Nói về Chương Ngươn phát pháo ra thành, dừng ngựa xem thấy một viên tiểu tướng, khôi trắng, giáp trắng, ngựa trắng, tay cầm trường thương, cả mình đều mặt đồ trắng, kêu lớn rằng:
"Tướng kia, thông tên đã". Chương Ngươn nạt rằng:
"Ta là tướng Tần, làm chức Chiêu thảo đô đốc, đại nguyên soái, con Chương tổng nhung tên Chương Ngươn, thằng giặc kia, mi có phải là Điền Anh không?" Điền Anh cả giận mắng:
"Tặc tử! Đã biết oai danh ta, sao còn dám cự địch, có đâu dung mi sống đặng". Nói dứt lời, hai tay hươi thương đâm tới, Chương Ngươn thấy thế rất mạnh, vội vàng rước đánh; hai bên đều chỗ tài anh hùng. Đánh đến mười hiệp, Chương Ngươn sức yếu, hai tay tê mỏi, quày ngựa thua chạy, Điền Anh rượt theo, nghĩ thầm rằng:
"Ta tuy thắng luôn vài trận, mà chưa bắt sống được một người; khi nãy nắm được Vương Tiễn, không dè bị đứt dây nịt, nên nó chạy thoát khỏi, còn tên tiểu tặc này liệukhông khỏi tay ta, chi bằng bắt sống nó mà lãnh công". Nghĩ rồi quất ngựa theo, hai ngựa kề nhau. Điền Anh nạt một tiếng:
"Tiểu tặc, chạy đâu". Rồi với tay bắt sống, để ngang qua lưng ngựa; Chương Ngươn dùng thế lý ngư đả đỉnh, nhúng mình nhảy xuống. Điền Anh cả giận nói:
"Tiểu tặc, còn trông thoát khỏi nỗi gì". Hai tay ôm Chương Ngươn giơ lên, dùng thế kim kê độc lập, phụng hoàng triển sĩ, dộng đầu xuống đất chết tươi. Binh thua về báo với Chương Hàng, Chương Hàng nghe báo bay hồn, khóc tâu cùng Thủy Hoàng. Thủy Hoàng ngó Tử Lăng hỏi rằng:
"Quốc sư khuyên trẫm đánh đất Lâm Tri, liệu nó không tướng anh hùng, ai dè Điền Anh mạnh dữ, thắng luôn mấy trận, nay còn kêu đánh, biết liệu làm sao?" Tử Lăng tâu rằng:
"Bệ hạ chớ lo, Điền Anh bất quá như con gà đui kia, may mổ nhằm một hột lúa mà thôi, chớ có tài chi giỏi, để tôi ra cùng nó giáp mặt, chắc là bắt đặng trong tay".
Thủy Hoàng khoát tay nói:
"Quốc sư đi không đặng đâu, nó là trăm trận trăm thắng, còn mình thì mỗi trận đều thua; Lữ Hoán, Ngụy Báo, Cam Mậu, Vương Tiễn, Chương Ngươn tài nghệ lẽ đâu không bằng Quốc sư, mà còn phải chết, phải thua nơi tay nó thay, nay Quốc sư có tài chi giỏi, dám cùng nó đối địch".
Tử Lăng nói:
"Tuy tôi chẳng bằng người, song có ông Hải Triều truyền cho ít vật bửu bối, hôm nay ra đánh chắc là ngựa tới nên công". Thủy Hoàng nói:
"Nếu như vậy thì trẫm cho đi, nhưng phải hết lòng cẩn thận". Tử Lăng lãnh chỉ, cầm gậy cỡi nai, phát pháo ra dinh bên kia Nam Phụng vương đang đứng trước trận khiêu chiến, xảy thấy một người đạo sĩ cầm cây gậy cỡi xông ra, bèn nạt lớn rằng:
"Có phải là Kim Tử Lăng đó chăng?" Tử Lăng cười nói:
"Bần đạo lúc chưa ra khỏi trướng, thì ngỡ mi là một tay hảo hán trên trời dưới đất chi, té ra thấy mặt không dè là một thằng con nít miệng còn hôi sữa, có tài chi giỏi là thắng luôn tám tướng, lại còn diệu võ giương oai, nay bần đạo khuyên mi biết ta lợi hại thì xuống ngựa chịu trói cho rồi, nếu không nghe phải chết liền trước mắt". Điền Anh nghe nói giận lắm, hét lên rằng:
"Yêu đạo sao dám nói xàm, hãy coi ta lấy đầu ngươi". Nói dứt lời hươi thương đâm tới. Tử Lăng dùng gậy đỡ khỏi, ngựa nai qua lại, thương trượng lăng xăng, như rồng đua cọp giỡn. Đánh đến ba mươi hiệp. Tử Lăng mệt thở ồ ồ, liệu khó bề ngăn đỡ, đâm một trượng thua chạy, Điền Anh giận lắm, nói:
"Hay cho thằng chúa mũi trâu, mi chạy đâu cho khỏi". Liền giục ngựa đuổi nà theo.
