watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:27:1518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Liệt Tử Và Dương Tử - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Liệt Tử Và Dương Tử
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 13
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
Phần IV - Tỉnh và mộng

 
VI. CỐ SỰ VÀ NGỤ NGÔN
 
HAI CÁCH ĂN TRỘM  I.13
(Tề chi Quốc thị[73] đại phú)
 
Một người họ Quốc ở nước Tề rất giàu; một người họ Hướng ở nước Tống rất nghèo, từ Tống qua Tề hỏi người kia về thuật làm giàu. Người họ Quốc bảo:
 
- Tôi giàu vì khéo ăn trộm. Làm nghề ăn trộm, năm đầu tôi đủ ăn, năm thứ nhì tôi phong lưu, năm thứ ba tôi giàu lớn, và từ đó tôi lần lần mua được hết vườn ruộng trong miền.
 
Người họ Hướng rất mừng. Anh ta biết rằng phải ăn trộm, nhưng không hiểu cách ăn trộm ra sao. Thế rồi anh ta leo tường vào lén nhà người ta, thấy cái gì, đụng cái gì vơ vét hết cái đó, không bao lâu bị bắt, xử tội, tịch thu luôn cả những của cải tích luỹ từ trước.
 
Họ Hướng cho rằng họ Quốc gạt mình, lại ngỏ lời trách oán. Người họ Quốc hỏi:
 
- Anh ăn trộm cách nào?
 
Họ Hướng kể lại cách ăn trộm của mình. Người họ Quốc bảo:
 
- Ôi! Sao mà anh lầm về cách ăn trộm tới mức đó. Này, để tôi giảng cho anh nghe. Ta nghe nói trời có bốn mùa, đất có huê lợi, ăn trộm thời tiết của trời, huê lợi của đất, sự ẩm ướt thấm nhuần của mây mưa, sản phẩm của núi trằm[74], để cho lúa của ta mọc, rồi chín mà gặt, để xây tường, dựng nhà mà ở. Ở trên đất, ta ăn trộm các loài cầm thú, ở dưới nước ta ăn trộm các loài cá, rùa, không thứ gì ta không ăn trộm. Lúa má, đất gỗ, cầm thú, cá rùa, đều do trời sinh ra cả, đâu phải của ta, nhưng ta ăn trộm của trời thì không bị tai hoạ. Còn như vàng ngọc, châu báu, thức ăn, vải lụa, hoá phẩm, là của người ta làm ra, chứa lại, đâu phải của trời cho; ăn trộm của người ta thì bị tội, còn oán ai nữa?
 
Họ Hướng rất hoang mang, cho rằng họ Quốc gạt mình lần nữa, gặp ông Đông Quách, đem hỏi lại. Ông Đông Quách bảo:
 
- Anh dùng cái thân thể của anh, chẳng phải là ăn trộm ư? Anh ăn trộm sự điều hoà của âm dương để thành sinh lực của anh; thân anh cũng vậy, huống hồ là ngoại vật, có vật nào là anh không ăn trộm? Thực ra trời đất, vạn vật không rời nhau ra, phân biệt ra để chiếm hữu các vật đó, đều là lầm lẫn[75]. Cách ăn trộm của họ Quốc, là cách “chung”, cho nên không bị tai hoạ; còn cách ăn trộm của anh là “riêng”, cho nên bị tội. Tuy phân biệt chung và riêng đó thì cũng vẫn là ăn trộm[76]. Cái đức (đạo, luật) của trời đất là cái gì cũng có thể là chung được, cái gì cũng có thể là riêng được; biết được cái đức của trời đất thì thế nào là ăn trộm, thế nào không phải ăn trộm?[77]
 
HỄ TIN THÌ LÀM GÌ CŨNG ĐƯỢC  II.6
(Phạm Thị hữu tử viết Tử Hoa)
 
Phạm Thị có một người con tên là Tử Hoa khéo gây tiếng tốt, trong nước ai cũng phục, được vua Tấn tin cậy, tuy không có chức vụ gì mà được ngồi bên phải ba vị khanh[78].
 
Tử Hoa thích ai thì người đó được vua ban tước liền, chê ai thì kẻ đó bị truất liền, được lui tới tư dinh ông ta thì cũng như vô ra triều đình.
 
Tử Hoa xúi bẩy cho bọn hiệp khách[79] trong nhà tranh nhau về trí ngu, về mạnh yếu, dù có kẻ bị thương tích trước mắt, ông cũng thản nhiên, suốt ngày đêm lấy trò đó làm vui, cơ hồ thành cái tục trong nước.
 
