watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:56:4618/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Liệt Tử Và Dương Tử - Trang 8
Chỉ mục bài viết
Liệt Tử Và Dương Tử
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Tất cả các trang
Trang 8 trong tổng số 13

Phần IV - Tỉnh và mộng



BÀN VỀ TỈNH VÀ MỘNG  III.4
(Giác hữu bát trưng)
 
Trạng thái tỉnh có tám biểu hiện[1], trạng thái mộng có sáu điềm[2]. Tám biểu hiện đó là gì? Là chuyện cũ[3], hành động, được, mất, buồn, vui, sinh, tử. Tám biểu hiện đó ở trong cõi hình thể.
 
Sáu điềm là gì? Là chính mộng (ở yên mà mộng), kinh ngạc mà mộng, nhớ nhung nghĩ ngợi mà mộng, thức mà mộng (mơ mộng), vui mà mộng, lo lắng mà mộng. Sáu thứ mộng đó do thần giao mà có (ở trong cõi tinh thần).
 
Ai không biết những cảm biến đó phát sinh từ đâu thì khi việc xảy ra, không hiểu được nguyên nhân. Hiểu được nguyên nhân thì không còn kinh ngạc, xót xa nữa.
 
Bất kì một cơ thể nào, dù doanh, hư[4], hoạt động hay nghỉ ngơi, đều cảm thông với trời đất, cảm ứng với vạn vật. Cho nên khi khí âm mạnh thì thấy qua sông lớn mà hoảng sợ, khí dương mạnh thì mộng thấy qua đám lửa rực mà cảm thấy nóng bỏng. Khí âm và khí dương đều mạnh thì mộng thấy sống hoặc chết.
 
No thì mộng thấy mình cho người ta; đói thì mộng thấy mình lấy của người. Người nào có tật sôi nổi thì mộng thấy lên cao; người nào (trái lại) có tật trầm trọng thì mộng thấy chết đuối. Quấn dây lưng mà ngủ thì mộng thấy rắn; chim ngậm tóc mà bay, thì ai có sợi tóc đó sẽ mộng thấy bay. Lại gần cái “âm” thì mộng thấy lửa, sắp đau thì mộng thấy ăn; sau khi uống rượu thì buồn, sau khi hát múa thì khóc.
 
Thầy Liệt tử bảo:
 
- Tinh thần người ngủ gặp cái gì thì cái đó là mộng, cơ thể tiếp xúc cái gì thì cái đó là thực; cho nên ngày nghĩ tới cái gì thì đêm mộng cái đó, thế là tinh thần và cơ thể gặp nhau[5]. Cho nên tinh thần mà ngưng lại[6], thì tư tưởng và mộng mị tự nhiên tiêu tan. Tìm điều mình thấy khi tỉnh thì không nói[7], tìm điều mình thấy trong mộng thì là không sáng suốt, chỉ là sự biến hoá qua lại của sự vật thôi. Bậc chân nhân thời xưa khi tỉnh thì quên mình đi, khi ngủ thì không nằm mộng, lời đó có thể tin được[8].
 
MỘNG ĐỂ BÙ THỰC  III.6
(Chu chi Doãn thị đại trị sản)
 
Ở nước Chu có người họ Doãn, gia sản rất lớn, bọn tôi tớ hầu hạ từ sáng đến tối không được nghỉ. Có một người đầy tớ già, đã kiệt lực mà lại phải làm rất nhiều. Ban ngày chú ta hổn hển làm việc, ban đêm mệt mỏi ngủ li bì, tinh thần phiêu tán, đêm nào cũng nằm mê thấy mình làm vua, cai trị muôn dân, nắm hết mọi việc trong nước, đi lui đi tới trong cung điện, muốn làm gì thì làm, sung sướng vô cùng. Tỉnh dậy lại làm cái thân tôi tớ.
 
Có người thấy chú ta vất vả, tỏ lời an ủi. Chú ta đáp:
 
- Đời người dù sống trăm năm thì cũng một nửa là ngày, một nửa là đêm. Tôi, ban ngày làm thân nô lệ thì khổ thực. Nhưng ban đêm được làm vua, còn gì sướng bằng? Còn oán hận nỗi gì?
 