Tử Lăng nghe tiếng lạc ngựa reo vang, thì biết Điền Anh rượt tới, vội vàng thò tay vào túi lấy ra một vật bửu bối, vốn của ông Hải Triều thánh nhơn, luyện rèn năm cục đá, án theo kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, chia làm năm sắc, vàng, đỏ, trắng, đen, xanh đặt tên là Ngũ thể thần thạch. Đá xanh liệng lên, mây khói mịt mù, làm cho tướng giặc hôn mê, đá vàng hốt bụi bay đất, đá đỏ biến lửa rần rần, đá đen hóa nên giông gió, đá trắng đánh tướng giết, trăm phát trăm trúng, vốn là vật báu của ông Hải Triều, lúc ở nơi Dịch Châu chưa từng dùng đến. Khi ấy truyền cho Tử Lăng, Tư?
Lăng thấy Điền Anh rượt theo rất gần, trong bụng mừng lắm, bèn lấy một cục đá trắng cầm nơi tay, miệng niệm chơn ngôn, liệng ra một cái, như vầng mây trắng. Lúc ấy Điền Anh cứ cong lưng rượt hoài phải, xảy gặp một vầng mây trắng, ở giữa có một cục đá lớn bằng quả trứng gà, bay tới ngay đầu, mặtmày thất sắc, cúi đầu mà chịu; vốn thần thạch lợi hại chẳng vừa, chớ nói Điền Anh mà thôi, dẫu kim cang bằng đồng, la hán bằng sắc, đánh nhằm cũng phải tan nát, song Điền Anh là vị thần tiểu hao xuống phàm số chưa phải chết, nên đá đánh nhằm xương sống, kiếng hô.
tâm bể nát, đứt bay lìa, thổ huyết chạy dài. Tử Lăng nghe nai rượt tới, lúc ấy Viên Cang, Độc Cô Giao hai tướng thấy Nam Phụng vương thua chạy, lật đật xốc ngựa ra đánh. Trời đã tối hai bên thâu quân trở về. Viên Cang thấy Nam Phụng vương chẳng biết đi phương nào, lật đật kéo binh về thành, tâu cùng Tương Vương. Bên kia Kim Tử Lăng về dinh ăn mừng. Nói về Điền Anh bị thần thạch đánh nhằm, đâu chịu không nổi, hôn mê bất tỉnh nằm sấp trên chạy dài, xảy tới làng kia tên là Ngọc Long thôn, nơi ấy ước hơn mười cái nhà, có một toà nhà cao lớn, trước cửa quạnh hiu, chẳng thấy một người. Ngựa long mã dừng chân đứng đó, cứ la hí hoái, xảy đâu trong cửa chạy ra một đứa liễu hoàn, xem thấy nói:
"Con ngựa trắng nhà ai, bứt cương chạy tới cửa này". Rồi bước lại gần, xem thấy hoảng kinh, chạy nhào, kêu lớn rằng:
"Tiểu thơ ôi! Không xong, mau mau đóng cửa". Tiểu thơ nghe nói thất kinh hỏi:
"Liễu đầu, việc chi mà kinh hãi như vậy, có chuyện gì mà không xong, nói cho ta rõ". Liễu đầu bẩm nói:
"Ngoài cửa chẳng biết ngựa ai, chạy tuôn vào đó". Tiểu thơ nạt rằng:
"Đồ hư! Thứ ngựa thưở nay không từng thấy hay sao, mà làm ra tuồng như vậy?" Liễu hoàn nói:
"Con ngựa có chở một cái thây chết, bận giáp bạc, tay cầm thương, miệng ra máu, nằm sấp trên yên, giống là một vị tướng quan chi, bị thương chở tới nhà ta, như vậy làm sao mà không sợ". Tiểu thơ nghe nói trong bụng nghĩ thầm rằng:
"Lúc ta ở trên núi, bái biệt Thánh mẫu về nhà, thì người có dặn dò ta đôi ba phen rằng:
"Năm nay, ngày này, thángnày, có người ấu chúa bị thương chạy tới nhà, thì ta cùng với người ấy kết duyên chồng vợ, tưởng lại không phải việc tình cờ đâu, để ta ra coi thế nào".