Hoà Sinh và Tử Bá là hai thượng khách của ông ta, đi ra ngoài cõi, trọ ở nhà một ông nông dân già tên là Thương Khâu Khai. Ban đêm, hai người đó nói với nhau về uy danh của Tử Hoa, có thể làm cho kẻ sống phải chết, kẻ chết được sống lại, kẻ giàu hoá nghèo, kẻ nghèo hoá giàu. Ông lão Thương Khâu Khai nghèo đói quẫn bách, nép ở cửa sổ nghe lóm được, chuẩn bị lương thực, xếp vào giỏ, lại nhà Tử Hoa.
 
Bọn đàn em của Tử Hoa đều là hạng gia thế, bận đồ lụa, ngồi xe đẹp. Họ ung ung bước tới, ngó ngang ngó ngửa, liếc thấy Thương Khâu Khai tuổi đã già, sức đã suy, mặt mũi sạm nắng, mũ áo lôi thôi, (…), tỏ vẻ khinh bỉ, nhạo báng, xô đẩy, lôi kéo, làm tình làm tội ông già đủ thứ. Thương Khâu Khai không tỏ vẻ bực mình và bọn đó đùa giỡn riết rồi chán.
 
Rồi họ cùng với Thương Khâu Khai lên một cái đài cao, một người trong bọn nói đùa:
 
- Ai dám nhảy xuống đất thì ta thưởng cho trăm lượng vàng[80].
 
Mọi người đều tán thành. Thương Khâu Khai tin là thật, nhảy xuống đầu tiên. Thân thể ông như chim bay, đáp nhẹ xuống đất, xương thịt không bị thương gì cả. Bọn Phạm Thị cho là chuyện may mắn ngẫu nhiên, chưa phải là quái dị. Dịp khác, họ trỏ một chỗ sâu tại một khúc sông bảo dưới đó có châu bảo, xuống mò sẽ được. Thương Khâu Khai lại tin, lặn xuống, rồi nổi lên, quả nhiên vớt được châu bảo. Lúc đó mọi người mới bắt đầu nghi (có phép lạ nào đó), Tử Hoa mới ra lệnh đãi ông già vào hạng thượng khách, được ăn thịt và bận đồ tơ lụa.
 
Chẳng bao lâu, kho của Phạm Thị cháy lớn, Tử Hoa bảo ông già:
 
- Ông vô đám cháy khuân ra các gấm vóc thì tôi sẽ tuỳ nhiều ít mà thưởng ông.
 
Thương Khâu Khai nhảy vô đám lửa, nét mặt thản nhiên, đi đi lại lại trong lửa rực, không bị khó chịu vì tro bụi, thân thể không bị bỏng.
 
Bọn Phạm Thị cho rằng ông già đó “đắc đạo”, xin lỗi ông:
 
- Chúng tôi không biết ông đắc đạo, cố ý lừa gạt ông. Chúng tôi không biết ông là bậc thần nhân mà muốn làm nhục ông. Xin ông coi chúng tôi như bọn ngu, điếc, đui và dạy cho chúng tôi đạo của ông.
 
Thương Khâu Khai đáp:
 
- Tôi có cái đạo nào đâu. Chính lòng tôi cũng không biết sao lại được như vậy, nhưng có điều này tôi muốn cho các ông hay.
 
Hôm trước, hai ông khách lại tá túc trong nhà tôi, tôi nghe hai ông ấy khen uy thế của họ Phạm, có thể làm cho kẻ sống phải chết, kẻ chết sống lại, kẻ giàu hoá nghèo, kẻ nghèo hoá giàu, tôi thành tâm tin thực, nên không ngại xa mà tới đây. Lại đây, tôi tin lời của các ông là đúng. Tôi chỉ sợ lòng tôi không được chân thành, hành vi của tôi không xứng đáng, mà không nghĩ an hay nguy cho thân tôi, lợi hay hại cho tôi. Tôi chỉ nhất tâm, nhất nguyện, cho nên vật không làm trở ngại cho tôi. Chỉ có vậy thôi. Bây giờ tôi mới biết rằng các ông muốn gạt tôi thì trong lòng tôi sinh ra nghi ngờ, lo sợ, nghe thấy, trông thấy cái gì cũng đâm ngại.
 