Còn ông họ Doãn kia, lòng bận việc đời, trí lo sản nghiệp, tâm thần và thể xác đều mệt mỏi, đêm nào cũng ngủ li bì, nằm mê thấy mình làm tôi tớ, tất tả làm hết mọi việc, mà còn bị đánh, bị mắng, cực khổ trăm chiều. Trong mộng, ông ta mê sảng, hổn hển suốt đêm, sáng dậy mới hết.
 
Họ Doãn thấy vậy lo buồn, hỏi ý một người bạn. Người này đáp:
 
- Địa vị của bác đủ vẻ vang rồi, tài sản của bác dư dật hơn người ta nhiều rồi. Ban đêm có nằm mê thấy làm tôi tớ, thì cũng là vui khổ thay phiên nhau, đó là lẽ thường. Muốn cho lúc tỉnh với lúc mộng đều sung sướng cả, thì đâu được?
 
Nghe bạn nói vậy, ông ta nới tay cho tôi tớ, giảm việc làm ăn, lo lắng cho mình, mà tật (mộng mị) bớt nhiều.
 
MỘNG HAY THỰC?  III.7
(Trịnh nhân hữu tân ư dã giả)[9]
 
Một người nước Trịnh ra đồng kiếm củi, gặp một con hươu chạy trốn, rình đón, đập chết được. Sợ người khác thấy, anh ta giấu nó trong cái hào cạn, lấy cành cây phủ lên, mừng rỡ lắm.
 
Nhưng rồi anh ta quên mất chỗ giấu, cho rằng mình đã nằm mộng, vừa đi vừa lẩm bẩm (một mình) về chuyện đó. Một người nghe lóm được, theo lời anh ta nói mà tìm được con hươu đem về.
 
Tới nhà, bảo vợ:
 
- Một gã kiếm củi, nằm mộng thấy bắt được con hươu mà quên không biết giấu nó ở đâu; anh tìm ra được này. Gã đó đúng là nằm mê.
 
Người vợ nói:
 
- Hay là chính anh mộng thấy người kiếm củi bắt được con hươu, chứ có người kiếm củi nào thực đâu? Nay quả anh được con hươu, thì mộng của anh đúng rồi.
 
Người chồng bảo:
 
- Anh đã thực bắt được con hươu thì cần gì biết anh nằm mê hay gã đó nằm mê.
 
Người kiếm củi về nhà, rầu rĩ vì mất con hươu, đêm đó mộng thấy chỗ giấu nó và mộng thấy người đã chiếm được nó. Sáng dậy, cứ theo đúng mộng mà tìm ra được người đó, trách mắng, đòi lại con hươu. Việc đưa lên quan sĩ sư[10]. Quan sĩ sư bảo người kiếm củi:
 
- Anh mới đầu quả thực bắt được con hươu, rồi nghĩ lầm mà bảo là mộng; hay mới đầu quả thực anh nằm mộng bắt được con hươu, rồi nghĩ lầm mà bảo là chuyện thực? Còn anh kia, có thực là lấy con hươu của anh mà tranh giành lại không? Vợ anh ấy lại bảo chồng nằm mộng thấy con hươu của người ta, chứ không ai được hươu cả. Nhưng quả có con hươu đây thì ta tính chia hai, và trình lên vua Trịnh để ngài phán.
 
Vua Trịnh phán:
 
- Ta ngờ rằng quan sĩ sư cũng lại nằm mê thấy rằng mình cắt con hươu ra làm hai nữa.
 
Rồi nhà vua hỏi quan tướng quốc. Quan tướng quốc tâu:
 
- Mộng hay không mộng, thần không thể quyết đoán được. Phân biệt được mộng hay không thì phải là Hoàng Đế hay Khổng Tử. Nhưng Hoàng Đế và Khổng tử đã chết thì ai mà phân biệt được. Thôi thì cứ làm theo lời ông sĩ sư là xong.[11]
 
QUÊN HẾT LẠI SƯỚNG  III.8
(Tống Dương Lí Hoa tử)
 
Một người tên là Hoa Tử ở đất Dương Lí nước Tống, khi đứng tuổi mắc bệnh quên, sáng lấy cái gì thì tối quên rồi, tối cho ai cái gì thì sáng đã quên rồi, đi đường thì quên mình định đi đâu, ở nhà thì quên ngồi, lúc này quên lúc trước, lúc sau quên lúc này. Cả nhà rầu rỉ lắm.
 