Nghĩ rồi hỏi Liễu hoàn:
"Quả có thiệt con ngựa chở người chết hay không?" Liễu hoàn nói:
"Quả thiệt là người ta chết". Tiểu thơ dạy cầm đèn ra cửa ngỏ, đặng nàng coi thử. Liễu hoàn nói:
"Người chết cả mình đầy những máu, mà coi làm gì?" Tiểu thơ nói:
"Chớ sợ, chúng bây tám đứa đi theo hết cùng ta". Chúng liễu hoàn chẳng dám trái mạng, xách lồng đèn đi trước, thẳng tới cửa ngỏ, xảy nghe ngựa ấy hí luôn ba tiếng, liễu hoàn chỉ nói:
"Con chi đó không phải ngựa sao?" Tiểu thơ bước tới, dạy liễu hoàn giở lồng đèn giơ lên sáng giới. Tiểu thơ liếc mắt coi kỹ, thấy một viên tướng nhỏ, giáp bạc, mao bạc, cả mình đều mặc đồ trắng, miệng ói ra máu, cặp mắt nhắm ại, quả là một đấng nhơn tài, đường đường diện mạo, nằm sấp trên yên, trong bụng mừng thầm, bèn dạy Thu Hương, Lạc Mai hai đứa liễu hoàn, đứa thì nắm ngựa, đứa thì lấy thương; hai đứa liễu hoàn nghe nói thất kinh.Thu Hương nói:
"Lạc Mai chị lớn mạnh hơn thì lấy cây thương, chớ tôi cầm không nổi". Lạc Mai nói:
"Thôi nàng nắm ngựa". Thu Hương bước tới nắm hàm thiếc. Lạc Mai lại gần vói tay nắm cây ngân thương rút xuống đưa cho tiểu thơ và nói:
"Cây thương mười phần nặng dữ". Tiểu thơ cầm đưa nơi đèn coi kỹ lại, quả thiệt một cây thương bạc, nơi cán có khắc bảy chữ nhỏ:
"Nam Phụng Vương Điền Anh chi thương. Coi rồi mừng thầm nói:
"Lời Thánh mẫu nói quả thật không sai, nay chẳng cứu người mà còn đợi ai". Bèn dạy liễu hoàn khiêng người tướng quân nằm trên ngựa đó xuống cho nàng. Liễu hoàn nói:
"Thây người chết, khiêng xuống làm chỉ" Tiểu thơ nói:
"Người ấy vốn là chú của Đương kim Hoàng Đế, con Lỗ vương tên Điền Anh, trong mình bị thương, cũng bởi số trời khiến vậy, nay con ngựa này đem tin đến đây, ta là con của kẻ Thần tử, chú của vua mình, mình là phận làm tôi, mà không cứu chúa, ấy có phai là tội chết chém cả họ chăng? Hãy khiêng xuống cho mau, mặc ta liệu tính". Liễu hoàn nói:
"Người là cành vàng lá ngọc, ra trận bị thương, nếu tiểu thơ cứu người sống đặng thì tốt, bằng không sống thì tội ấy không nhỏ đâu". Tiểu thơ giận nói:
"Lũ này muốn ta đánh sao?" Liễu hoàn sợ, áp tới khiêng Nam Phụng vương xuống ngựa, đê?
