Tôn thấy vậy đâu có chịu. Bà liền mang đơn kêu oan, trẩy thuyền vội tới Dương Châu đầu cáo.

Càn Long hoàng đế trả lại tờ cáo trạng, một mặt an ủi bà và phàn nàn thay cho hai cô con gái bà chết uống phí, mặt khác sai tri phủ Dương Châu đứng ra làm lễ ngự tế để ma chay và siêu sinh tịnh độ cho hai nàng.

Một việc quan trọng nhất mà mọi người chờ đợi đó là lệnh truy nã hung thủ, nhưng tuyệt nhiên hoàng đế không đả động tới Bọn quan địa phương đứng trước cái án giết người kỳ quái này, vò đầu bứt tóc hết tháng này qua năm nọ cũng đều chịu, không rõ được lấy một mảy may.

Ít lâu sau, khi Càn Long hoàng đế đã về kinh rồi, người ta bỗng thấy hai người con gái tuyệt đẹp ăn vận hết sức lộng lẫy tới thăm bà Tôn. Hai nàng tự giới thiệu là hai chị em chị tên gọi là Thanh Hà, em gọi Giáng Hà.

Thanh Hà và Giáng Hà đã từng được Càn Long hoàng đế sủng hạnh và khi rời khỏi Hàng Châu, ngài có dặn hai chị em nhà này thắp đèn lồng đỏ trước lầu để đợi ngài hồi giá tới Dương Châu sẽ cho người tới đón về kinh.

Nhà hai nàng ở cạnh cầu Trạng Nguyên. Lầu trang cũng sát ngay bờ sông, phía dưới cũng có một cây dương liễu y như ở nhà bà Tôn. Trước lầu trang cũng có treo một chiếc đèn lồng đỏ, cho nên Càn Long hoàng đế đã nhận lầm nhà này ra nhà kia mà giết bậy. Chủ tâm của Càn Long hoàng đế là giết hai chị em Thanh Hà chớ đâu ngờ lại giết lầm hai chị em nhà họ Tôn. Nguyên uỷ vụ án này là thế, hai chị em Thanh Hà đã đoán ra. Nhưng lý do tại sao Càn Long hoàng đế lại muốn bắn chết hai nàng thì chính ngay Thanh Hà đã để bao đêm ngày suy nghĩ mà vẫn không ra.

Nguyên do chỉ vì Tiểu Mai đâm chết Uông Giang Long nên từ đó Càn Long hoàng đế nơm nớp lo ngại, nghĩ rằng hai chị em Thanh Hà cũng lại có ý hành thích mình. Ngài không dám lưu luyến đắm đuối, vội cho hai chị em nàng về.

Câu nói của ngài bảo đem hai nàng lai kinh ngày nọ, chỉ là lời nói đãi bôi cho qua mà thôi. Lúc đầu ngài không có ý giết hai chị em nàng, nhưng về sau, bỗng lại nghĩ nếu không đem hai người về kinh, sợ rằng họ oán hận mà nói tung hết những điều bí mật trong thuyền ra thì phiền. Sở dĩ có chuyện sợ đầu sợ đuôi này chỉ là tại trong những đêm ân ái mặn nồng, ngài đã đem khá nhiều điều bí mật trong thâm cung ra kể làm quà cho hai nàng nghe rồi. Ngài sợ rằng hai nàng không được vừa lòng sẽ nói toạc cả ra, chi bằng giết quách đi là xong. Đó là kế giết người bịt miệng. Nghĩ vậy nên khi hồi loan tới Dương Châu, ngài bèn sai một tên thị vệ ngầm đem tên độc bắn chết hai chị em nhà này. Không ngờ hai chị em Hàm Phương vì mật ước với Cố Thiếu Xuân, cũng đốt đèn đỏ trước lầu nên tên thi vệ nhận lầm ra nhà của hai chị em Thanh Hà mà bắn chết cả đôi.

Hai chị em Thanh Hà nghe vụ án mạng, đoán biết chủ ý của Càn Long hoàng đế là muốn giết mình, nên vội bỏ chiếc đèn lồng treo trước lầu đi, rồi trốn biệt trong một căn nhà của người bà con khác. Đợi lúc hoàng đế đã hồi loan về tới kinh rồi, hai nàng mới dám thò cổ ra ngoài rồi tới thăm bà Tôn.

Bà Tôn nghe hai chị em Thanh Hà kể lại cả một câu chuyện ly kỳ rùng rợn, vừa thương tâm vừa sợ hãi. Bà chỉ biết gác vụ án này, không dám nói tới nữa. Nhưng Cố Thiếu Xuân lại không chịu phụ lòng. Chàng đón linh cữu hai chị em Hàm Phương về nhà ma chay trọng thể rồi đem chôn cất tại khu mộ tổ, coi như là nguyên phối (vợ cả).
Người vợ Bắc Kinh lấy sau này chàng chỉ coi như là vợ kế. Chàng còn đón cả bà Tôn về nhà phụng sự không khác gì cha mẹ mình. Chỉ vì một ý nghĩ nghi ngại của Càn Long hoàng đế mà hai gia đình Tôn, Cố phải chịu cảnh nhà tan người chết, gây ra biết bao chuyện đoạn trường, thật đáng thương thay.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 181
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com