Nhờ thầy bói cho, quẻ không dạy gì cả; nhờ thầy pháp cúng cho, không hết; nhờ thầy lang trị cho, cũng trơ trơ.
 
Nước Lỗ có một nho sinh[12] tự giới thiệu là có thể trị được. Vợ con Hoa tử hứa nếu trị được thì xin tặng nửa gia tài.
 
Nho sinh đó bảo:
 
- Bệnh đó vốn không thể bói mà biết được, không thể cúng mà hết được, không thể dùng thuốc mà trị được. Tôi thử sửa tâm tính ông ấy, đổi trí lự ông ấy, may ra đỡ được chăng.
 
Thế rồi nho sinh đó cởi hết áo của Hoa tử ra, thấy ông ta đòi mặc; bắt ông ta chịu đói, thấy ông ta đòi ăn; nhốt ông ta vào chỗ tối, thấy ông ta đòi ra chỗ sáng. Và nho sinh đó vui vẻ bảo con Hoa tử:
 
- Bệnh có thể chữa được đấy; nhưng phương của tôi bí truyền, không thể cho người khác biết được. Xin ngăn hết các người chung quanh, để tôi ở riêng với ông nhà bảy ngày.
 
Người nhà làm theo, không biết nho sinh đó trị cách nào mà căn bệnh đã mấy năm đó nhất đán khỏi hẳn.
 
Hoa tử khi đã tỉnh rồi, nổi giận đùng đùng, đuổi vợ, đánh con, vác cây mác đuổi nho sinh. Người Tống níu lại, hỏi tại sao, Hoa tử đáp:
 
- Trước kia tôi quên hết, thanh thản, không biết trời đất có hay không nữa. Nay bừng tỉnh, những gì xảy ra mấy chục năm nay, còn hay mất, thua hay được, vui buồn, yêu ghét, bời bời muôn mối trong lòng, tôi sợ những nỗi còn mất, thua được, vui buồn, yêu ghét lại sẽ làm rối loạn trong lòng tôi nữa; có muốn quên một lát, phỏng còn được nữa không?
 
Tử Cống nghe chuyện đó, lấy làm lạ, hỏi Khổng tử, Khổng tử bảo:
 
- Anh không hiểu được đâu.
 
Rồi quay lại bảo Nhan Hồi:
 
- Chép lại chuyện đó đi[13].
 
THIÊN HẠ ĐỀU MÊ CẢ  III.9
(Tần nhân Phùng thị hữu tử)
 
Người họ Phùng[14] nước Tần có một người con trai hồi nhỏ rất thông minh, mà lớn lên mắc tật mê loạn: nghe tiếng hát thì bảo là tiếng khóc, nhìn màu trắng thì bảo là màu đen, ngửi mùi thơm thì bảo là mùi thối, nếm vị ngọt thì bảo là vị đắng, làm điều quấy thì bảo là điều phải. Trời đất, bốn phương, lửa nước, nóng lạnh, trong óc anh ta đều đảo lộn, sai lầm hết.
 
Một người họ Dương bảo cha thanh niên đó:
 
- Vị quân tử nước Lỗ (Khổng Tử) nhiều tài nghệ, may ra trị được bệnh đó, sao bác không qua hỏi xem.
 
Người cha bèn sang nước Lỗ, khi đi qua nước Trần, gặp Lão Đam (Lão tử), kể bệnh của con cho Lão Đam nghe. Lão Đam bảo:
 