nằm dưới đất Tiểu thơ nói:
"Tám đứa bây, bốn đứa mạnh thì khiêng điện hạ đi, còn hai đứa xách lồng đèn, một đứa dắt ngựa, một đứa vác thương, hãy đi theo ta". Xuân Mai nói:
"Một người chết ở ngoài, khiêng đem vào trong, chắc đem ra hậu huê viên nơi đất trống mà chôn đó". Lạc Mai nói:
"Thôi chẳng cần nói nhiều lời, khiêng phứt đi cho rảnh". Nói rồi áp lại nhau lại khiêng, kẻ khiêng đầu, người đỡ chân, dắt ngựa cầm thương, đi tuốt vào nhà. Chúng liễu hoàn cười nói với nhau rằng:
"Cô ta thấy dượng nên dạy khiêng vào nhà". Tiểu thơ giận mắng:
"Chúng bay chớ nói xàm, mau nhẹ tay để xuống giường, cơi khôi giáp, chiến bào, để nằm sấp xuống, lấy mền đắp lại". Rồi dạy Hạ Liên đi thỉnh phu nhân tới. Giây phút phu nhân đến nơi. Tiểu thơ mời ngồi rồi đem lời Thánh mẫu dặn dò, tỏ cáo cho mẹ nghe:
"Nay con đem thây người vào nhà để nằm trên giường". Phu nhân nói:
"Tuy lời Thánh mẫu ứng nghiệm song chẳng biết thế nào, nếu có việc chi bất trắc, ắt là họa chẳng nhỏ đâu". Tiểu thơ nói:
"Mẫu thân chớ lo, để con coi lại sẽ biết".
Nói dứt lời bước tới nhẹ tay giở mền, coi kỹ thấy trên xương sống, có dấu thương bằng miệng chén, sưng cao hai tấc. Tiểu thơ nói:
"Dấu thương tuy nặng, con trẻ điều trị mạnh liền". Bè dạy Xuân Mai múc một chén nước, giây phút đem vào, tiểu thơ lấy cái hồ lô của bà Thánh mẫu cho, giở ra lấy hai hoàn thuốc:
Một hoàn đỏ, một hoàn trắng. Tiểu thơ lấy hoàn thuốc trắng, hòa vào với nước thoa nơi dấu thương, rồi lấy hoàn đỏ hòa vào nước, đỡ dậy cạy răng cho uống. Thiệt là thuốc tiên mầu diệu, giây phút, dấu sưng tiêu hết, thuốc uống thấu vào tam quan, thông ra cứu khiếu, chẳng đầy nửa khắc. Nam Phụng Vương nằm trên giường nghiêng mình kêu lớn rằng:
"Hay cha chả, hay cho yêu đạo, mi dùng tà thuật mà đánh ta như vậy". Phu nhân bước tới giở mền nói:
"Thiên tuế mới mạnh, xin an nghỉ, chớ nên giận dữ".
Điền Anh nghe nói, mở mắt xem thấy một tốp con gái, ở giữa có một bà già. Nam Phụng Vương đứng dậy hỏi rằng:
"Người là người vậy, khá phân cho ta rõ? Ta nhớ lúc ra trận đánh giặc, bị thằng yêu đạo bên Tần, dùng tà thuật đánh hôn mê bất tỉnh, vì làm sao mà đến chỗ này, chỗ này là tên đất gì, nhà của ai hãy nói cho ta biết?" Phu nhân nói:
"Chỗ này là huyện Định Hào, làng Ngọa Long, chồng tôi là Lý Mục, bị chết nơi Dịch Châu, sanh được một gái tên là Phù Dung". Bèn đem việc Nam Phụng Vương nằm trên lưng ngựa, chạy tới trước phủ, Phù Dung cho thuốc, tỏ hết mọi điều. Điền Anh nghe nói, hỏi:
"Tiểu thơ sao biết tôi bị thương đến đây?" Phu nhân nói:
"Con gái tôi từ lúc nhỏ, theo bà Thánh mẫu học nghề, Thánh mẫu thấy chồng tôi chết, cho nên sai xuống núi lại dặn rằng:
Năm nay, tháng này, ngày này, biểu con tôi phải ở nhà cứu giá, lúc đầu chẳng tin, không dè Vương gia bửu giá đến đây, con gái tôi vâng lệnh Thánh mẫu, chẳng tỵ hiểm nguy, đem thiêntuế về nhà, linh đơn cứu trị, may được an toàn quý thể". Điền Anh nghe nói mấy lời, chẳng khác chiêm bao mới tỉnh, vội vàng đứng dậy, lạy bốn lạy tạ Ơn tiểu thơ cứu mạng. Phu nhân lật đật cản lại nói:
"Tôi có một lời tỏ cáo, chẳng biết Vương gia khứng dung nạp chăng?" Điền Anh nói:
"Phu nhân ra ơn cứu mạng, có điều chi mà tôi chẳng vâng nghe". Phu nhân nói:
"Con gái tôi vâng lời Thánh mẫu dặn dò, năm nay sao hồng loan chiếu mạng, nếu quý nhân thiên tuế chẳng hiềm diện mạo xấu xa, xin cho nó gởi phận nâng khăn sửa trấp, chẳng biết thiên tuế khứng chăng?" Điền Anh nói:
"Tiểu thơ có công cứu mạng, chẳng biết lấy chi đền bồi, lại mong nhờ phu nhân thương tưởng, dám đâu chối từ". Phu nhân cả mừng nói:
"Ngày nay là ngày tốt giờ lành, đốt đèn huê chúc, rồi theo thiên tuế tới Lâm Tri báo cừu". Điền Anh nói:
"Xin vâng lời dạy". Phu nhân hối dọn dẹp cỗ bàn, giao bôi hiệp cẩn. Chúng liễu hoàn cười nói thầm:
"Tốt thay cho nàng tiểu thơ ngàn vàng, gặp được người chồng xinh tốt, mau mắn như vậy". Rồi ở đó một đêm động phòng huê chúc, vầy duyên loan phụng, hiệp hòa cầm sắt. Qua ngày thứ thức dậy, tiểu thơ cùng Điền Anh cáo lạy trời đất, tạ Ơn phu nhân. Phu nhân lên Ngân An điện đòi gia tướng tới trước mặt dặn rằng:
"Ta tưởng ông bây khi trước, bị thác nơi nước Tần, nay Tiểu thơ cùng Điện ha.
nước Tề, vầy duyên phu phụ, chúng người hãy vì nước mà ra sức, một là trả ơn nước, hai nữa bắt Vương Tiễn trả thù cho ông bay". Chúng gia tướng nghe dạy, lật đật sắm khí giới ngựa yên, đến ngày thứ ba, đặng bảo hộ Tiểu thơ qua Lâm Tri, Phu nhân dạy rồi, trở vào hậu đường, mẹ con gần lúc phân ly, chẳng khỏi một phen căn dặn.
Đây nói về vua Tần lên trướng, Tử Lăng tâu rằng:
"Bần đạo nhờ phước lớn Bê.
hạ, đánh Điền Anh thua chạy, làm cho nó phải mất nhuệ khí, hôm nay ra trận, quyết lấy tờ hàng của Tương Vương". Thủy Hoàng mừng nói:
"Quốc sư làm thành công đặng sớm, thiệt rất may cho trẫm". Tử Lăng từ giã xuống trướng cầm gậy cỡi nai dẫn năm trăm binh mã, phất cờ phát pháo, xông ra khỏi dinh, có quân thám mã vào báo.
Tương Vương nghe báo, nói:
"Nay không tướng giỏi, lấy ai ngăn cự, xin á phụ mơ?
lòng từ bi, ra phép thần thông, dẹp lui binh Tần, Trẫm cám ơn đức khôn cùng". Tôn Tẫn bèn tâu:
"Điền Anh bị nạn, song gặp kiết hóa lành, chẳng bao lâu người ắt trơ?
về, có tôi ở đây, nào lo chi binh Tần bá vạn". Nói chưa dứt lời, xảy có nội thị quy tâu rằng:
"Nương nương vào điện". Tương Vương nghe nói đứng dậy, Củng quốc mẫu nói:
"Thiếp ở cung Chiêu dương, nghe binh Tần xâm phạm bờ cõi, Vương thúc tổ bi.
thác nơi trận, nước nhà có nạn đao binh, thiếp chẳng dám ngồi xem, tình nguyện ra trận, giết lui binh Tần, mà trả thù cho Vương thúc tổ". Tương Vương nói:
"Ngự thê (là vợ vua) biết một, mà chẳng biết hai, chớ khi binh Tần Thủy Hoàng phá đốt Dịch Châu, nước Yên binh hùng tướng mạnh còn không cự nổi, huống chi Kim Tử Lăng có yêu pháp tà thuật, khó hơn có được, trẫm khuyên ngự thê nghỉ an ở trong cung thì hay hơn, còn việc nước nhà dụng binh không làm nhọc lòng đến đàn bà đâu?" Nương nương nghe nói tâu rằng:
"Thiếp chẳng phải chẳng biết hành binh giao chiến, lúc trước ở nơi Củng gia trang (là xóm họ Củng) cứu giá, sau lại nơi trận minh vân từng rõ tài nghệ, chẳng phải tôi khoe miệng, có sợi chi, binh Tần đông bá vạn đi nữa, tôi giết nó chẳng còn manh giáo, nếu Bệ hạ chẳng cho, thì tôi xin chết trước mặt Bệ hạ, quyết chẳng nỡ ngồi xem giặc Tần". Tương Vương hoảng kinh nói:
"Ngự thê không nên gấp, để trẫm cùng á phụ liệu toan". Tôn Tẫn nói:
"Bệ hạ chớ lo, bần đạo xin bảo hãnh quốc mẫu ra trận bắt thằng yêu đạo". Tương Vương cả mừng nói:
"Nếu á phu.