Nhớ lại hôm trước thoát chết đuối, chết cháy, tôi hoảng hốt, lo sợ, bừng bừng trong lòng. Từ nay tôi đâu dám lại gần nước và lửa nữa.
 
Từ hôm đó, bọn đàn em Phạm Thị gặp ăn mày hay hạng thú y[81] ở ngoài đường, không dám làm nhục họ nữa, mà còn xuống xe vái là khác.
 
Tể Ngã[82] nghe chuyện đó, kể với Trọng Ni, Trọng Ni bảo:
 
- Anh có biết không? Con người cực thành tín thì có thể cảm động được vạn vật, trời đất, quỉ thần, vượt sáu cõi[83] mà không gì ngăn được, chứ nào phải chỉ vô được chỗ nguy hiểm, vô nước, vô lửa mà thôi đâu. Ông Thương Khâu Khai tin lời gạt của bọn đó mà nước, lửa còn không làm hại ông được, huống hồ là hai bên cùng chân thành cả (thì việc gì mà không làm được?). Các con nên nhớ điều đó.
 
CÁCH NUÔI THÚ DỮ  II.7
(Chu Tuyên vương chi[84] mục chính)
 
Viên quan mục súc của vua Tuyên vương nhà Chu có một người coi vườn thú tên là Lương Ương khéo nuôi các cầm thú rừng. Khi chú ta cho chúng ăn thì ngay những con hổ, chó sói, chim cắt, chim ngạc[85] cũng tỏ ra hiền. Mỗi cặp sinh đẻ thành bầy. Các giống khác nhau sống chung mà không cắn nhau. Nhà vua sợ chú coi vườn đó chết đi, cái thuật nuôi cầm thú cũng mất theo, sai Mao Khâu Viên học thuật đó. Lương Ương nói với Mao Khâu Viên:
 
- Công việc của tôi hèn mọn, có thuật gì truyền cho anh đâu. Tôi sợ nhà vua cho rằng tôi giấu nghề, nên tôi kể cho anh nghe cách tôi nuôi cọp. Bất kì loài nào, hễ thuận ý nó thì nó mừng, nghịch ý nó thì nó giận, tánh đó là tánh chung của các loài có huyết khí. Vậy mừng hay giận có phải là vô cớ phát ra đâu; (một con vật mà hoá dữ) thì luôn luôn là do ta phạm tới điều gì trái ý nó. Như nuôi cọp, tôi không dám cho nó ăn các con vật còn sống, vì nó sẽ vồ, giết con vật đó, mà nổi tánh hung dữ của nó lên. Tôi cũng không cho nó ăn trọn con vật chết, vì nó sẽ xé xác con vật đó, mà nổi tánh hung dữ của nó lên. Tôi theo đúng giờ ăn, biết lúc nào nó đói, nó no; tôi hiểu lí do khiến nó hung dữ mà theo ý nó; nếu bị nó cắn chết thì chỉ tại làm trái ý nó. Cho nên tôi không dám làm trái ý nó[86], khiến cho nó nổi giận, mà cũng không theo bản năng của nó, kích thích nỗi vui của nó, vì vui hết rồi thì tất giận, giận hết rồi thì thường vui; cả hai trường hợp đều không trung hoà (không quân bình).
 
Lòng tôi không muốn làm trái ý chúng cho chúng giận, kích thích cho chúng vui, cho nên các loài cầm thú đều coi tôi như đồng loại của chúng. Cho nên chúng nhởn nhơ trong vườn mà không nhớ cảnh rừng cao, đầm rộng, ngủ trong sân mà không đòi cảnh núi sâu, hang thẳm. Lẽ tự nhiên như vậy.
 
THUẬT LỘI TRONG NƯỚC  II.9
(Khổng tử quan ư Lữ Lương)
 
Khổng Tử ngắm thác nước ở Lữ Lương từ trên cao ba mươi “nhẫn”[87] đổ xuống, cuồn cuộn nổi bọt lên tới ba mươi dặm, ngay đến loài giải, ba ba, cá, kì đà cũng không lội trong dòng đó được. Bỗng ông thấy một người đàn ông lội trong dòng, tưởng người đó có nỗi khổ tâm mà muốn tự tử, bèn sai học trò đi dọc theo bờ thác mà vớt. Nhưng thấy cách chỗ đó vài trăm bước, người đó nhoi lên bờ, vuốt tóc lại, vừa đi vừa hát ở chân đê.
 