- Làm sao chú biết được rằng con chú mê loạn. Ngày nay khắp thiên hạ đều mê hoặc về phải trái, hôn ám về lợi hại. Kẻ bị bệnh đó nhiều quá tới nỗi không ai thấy nữa. Vả lại, một người mê loạn, không đủ làm cho cả nhà khuynh đảo được; một nhà mê loạn, không đủ làm cho cả làng khuynh đảo được; một làng mê loạn, không đủ làm cho cả nước khuynh đảo được; cả nước mê loạn, không đủ làm cho cả thiên hạ khuynh đảo được; mà khi cả thiên hạ mê loạn thì còn ai làm cho nó khuynh đảo được nữa? Ví thử khắp thiên hạ đều như con chú hết thì ngược lại chính chú mới là người mê loạn; và còn ai hiểu chính được cái ý niệm về vui buồn, thanh âm, màu sắc, mùi vị, phải trái nữa? Ngay lời tôi vừa nói với chú đó, cũng vị tất là không mê loạn, huống hồ cái ông quân tử nước Lỗ kia, còn mê loạn hơn ai hết[15], thì còn trị bệnh mê cho ai được nữa? Thôi chú nên về nhà gấp đi, đừng phí tiền ăn đường nữa.
 
V. HUYỀN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT
 
XỨ THẦN TIÊN  II.2
(Liệt Cô Xạ sơn)
 
Dãy núi Cô Xạ[16] ở Hải Hà Châu[17]. Trên núi có thần nhân hít gió uống sương (mà sống) chứ không ăn ngũ cốc. Lòng họ như dòng suối sâu, thân thể họ như gái tân.
 
Họ không thiên vị, không yêu riêng ai. Tiên thánh là bề tôi của họ. Họ không sợ, không giận. Sứ giả của họ là những người trung hậu, thuần phác. Họ không ban ân huệ, mà mọi vật đều tự túc; không thu nhặt gom góp mà không thiếu thứ gì.
 
Âm dương luôn luôn điều hoà, mặt trăng mặt trời luôn luôn sáng tỏ, bốn mùa bao giờ cũng thuận, gió mưa bao giờ cũng hoà; thực vật cứ đúng thời mà có, mùa màng năm nào cũng trúng, đất cát không bị thương tổn[18], người không chết yểu, vạn vật không bị bệnh tật, quỉ không xuất hiện, hết linh[19].
 
TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁC XỨ LẠ  III.3
(Tây cực chi nam ngung hữu quốc yên)
 
Ở phía nam góc cực tây có một nước không biết cảnh giới tới đâu, gọi là nước Cổ Mãng. Ở đó khi âm và khí dương không giao nhau, cho nên không có lạnh, không có nóng; ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu, cho nên không có ngày, không có đêm. Dân chúng không ăn, không mặc mà ngủ nhiều, năm mươi ngày mới tỉnh dậy một lần, cho việc làm trong mộng mới là thực, còn những cái thấy khi tỉnh là sai.
 
Ở giữa bốn bể, có một nước trung ương[20]. Nước đó trải ra phía bắc và phía nam sông Hoàng hà, ở phía đông và phía tây núi Thái Sơn, trên vạn dặm. Khí âm, khí dương điều hoà với nhau, cho nên cứ hết lạnh thì tới nóng, hết nóng thì tới lạnh; tối và sáng phân biệt, cho nên hết đêm tới ngày, hết ngày tới đêm. Dân chúng có người trí kẻ ngu, vạn vật phồn thịnh, tài nghệ nhiều vẻ, vua tôi thân nhau, lễ nghĩa và pháp luật dựa lẫn nhau. Không sao kể hết được ngôn, hành của họ. Họ thức rồi ngủ, ngủ rồi thức, cho việc làm khi thức là thực, còn những cái thấy khi ngủ là sai.
 
Ở phía bắc góc cực đông có một nước gọi là Phụ Lạc. Ở đó hơi đất thường nóng; ánh sáng mặt trời mặt trăng nhiều quá, đất đai không sinh được lúa tốt, dân chúng ăn rễ và trái cây, không biết nấu nướng. Tính tình họ cứng cỏi, hung hãn, kẻ mạnh áp bức kẻ yếu, họ chỉ quí kẻ thắng mà không biết trọng nghĩa. Họ lăng xăng hoài, ít nghỉ ngơi,thường thức mà không ngủ.
 