khứng giúp, thì trẫm cao gối chẳng lo".
Tôn Tẫn nói:
"Quốc mẫu ra đánh, để tôi lén bày một trận phụ giúp nên công".
Tương Vương hỏi:
"Vì sao gọi rằng lén bày, nói cho trẫm rõ". Tôn Tẫn nói:
"Hễ là hành binh bố trận, phải phân môn hộ, noi theo luật lệ, hoặc bày phương hướng, hoặc núp trong rừng, Kim Tử Lăng vốn là học trò Hải Triều, nếu dụng phép tầm thường, không vây nó được, nay tôi phân phát binh mã theo Quốc mẫu, đi trước giả tiếng bảo phò ra trận, lén bày trận bát môn kim tỏa, dầu cho quỷ thần cũng không biết được, làm thình lình ắt Tử Lăng không chỗ ngăn ngừa, trong một trận khá đặng thành công". Tương Vương cả đẹp, Tôn Tẫn dạy Viên Cang dẫn năm trăm binh theo Quốc mẫu ra trận, đứng hướng chánh Đông, và lấy hườn linh đơn này mà ngậm trong miệng, hễ nghe giục trống thì đi vòng qua cửa Tây, giả dạng thâu binh, rồi dẫn binh trở lại hướng chánh Đông đứng đó, hễ nghe pháo nổ, liền nhả linh đơn, ngăn đón Tư?
Lăng chẳng cho chạy thoát, và sai Độc Cô Giao dẫn năm trăm binh, theo Quốc mẫu giữ phía Nam, và lãnh hườn linh đơn này, ngậm vào miệng làm y như Viên Cang một cách, mà ngăn đón Tử Lăng; còn Triển Lâm, Triển Phụng, hai người dẫn năm trăm binh, theo phò Quốc mẫu và lãnh linh đơn của ta, cũng làm như Viên Cang, hễ nghe trống đánh thì Triển lâm đứng phía Tây, Triển Phụng đứng phía Bắc, chớ cho Vương Tiễn chạy thoát, còn Ngô Ứng, Ngô Khôn, Mã Ngươn, Giải Hiếu, bốn tướng đều lãnh năm trăm binh, theo Quốc mẫu ra trận, làm y như Viên Cang, mỗi người đều lãnh một hườn linh đơn ngậm vào miệng, Ngô Ứng thì giữ phía Đông Bắc, Ngô Khôn giữ phía Đông Nam, Mã Ngương giữ phía Tây Nam, Giải Hiếu giữ phía Tây Bắc. Điều khiển xong rồi, các tướng chia ra bốn phương mai phục.
Hết hồi 35
Củng quốc mẫu phá luôn phép báu
Kim Tử Lăng thoát khỏi trùng vây
Nói về Tôn Tẫn sai tướng lén bày trận bát môn xong rồi bèn sai quan tổng binh là Châu Đạt, giữ cửa Tây môn, coi chừng hễ Quốc mẫu ra trận, đến khi giáp chiến, thì phải giục trống, đặng cho tám tướng đều là công việc, và sai Tôn Yên qua cửa phía Tây lược trận, hễ thấy Tử Lăng thua chạy thì đốt pháo làm hiệu. Sai khiến xong rồi, chúng tướng đều lãnh linh đơn, nai nịt tề chỉnh, đặng chờ nương nương ra trận.