Khổng Tử đuổi kịp người đó hỏi:
 
- Thác Lữ Lương từ trên cao ba chục “nhẫn” đổ xuống cuồn cuộn lên tới ba mươi dặm, ngay loài giải, ba ba, cá kì đà cũng không lội trong dòng đó được. Mới đầu tôi thấy chú lội ở trong thác, tưởng chú có nỗi khổ tâm mà muốn tự tử, sai học trò của tôi đi theo bờ mà vớt chú. Rồi chú nhoi lên, vuốt tóc lại, vừa đi vừa hát, ngỡ chú là ma quỉ, lại gần coi kĩ thì thấy chú là người. Xin chú cho biết cái “đạo” (thuật) gì để lội trong nước không?
 
Người đó đáp:
 
- Không, tôi chẳng có đạo lội nước nào cả. Mới đầu tôi tập lội, lớn lên thành một bản tính, cuối cùng thành ra tự nhiên, gặp nước xoáy thì để cho nó cuốn vô rồi lại để nó đưa mình nổi lên, cứ theo cái “đạo” của nước, chứ không theo ý riêng của mình. Nhờ vậy tôi bơi lội dễ dàng trong thác được.
 
Khổng Tử hỏi:
 
- Chú nói: “Mới đầu tôi tập lội, lớn lên thành một bản tính, cuối cùng thành ra tự nhiên” là nghĩa làm sao?
 
Đáp:
 
- Tôi sinh ra ở trên đất cao, thấy yên ổn ở trên đất, đó là bước đầu. Rồi lớn lên ở trong nước, thấy yên ổn ở trong nước. Sau cùng tới lúc tôi không biết tại sao lại như vậy nữa, mà cho nó là điều tự nhiên[88].
 
THUẬT BẮT VE SẦU  II.10
(Trọng Ni thích Sở)
 
Trên đường qua nước Sở, ra khỏi một khu rừng, Trọng Ni thấy một người bắt ve sầu dễ dàng như nhặt vậy. Trọng Ni hỏi người đó:
 
- Ông bắt tài quá, có đạo (thuật) gì không?
 
Đáp:
 
- Có, tôi có đạo bắt ve sầu. Trong năm sáu tháng, tôi tập giữ sao cho hai viên đạn đặt trên đầu gậy không rớt xuống, lúc đó ít con ve sầu nào thoát được tôi[89]. Khi để ba viên đạn trên đầu gậy mà không rớt thì mười con chỉ bắt hụt một con. Khi để năm viên đạn mà không rớt thì bắt chúng dễ như nhặt vậy. Tôi giữ thân thể trơ trơ như khúc cây, cánh tay như một cành khô; chung quanh trời đất mênh mông, có biết bao nhiêu là vật mà tôi chỉ thấy cánh ve sầu thôi; tôi không nhúc nhích một chút, có ai đòi đổi mọi vật để lấy cánh ve sầu, tôi cũng không đổi. Như vậy làm sao không bắt được chúng?
 
Khổng tử quay lại bảo học trò:
 
- Tập trung tinh thần đừng cho phân tán thì không khác gì bậc thần, tức như ông lão này vậy[90].
 
Ông lão đó bảo:
 
- Thầy là hạng (quần dài) áo rộng[91], biết gì mà nói vậy? Hãy sửa cái đạo (dùng nhân nghĩa) của thầy đi, (cho nó trở về đạo tự nhiên) rồi hãy nói như vậy.
 
MỘT CÁCH GẠT KHỈ  II.19
(Tống hữu thư công giả)
 
Nước Tống có một người khéo nuôi khỉ. Ông ấy yêu khỉ, nuôi được một bầy khỉ, hiểu ý chúng mà chúng cũng hiểu ý ông. Ông giảm khẩu phần trong nhà đi để khỉ ăn được đầy đủ, nhưng gặp năm đói kém, thiếu thốn, ông đành phải hạn chế phần ăn của chúng. Sợ chúng phản kháng, mới đầu ông nói gạt chúng như vầy:
 
- Tao cho chúng bay ăn hạt dẻ[92], sáng ba, chiều bốn, đủ không?
 
Chúng đều nổi giận không chịu. Rồi ông bảo :
 
- Thế thì cho chúng bay sáng bốn, chiều ba, đủ không?
 
Chúng đều phủ phục, mừng lắm.
 
Các sinh vật khôn và dại, gạt nhau đều như vậy cả. Thánh nhân dùng trí mà gạt bọn dân ngu, cũng như người nuôi khỉ đó dùng trí mà gạt khỉ. Số hạt dẻ không hề đổi, mà khiến cho bầy khỉ trước giận sau vui[93].
 
TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG  III.10
(Yên nhân sinh ư Yên)
 
Một người nước Yên, sanh ở nước Yên, lớn lên ở nước Sở, tuổi già trở về cố quốc. Khi đi qua nước Tấn, một người đồng hành gạt ông ta, trỏ thành (của nước Tấn) bảo:
 
- Thành nước Yên đấy.
 
Ông già đó cảm động, rầu rĩ.
 
Người kia lại trỏ nền xã[94] bảo:
 
- Nền xã của tổ quốc bác đấy.
 
Ông già thở dài, bùi ngùi.
 
Lại trỏ một ngôi nhà bảo:
 
- Nhà của các cụ hồi trước đấy.
 
Ông già rũ rượi, nhỏ lệ.
 
Lại trỏ mấy nắm mồ:
 
- Mộ của các cụ đấy.
 
Ông già khóc mướt.
 
Người kia cười rộ, bảo:
 
- Tôi gạt bác đấy, đây mới là nước Tấn mà.
 
Ông già mắc cỡ. Khi về tới nước Yên, thấy chính thành quách, nền xã của nước Yên, thấy chính nhà cửa, mồ mả của tổ tiên, thì lòng bi cảm của ông kém nhiều rồi.[95]
 
KHỔNG TỬ XÉT CÁC MÔN SINH  IV.4
(Tử Hạ vấn Khổng tử)
 
Tử Hạ[96] hỏi Khổng tử:
 
- Nhan Hồi[97] là người ra sao?
 
Khổng tử đáp:
 
- Hồi hơn ta về đức nhân.
 
Tử Hạ lại hỏi:
 
- Tử Cống[98] là người ra sao?
 
- Tứ biện thuyết giỏi hơn ta.
 
Tử Hạ lại hỏi :
 
- Tử Lộ[99] là người ra sao?
 
- Do dũng cảm hơn ta.
 
- Tử Trương[100] là người ra sao?
 
- Sư trang nghiêm hơn ta.
 
Tử Hạ đứng dậy hỏi:
 
- Vậy thì sao bốn anh đó phải học thầy?
 
Khổng tử đáp:
 
- Ngồi xuống, ta giảng cho nghe. Hồi có đức nhân nhưng không quyền biến[101]. Tứ có tài biện thuyết mà không biết giữ lời. Do dũng cảm mà không biết có lúc nên nhát. Sư trang nghiêm mà không biết hoà đồng với người. Đổi cái của ta[102] để lấy những đức của bốn anh đó thì ta không đổi. Vì vậy bốn anh đó một mực[103] thờ ta làm thầy[104].

Chú thích:

[1] Nguyên văn là “trưng”. B.G. dịch là: effect (tác động).
[2] Nguyên văn là “chiêm”, có lẽ nên hiểu là trường hợp.
[3] Nguyên văn là “cố”, Trương Trầm chú giải là “cố sự”, B.G. dịch là: Intuition (trực giác).
[4] Nghĩa là đầy vơi, thịnh suy.
[5] Chúng tôi theo chú giải của Trương Trầm, B.G. dịch khác: cho nên ý tưởng trong ban ngày và mộng ban đêm đều ảnh hưởng tới cơ thể hoặc tinh thần.
[6] B.G. dịch là: tinh thần mà tập trung; nhưng tập trung có nghĩa là suy tư mãnh liệt, thì làm sao tiêu tan được? Theo chúng tôi “ngưng lại” có nghĩa là không suy tư gì cả.
[7] B.G. dịch là: “Thực sự cảm thấy (cái thực) thì không phải là hư ngôn (vain mot). Nguyên văn: tín giác bất ngữ.
[8] Nguyên văn: “cơ hư ngữ tai”, B.G. không dịch. Chúng tôi đoán nghĩa như vậy.
[9] Bản chữ Hán chép là: Trịnh nhân hữu tân hoàng dã giả: 鄭人有薪皇野者. (Goldfish).
[10] Quan toà.
[11] Trong Cổ học tinh hoa, bài này có nhan đề là Người kiếm củi được con hươu (bài 209). (Goldfish).
 [12] Tựa như thầy đồ.
[13] Vì Nhan Hồi có đức hơn Tử Cống. Tử Cống ham làm giàu. [Bài này có trong Cổ học tinh hoa, nhan đề là Bệnh quên (bài 139). (Goldfish).
[14] Trong Cổ học tinh hoa, bài 140: Bệnh mê, chép là họ Bàng. (Goldfish).
[15] Chê Khổng Tử mong dùng nhân nghĩa để cứu đời.
[16] Cô Xạ 姑射: Trong Trang tử và Nam Hoa kinh, bài Tiêu dao du 3, cụ NHL phiên âm là Cô Dạ. (Goldfish).
[17] Một đảo ở giữa biển, theo một huyền thoại trong Sơn Hải kinh.
[18] Nguyên văn: trát thương. B.G. dịch là: dịch lệ.
[19] Truyện này có chép vắn tắt trong thiên Tiêu dao du của Trang tử.
[20] Tức Trung Hoa. Người Trung Hoa thời đó cho rằng bốn bề chung quanh nước họ là biển.
[21] Theo truyền thuyết vua Nghiêu là một minh quân, nhân từ, giữ ngôi từ -2357 đến -2255, nước rất thái bình. Ông không truyền ngôi cho con mà truyền cho một người hiền trong nước là ông Thuấn, ông này giữ ngôi từ -2255 đến -2505. Đạo Khổng trước hết, rồi tới đạo Lão, đạo Mặc và cả Pháp gia đều coi Nghiêu, Thuấn là những ông vua kiểu mẫu, những bậc thánh. Mỗi phái đều đề cao chính trị của hai ông đó theo chủ trương của mình.
[22] Khang Cù có nghĩa là đường lớn đưa đi khắp nơi.
[23] Trương Trầm chú giải là: Khiến cho vạn vật được cực (thiện).
[24] B.G. dịch là: “theo mệnh nhà vua”.
[25] Có nghĩa là công thành rồi thì thân thoái.
[26] Bản chữ Hán, do bác Vvn cung cấp, chép:  湯又問曰: 四海之外… Thang hựu vấn viết: Tứ hải chi ngoại… (Goldfish).
[27] Ông vua đã diệt vua Kiệt mà chấm dứt nhà Hạ, mở đầu nhà Thương -3519.
[28] Nước Dinh ở vào khoảng Liêu Ninh Triều Tiên ngày nay.
[29] Nước Bân ở vào khoảng Thiểm Tây ngày nay.
[30] Sách Nhĩ Nhã có kể tên những dân tộc hoặc những nước ở chỗ mà người Trung Hoa thời đó gọi là “tứ hải”, “tứ hoang”, “tứ cực” (đông cực, tây cực, nam cực, bắc cực), chúng tôi nghĩ rằng không cần chép lại.
[31] Ngao là con ba ba rất lớn.
[32] Chuyên Húc: vua thời thượng cổ, cháu vua Hoàng Đế -4950.
[33] Bột Hải, cái vịnh nằm ở trong khoảng bán đảo Liêu Đông, tới bán đảo Sơn Đông.
[34] Bát hoành cũng như bát cực, tám góc thật xa. Cửu dã tức tám phương và trung ương – chỉ nên hiểu tất cả các nước dưới gầm trời.
[35] Có lẽ nên hiểu ở giữa cái khoảng từ cái vực đó tới Trung Quốc.
[36] Nguyên văn: dĩ vi lân cư yên. B.G. không dịch.
[37] Nguyên văn là châu, can, trỏ những thứ ngọc.
[38] Vị thần ở Tây Bắc, sai khiến các rùa thần.