VUA NGHIÊU TRỊ NƯỚC  IV.14
(Nghiêu trị thiên hạ ngũ thập niên)
 
Vua Nghiêu[21] trị thiên hạ năm chục năm rồi mà không biết thiên hạ có bình trị không. Không biết hàng ức hàng triệu người dân đó có tôn phụng mình không. Ông hỏi các người chung quanh (các đại thần), họ không biết; hỏi những người ngoài vô triều, họ cũng không biết; hỏi dân quê, dân quê cũng không biết. Ông bèn cải trang vi hành ở Khang Cù[22], nghe thấy trẻ con hát bài này:
 
Nuôi khắp dân ta
Đó là công lớn của người[23];
Dân chẳng biết gì cả
Chỉ theo mệnh trời[24]
 
Vua Nghiêu mừng lắm, hỏi:
 
- Ai dạy các con bài đó?
 
Chúng đáp:
 
- Quan đại phu dạy chúng con.
 
Vua Nghiêu tìm hỏi quan đại phu, quan đại phu đáp:
 
- Đó là một bài thơ cổ.
 
Vua Nghiêu trở về cung, vời ông Thuấn lại, nhường ngôi cho[25]. Ông Thuấn nhận.
 
TRUYỀN THUYẾT VỀ TRỜI ĐẤT  V.1
ChúngtôibỏnửatrênđạiýHạCáchđápvuaThangrằngvũtrụvôcùngvôtận;màbắtđầudịchtừ: 
Vua Thang[27] lại hỏi (quan đại phu Hạ Cách):
 
- Ở bên kia bốn bể có gì không?
 
Hạ Cách đáp:
 
- Cũng như ở Tề Châu (tức Trung Quốc) này vậy.
 
- Lấy gì làm bằng cớ?
 
- Tôi đã đi về phía đông, tới nước Dinh[28], nhân dân ở đó cũng như ở đây; hỏi người ở đó phía đông nước Dinh ra sao, họ đáp cũng như nước Dinh; tôi đi về phía tây, tới nước Bân[29], nhân dân ở đó cũng như ở đây, hỏi người ở đó về phía tây nước Bân ra sao, họ đáp cũng như ở nước Bân. Cho nên tôi cho rằng bên kia tứ hải (bốn bể), tứ hoang (bốn cõi hoang), tứ cực (bốn cõi cùng cực)[30] cũng không khác gì ở đây.
 
Cho nên cái lớn trùm cái nhỏ, không có cùng cực. Cái bao trùm vạn vật, cũng là cái bao trùm trời đất. Bao trùm vạn vật, trời đất, cho nên không có cùng cực. Nhưng làm sao tôi biết được ở ngoài trời đất của chúng ta có một trời đất lớn hơn nữa không? Điều đó ngoài sự hiểu biết của tôi.
 
Nhưng trời đất cũng là “vật”, mà đã là vật thì không hoàn toàn, cho nên hồi xưa bà Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá chỗ khuyết của trời, chặt chân của con ngao[31] để chống đỡ tứ cực. Về sau họ Cung Công tranh nhau ngôi Hoàng Đế với Chuyên Húc[32], giận mà đập núi Bất Chu, làm gãy mất cái trụ đỡ trời, đứt mất dây cột đất, cho nên trời mới nghiêng về phía tây bắc, mà mặt trời mặt trăng, các ngôi sao chạy về phía đó; còn đất thì khuyết ở phía đông nam, cho nên trăm sông lớn nhỏ đều đổ về phía đó.
 
NHỮNG CÁI LẠ TRONG VŨ TRỤ  V.2
(Thang hựu vấn: vật hữu cự tế hồ?)
 
Vua Thang lại hỏi:
 
- Các vật có lớn nhỏ, dài ngắn, giống nhau khác nhau không?
 
Hạ Cách đáp:
 
- Ở phía đông Bột Hải[33], không biết bao nhiêu ức vạn dặm, có một cái vực lớn, không đáy, gọi là Qui Khư. Tất cả nước ở bát hoành, cửu dã[34], tất cả nước ở Ngân Hà đều chảy vào đó mà mực nước không lên không xuống. Giữa[35] có năm ngọn núi: Đại Dư, Viên Kiệu, Phương Hồ, Doanh Châu và Bồng Lai.
 
Châu vi chân núi là ba vạn dặm, đỉnh núi bằng phẳng, chu vi chín ngàn dặm; núi nọ cách núi kia bảy vạn dặm, mà như hàng xóm với nhau[36]. Lâu đài trên núi đều bằng vàng ngọc; các cầm thú đều màu trắng, các cây quí[37] đều sum suê, hoa quả đều thơm ngon, ăn vô thì trường sinh bất tử. Người ở trên núi đó đều là hạng tiên, thánh, sớm tối họ bay đi thăm nhau, nhiều không kể được. Mới đầu năm ngọn núi đó không dính vào đáy biển, thường trôi nổi, theo thuỷ triều mà lên xuống, không tạm đứng yên được; các vị thánh tiên bất mãn, phàn nàn với Thượng Đế.
 
Thượng Đế sợ những ngọn núi đó trôi về tây cực, không có chỗ ở cho các vị thánh tiên, ra lệnh cho thần Ngu Cương[38], sai mười lăm con ba ba lớn ngóc đầu lên đội núi, chia làm ba đoàn[39], cứ sáu vạn năm lại thay phiên nhau, từ đó năm ngọn núi mới đứng yên mà không lắc lư nữa.
 
Nhưng một hôm có một người khổng lồ ở nước Long Bá (…)[40] lại gần năm cái núi đó mà câu một lần được sáu con ba ba, vác trên lưng đem về, đốt mai để bói. Do đó mà hai ngọn núi Đại Dư và Viên Kiệu trôi về phía bắc cực, chìm xuống biển lớn, các tiên thánh tản mác đi có tới số ức (?). Thượng Đế nổi giận, thu hẹp nước Long Bá lại, và làm cho dân nước đó nhỏ con lại, nhưng tới đời Phục Hi, Thần Nông, người nước đó vẫn còn cao vài chục trượng.
 
Ở phía đông, cách Trung Châu (tức Trung Hoa) bốn chục vạn dặm, có nước Tiêu Nghiêu, người cao một thước năm tấc, ở góc đông bắc, có giống người tên là Tránh, cao chín tấc[41].
 
Ở phía nam nước Kinh (tức nước Sở) có cây minh linh[42], mùa xuân là năm trăm năm, mùa thu là năm trăm năm. Thời thượng cổ có cây xuân lớn, mùa xuân là tám ngàn năm, mùa thu là tám ngàn năm. Trên đất thối có thứ nấm sáng sinh chiều chết. Mùa xuân và mùa hè có loài mông nhuế sinh ra trong lúc mưa và trời nắng lên thì chết[43].
 
Ở phía bắc Chung Bắc có một cái biển gọi là ao trời, biển đó có loài cá chiều ngang là mấy ngàn dặm, chiều dài xứng với chiều ngang, gọi là con cá côn; có loài chim gọi là chim bằng, cánh như cánh mây rũ ở trên trời, thân mình cũng xứng với cánh. Người đời đâu biết được những vật đó. Vua Đại Vũ[44] đi tới nơi mà thấy được, ông Bá Ích biết những loài đó mà đặt tên cho, ông Di Kiên[45] nghe nói mà ghi lại.
 
Ở khoảng giữa sông Giang và sông Phố, có loài trùng rất nhỏ gọi là con tiêu minh, bay từng đàn rồi đáp xuống lông mi mắt con muỗi mà không chạm vào nhau. Chúng ở nhờ, đi đi lại lại mà con muỗi không hay; những người mắt cực sáng như Li Chu, Tử Vũ[46] giữa ban ngày, dụi con mắt giương mi cố nhìn mà cũng không thấy; những người tai cực thính như Đệ Du, Sư Khoáng[47] giữa đêm (tĩnh mịch) cúi đầu lắng nghe mà không thấy tiếng của chúng. Chỉ có vua Hoàng Đế với ông Dung Thành tử ở trên núi Không Đồng, cùng trai giới ba tháng, lòng như tắt, hình hài tiều tuỵ, mới lần lần dùng tinh thần mà thấy rõ chúng lù lù như sườn núi Tung Sơn[48], lần lần dùng cái khí mà nghe thấy tiếng ầm ầm như sét.
 