[39] Mỗi đoàn năm con, chia nhau mỗi con đội một trái núi.
[40] B.G. bỏ sáu chữ: “cử túc bất danh sổ thiên”, không dịch. Các sách đều không chú giải, chúng tôi cũng không hiểu nghĩa gì.
[41] Đó là những người lùn, ta nên nhớ thước (xích) Trung Hoa thời đó bằng một gang tay (theo Wieger), vậy một thước rưỡi thời đó chỉ bằng khoảng 3 tấc tây, mà chín tấc chưa bằng hai tấc tây.
[42] B.G. dịch minh linh là loài ma quỉ của cõi âm. [Chữ Hán là: 冥靈. Trong bộ Trang tử và Nam Hoa kinh, bài Tiêu dao du 1, cụ NHL dịch là con rùa thiêng và chú thích rằng: có người giải thích là một loại cây. (Goldfish)]
[43] Có lẽ là loài mối xứ ta, cứ đầu mùa mưa thì bay ra.
[44] Ông vua khởi nghiệp nhà Hạ -4402. Coi bài VII.12.
[45] Bá Ích, Di Kiên là những nhà bác học thời đó.
[46] Li Chu thời Hoàng Đế, Tử Vũ cũng ở thời thượng cổ.
[47] Sư Khoáng là nhạc sư của một ông vua nước Tần.
[48] Một trong đám gồm năm núi (ngũ nhạc) danh tiếng ở Trung Hoa. [Tung Sơn 嵩山 thuộc tỉnh Hà Nam, trong sách in sai thành Trung Sơn. (Goldfish).
[49] Ta thường dịch là cây quít.
[50] Có lẽ là loài yểng, tập nói được tiếng người.
[51] Tựa như con cầy, mũi dài và nhọn, cũng gọi là con mạch (tapir). Không phải chim hạc.
[52] Núi Thái Hình tức núi Thái Hàng. Núi đó với núi Vương Ốc nay ở Hà Nam.
[53] Một nhẫn là tám thước.
[54] Kí Châu nay ở Sơn Tây và Hà Bắc. Hà Dương nay ở Hà Nam.
[55] Ngu Công nghĩa là ông già ngu.
[56] Dự Nam ở phía nam Dự Châu. Hán Âm ở phía bắc sông Hán, nay ở Hồ Bắc.
[57] Một ngọn núi nhỏ.
[58] Theo Hoài Nam tử, Ẩn Thổ ở Đông Bắc Trung Hoa.
[59] Tri Tẩu nghĩa là ông già sáng suốt, khôn.
[60] Theo truyền thuyết Trung Hoa, các thần núi, biển đều chỉ huy loài rắn.
[61] Bản chữ Hán đăng trên http://cls.hs.yzu.edu.tw chép là 夸蛾 (Khoa Nga); còn bản do bác Vvn cung cấp chép là 萬蛾 (Vạn Nga). (Goldfish).
[62] Trong Cổ học tinh hoa, truyện 243: Ngu công dọn núi, bỏ đoạn từ “Vị thần chỉ huy loài rắn” đến “một trái ở Ung Nam”. (Goldfish).
[63] Trong sách, cả hai bản đều in là: “phía bắc Hà Dương Âm”. Bản chữ Hán do bác Vvn cung cấp chép là: Hán chi âm 漢之陰. (Goldfish).
[64] Cũng gọi là Ngu Uyên, theo truyền thuyết là chỗ mặt trời lặn.
[65] Hà là sông Hoàng Hà, Vị là một con sông ở Thiểm Tây.
[66] Ông Vũ, sáng lập nhà Hạ, hồi còn làm bề tôi vua Thuấn, được vua Thuấn giao cho việc khai thông sông, đầm cho khỏi lụt.
[67] Nghĩa là tận cùng phương Bắc.
[68] Hai thứ rượu ngon nhất.
[69] Sách in là: bị phát; bản chữ Hán chép là: chúc phát 祝發.(Goldfish).
[70] Chữ Hán gồm bộ xa (xe) bên trái và chữ Vĩnh (lâu dài) bên phải, không sách nào trỏ cách đọc, Từ Hải, Từ Nguyên đều không ghi. [Bản chữ Hán do bác Vvn cung cấp chép là Triếp (Mộc) 輒 (木). Chữ Mộc có bản chép là: 沐. (Goldfish)]
[71] Viêm là nóng. Viêm nhân là người xứ nóng. Chương này có lợi cho các nhà nhân chủng học, xã hội học vì các truyền thuyết ấy không phải hoàn toàn vô căn cứ.
[72] Thinh Quang, trong bài Bí ẩn của cái chết, viết: “Có một số luận cứ cho rằng “hỏa táng” xuất xứ từ Ấn Ðộ, vào đời Hán du nhập vào Trung Quốc. Thực ra, không phải vậy. Chính gốc gác về “hỏa táng” theo như sách “Liệt Tử” cho biết: “Nước Nghi Cừ ở phía Tây Tần, nằm ven theo dòng sông Kinh Hà, Khánh Dương, thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay, khi có người quá cố, mang củi chất lên thiêu giữa trời. Ngọn khói bay cao chừng nào thì linh hồn người chết càng được siêu thăng!”. (Goldfish).