Nước Ngôi và nước Sở có một loại cây lớn tên là cây dữu, lá xanh biếc, mùa đông mới nở hoa, trái đỏ và vị chua, vỏ nó trừ được bệnh sốt rét cơn. Người Tề Châu quí cây đó lắm, đem nó trồng ở phía bắc sông Hoài, nhưng nó biến tính đi thành cây chỉ[49]. Loài cù dục[50] không vượt được sông Tế, loài hạc[51] vượt sông Vấn thì chết, đó là do khí hậu vậy.
 
Các loài, tuy hình, khí khác nhau, nhưng đều được bẩm thụ cái tính riêng của trời đất, không thay đổi lẫn nhau; đời sống của mỗi loài đều hoàn hảo, thoả mãn về phận của mình. Làm sao biết được thế nào là lớn và nhỏ, là dài và ngắn, là giống nhau và khác nhau.
 
NGU CÔNG SAN NÚI  V.3
(Thái Hình, Vương Ốc nhị sơn)
 
Hai ngọn núi Thái Hình và Vương Ốc[52] rộng bảy trăm dặm vuông, cao vạn nhẫn[53], xưa kia vốn ở phía nam Kí châu và phía bắc Hà Dương[54]. Ở gần Bắc Sơn, có ông Ngu Công[55], tuổi đã chín mươi, nhà đối diện với núi, bực mình rằng núi chắn lối, sự giao thông với miền ngoài hoá ra xa xôi bất tiện. Ông bèn hội họp con cháu trong nhà bảo:
 
- Ta và các con tận lực san bằng núi đó để có đường đi thẳng ra Dự Nam, tới Hán Âm[56], được không?
 
Mọi người đều bằng lòng, duy có bà vợ tỏ ý nghi ngờ:
 
- Sức ông không san nổi ngọn núi Khôi Phủ[57], làm sao san nổi núi Thái Hình và núi Vương Ốc? Với lại san rồi, đem đất, đá đổ vào đâu?
 
Những người khác đều đáp:
 
- Đổ xuống phía cuối Bột Hải, phía bắc Ẩn Thổ[58].
 
Thế rồi ông lão sai ba người con cháu đập đá, đào đất, đổ vào sọt, đội vác, khiêng lại đổ ở phía cuối Bột Hải. Một quả phụ (chồng tên là Kinh Thành), ở gần đó, có một đứa con trai mới thay răng sữa, cũng lại tiếp tay, tới hết đông, qua hè mới trở về nhà.
 
Ông lão Trí Tẩu[59] ở Hà Khúc hay tin, chế nhạo và ngăn cản:
 
- Sao mà ngu thế! Già nua, yếu đuối như vậy, không nhổ được một cọng cỏ trên núi, mà đòi san bằng đất với đá.
 
Ngu Công ở Bắc Sơn, thở dài, đáp:
 
- Chú thật vô tình, lòng không sao chuyển được, không bằng người đàn bà goá và đứa bé yếu ớt này. Tôi chết thì còn con tôi, con tôi lại sinh cháu, cháu tôi lại sinh chắt, chắt tôi lại sinh con, con nó lại sinh cháu; con con cháu cháu, sinh hoài bất tuyệt, không lúc nào thiếu người, mà núi kia thì cứ như vậy chứ không tăng, vậy lo gì không san phẳng được?
 
Ông Trí Tẩu ở Hà Khúc không biết đáp sao.
 
Vị thần chỉ huy loài rắn[60] hay chuyện đó, sợ việc san phẳng núi không thành, tâu với Thượng Đế. Thượng Đế cảm động vì lòng thành của Ngu Công, sai hai người con của thần Khoa Nga[61] đội hai trái núi đó, đặt một trái ở Sóc Đông, một trái ở Ung Nam. [62] Từ đó ở phía nam Kí Châu và ở phía bắc Hà Dương Âm[63] không còn ngọn núi nào ngăn cản bộ hành nữa.
 
KHOA PHỦ  V.4
(Khoa Phủ bất lượng lực)
 
Khoa Phủ không tự lượng sức, muốn đuổi bắt bóng mặt trời. Đuổi tới biên giới Ngung Cốc[64], khát quá, xuống uống nước sông Hà, sông Vị[65]. Uống cạn hai sông đó mà chưa đả khát, Khoa Phủ muốn lên phương bắc uống nước ở cái đầm lớn, giữa đường vì khát quá mà chết, để lại cây gậy. Gậy thấm đầy thịt xương tan rửa của ông mà đâm rễ, lá thành rừng Đặng, rừng này rộng mấy ngàn dặm.
 
MỘT NƯỚC THIÊN ĐƯỜNG  V.6
(Vũ chi trị thuỷ thổ dã)
 
Hồi ông Vũ[66] đấp đập đào sông, có lần lạc đường, tới một nước ở bờ phía bắc Bắc Hải, không biết là cách Tề Châu mấy vạn dặm. Nước đó tên là Chung Bắc[67], không biết biên giới tới đâu, không có gió mưa, không có sương, giá, không có các loài cầm thú, trùng, cá, cỏ cây, bốn phương bằng phẳng, chỗ nào cũng là bình nguyên cao. Ở giữa nước đó có một ngọn núi gọi là Hồ Lĩnh, coi như cái lọ, đỉnh có miệng như cái vòng tròn, gọi là “lỗ nước”, nước ở trong phun ra, gọi là suối thần. Nước thơm hơn hương lan, hồ tiêu, vị ngon hơn rượu “lao”, rượu “lê”[68], một nguồn chia làm bốn dòng suối chảy xuống chân núi, rồi chảy qua khắp nước, không miền nào không tới. Khí đất ấm áp, không sinh ra bệnh dịch. Dân chúng nhu thuận, có tính thoả hiệp, không ganh đua; lòng hiền hoà, cơ thể mềm mại, không kiêu căng, không hiềm kị, già trẻ ở chung với nhau, không có vua, không có bề tôi. Đàn ông đàn bà ở lẫn lộn với nhau, không có mai mối, cưới gã. Họ ở theo bờ sông, không cày không cấy. Khí hậu ấm áp, nên họ không dệt, không bận quần áo. Họ sống trăm tuổi rồi chết, không ai ốm đau, không ai chết yểu, dân số tăng lên vô số kể. Ai cũng sung sướng, vui vẻ, không ai suy nhược già nua, buồn rầu, đau khổ. Họ thích đàn hát, nắm tay nhau mà ca hát suốt ngày không dứt. Khi đói mệt, họ uống nước Suối Thần, sức mạnh cùng tinh thần lại phục hồi; nếu uống quá thì say, mười ngày sau mới tỉnh. Họ tắm nước “suối thần”, da dẻ tươi nhuận, mười ngày sau hương thơm mới hết.
 
Vua Chu Mục vương đi chơi phương bắc, tới nước đó, ba năm quên về. Khi trở về cung điện, nhớ nước đó quá, rầu rĩ như mất hồn, không buồn ăn uống, không gần cung tần, mấy tháng sau mới nguôi.
 
PHONG TỤC XỨ LẠ  V.7
CắtbỏmộtđoạnđầuđạiýQuảnTrọngrủTềHoànCôngđichơicácnướcởLiêuKhẩu,ThấpBằngcan. 
Dân các nước phương Nam cắt tóc, khoả thân, người các nước phương bắc chít khăn và bận áo lông, người Trung Quốc đội mũ và bận áo dài (…).
 
Ở phương Đông nước Việt có nước Vĩnh[70] Mộc, khi sinh đứa con đầu lòng thì người ta xẻ ra mà ăn thịt, bảo như vậy có lợi cho những đứa con sau; hễ ông mà mất thì con cháu cõng bà đem bỏ ở một nơi xa, bảo không thể ở chung với vợ của quỉ (người đã chết) được.
 
Ở phía nam nước Sở, có nước của những người Viêm[71], khi cha mẹ mất thì cắt lấy thịt liệng đi, còn xương thì đem chôn, như vậy mới là báo hiếu.
 
Ở phía tây nước Tần, có nước Nghi Cừ, cha mẹ chết thì chất củi mà thiêu, khói bốc lên, họ bảo cha mẹ “lên cõi xa”, như vậy mới là báo hiếu.[72]
 
Những thói đó, người ở trên (các nước đó) cho là hợp pháp, người dưới cho là hợp tục, không lấy làm lạ.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 215
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com