[73] Thị: Bản chữ Hán đăng trên trang http://philosophy.sysu.edu.cn/wgzx/info_Show.asp?ArticleID=283 chép là: 氏 (thị), còn bản do bác Vvn cung cấp chép là: 樂 (nhạc, lạc, nhạo). (Goldfish).
[74] Có lẽ là chằm, do in sai mà thành ra trằm. Chữ Hán là: trạch 澤 (nghĩa là: chằm, đầm). (Goldfish).
[75] Trong Cổ học tinh hoa, truyện 224: Cũng là ăn trộm, chỉ dịch tới đây. (Goldfish).
[76] Nghĩa là nội cái việc sống cũng là ăn trộm sự sống của trời đất rồi, cho nên không muốn ăn trộm cũng là ăn trộm.
[77] Ý nói: mọi vật đều do thiên nhiên, không phân biệt chung và riêng, thì còn phân biệt ăn trộm với không ăn trộm làm gì.
[78] Ba đại thần cũng như chức thượng thư đời sau.
[79] Tử Hoa nuôi khách trong nhà để gây tiếng tốt cho mình.
[80] Bách kim. Chữ kim này trỏ một đơn vị tiền tệ, có thể là một cân, một dật (24 cân), một lượng, một đồng tiền; lại có thể là vàng, là bạc hay là đồng.
[81] Hạng này xưa bị khinh rẻ, tiếng Trung Hoa gọi là “nhã y”, thầy lang ngựa. [Chắc sách in lầm “mã” thành “nhã”. Các bản chữ Hán đều chép là: mã y 馬醫. (Goldfish)].
[82] Môn đệ của Khổng tử, tên là Tể Dư, tên tự là Ngã, có khẩu tài, làm quan đại phu nước Tề, phải tội, bị giết cả ba họ.
[83] Lục hợp là trời đất (trên dưới), và bốn phương: đông, tây, nam, bắc.
[84] Bản chữ Hán đăng trên http://zh.wikisource.org/wiki chép là: chi 之, còn bản do bác Vvn cung cấp chép là phương: 方. (Goldfish).
[85] Loài chim có mỏ lớn, chân có màng, bắt tôm cá.
[86] Đoạn nuôi cọp này có chép trong thiên Nhân gian thế của Trang tử, nhưng vắn tắt hơn.
[87] Coi chú thích V.3.
[88] Truyện này có chép trong thiên Đạt sinh của Trang tử. Như chúng tôi đã nói trong thiên II phần I, truyện này được chép lại trong bài VIII.10, chỉ đoạn kết là thay đổi.
[89] Người ta dùng nhựa dính bôi vào đầu gậy, chấm vào cánh ve sầu là bắt được nó.
[90] Truyện này có chép trong thiên Đạt sinh của Trang tử.
[91] Ý nói bọn nhà Nho, như ta nói bọn thầy Đồ.
[92] Hạt dẻ: Trong Trang tử và Nam Hoa kinh, bài Tề vật luận 2, cụ NHL ghi là “trái lật” và chú thích: “Nguyên văn chỉ có tam, tứ (ba, bốn), chứ không nói rõ ba, bốn cái gì. Các bản dịch thường thêm ‘trái lật’: chataigne hoặc ‘thăng’: một đơn vị đo lường cho dễ hiểu”. Trong Liệt tử, bản chữ Hán cũng “chỉ có tam, tứ (ba, bốn)…”. (Goldfish).
[93] Truyện này có chép trong thiên Tề vật luận của Trang tử.
[94] Chỗ tế thần đất.
[95] Truyện này, trong Cổ học tinh hoa, có nhan đề là Cảm tình. (Goldfish).
[96] Tên Bốc Thương, đốc tín, cẩn thủ, hay bàn về những điều tinh vi.
[97] Coi chú thích bài IV.1.
[98] Tên là Đoan Mộc Tứ, có tài biện thuyết, thích buôn bán.
[99] Tên là Trọng Do, cũng có tên là Quí Lộ, giỏi binh bị, tính quả cảm, cương trực.
[100] Tên là Chuyên Tôn Sư, tính ung dung, nhúng nhường.
[101] Nguyên văn: bất năng phân; có sách dịch là không biết nghĩ lại. B.G. dịch là: không biết tranh luận. Nhưng có sách lại bảo chữ phân đó chính là chữ nhẫn (nhịn) in lầm.
[102] Tức thái độ “vô khả, vô bất khả”.
[103] Nguyên văn: thử kì sở dĩ sự ngô nhi bất nhị dã. Đường Kính Cảo chú thích bất nhị là không có lòng ngờ gì cả. B.G. dịch là: không thờ một người nào khác. Có sách lại dịch là không có hai lòng.
[104] Truyện này chép đúng như vậy trong Khổng tử gia ngữ.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 225
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com