Nói về Quốc mẫu nước Tề là Củng Kim Định, nai nịt khôi giáp, đem bửu bối tùy thân, từ biệt Tương Vương bước xuống đại điện, tay cầm đao cửu hườn, mình ngồi ngựa đào huê, ra khỏi cửa triều, Tương Vương thấy nương nương ra trận, oai nghi lẫm liệt, giống một viên dõng tướng thì cả mừng, song còn e Tử Lăng phép thuật cao cường, nếu có điều chi thì chẳng biết làm sao cho đặng, nên trong lòng chẳng an, nên chắp tay nói với Tôn Tẫn rằng:
"Á phụ Ôi! Nương nương ra trận, lòng trẫm chẳng an, vậy trẫm muốn cùng á phụ qua cửa Tây môn lược trận coi thế nào? " Tôn Tẫn nói:
"Bệ hạ chớ lo, quốc mẫu đi phen này cờ ra thắng trận, ngựa đền nên công, nếu bệ hạ chẳng an lòng muốn ra lược trận, thiệt tôi chẳng dám bảo giá, e người xem thấy mà tiết lộ tin, hóa ra việc chẳng tốt". Tương Vương nói:
"Á phụ không đi, vậy thì để trẫm ra lược trận". Nói rồi truyền đem ngựa, Tương Vương thót lên longcâu dẫn các quan chạy ngựa lên thành, Tương Vương ở trên địch lầu xem trận.
Nói về tám vị công gia, dẫn nhơn mã bảo hộ nương nương ra cửa Tây môn, quan tổng binh là Châu Thanh, lật đật mở hoác cửa thành thả điếu kiều, phát ba tiếng pháo, trên thành cờ phất lao xao, phải chi các tướng khác ra trận, hễ phát pháo phất cờ, thì kéo binh ra thành, song tám tướng này đều vâng mật kế của Nam quận vương, đâu dám đi bậy, ba tiếng pháo nổ cửa thành mở hoác, mà chẳng thấy binh mã xông ra, bên kia, Tử Lăng kêu đánh đã lâu, xảy nghe pháo nổ phất cờ, ngỡ là tướng giặc ra trận, ngước mặt xem coi, chẳng thấy một người một ngựa chi cả; đang lúc hồ nghi, bỗng nghe tiếng pháo nổ vang, kéo ra hai cây cờ xanh, dưới cờ một con ngựa xanh, ngồi một viên đại tướng giáp xanh, dẫn một đột binh xông qua điếu kiều, chạy qua phía Đông chiến trường sắp bày đội ngũ, coi rất oai nghiêm. Tử Lăng xem thấy trong bụng sanh nghi, nghĩ thầm:
"Nếu tướng giặc đã ra thì sao chẳng đánhcùng ta, mà lại đóng binh phía Đông có khi nó muốn bày trận chi đó chăng? " Đang lúc suy nghĩ, nghe tiếng pháo nổ, có hai cây cờ đỏ, một con ngựa hồng, ngồi trên ngựa một tướng mão vàng, giáp vàng, dẫn một đạo binh, mường tượng một vùng mây đỏ, chạy qua phía Nam; nghe nổ luôn hai tiếng pháo nữa, xông ra hai đạo binh mã, tuốt ra phía Tây, phía Bắc, rồi nghe nổ luôn bốn tiếng xông ra bốn đạo binh, đứng phân bốn góc.
Tử Lăng xem thấy tám đạo binh, tám viên tướng, phân bày trận thế bố ngũ hành phân bát quái, rất nên nghiêm chỉnh. Đang xem ngó xảy nghe một tiếng pháo, thấy hai cây cờ nhựt nguyệt hươi lên, có năm trăm quân ngự lâm phò một vị nữ tướng. Tư?
Lăng nói thầm rằng:
"Người này chắc là chúa tướng điều binh đó". Bèn xốc mai huê lộc tới trước hươi trà điều trượng chỉ nên nói rằng:
"Nữ tướng kia! Có ta chờ đây đã lâu, phải thông tên ta biết". Nương nương dừng ngựathấy một tên đạo nhân, thì biết Kim Tử Lăng, bà nạt rằng:
"Ta là Đông tề quốc mẫu, họ Củng tên Kim Định, yêu đạo, mi có phải là Kim Tử Lăng đó chăng? Đất Đông Tề ta cùng với Tây địa Trường An phân chia bờ cõi, hai bên cách nhau, vì sao ngươi dám dấy binh đến lấn điều khi bạc; mau mau lui về, muôn việc đều thôi; nếu chậm trễ ắt vua tôi bây chết hết". Tư?
Lăng nghe rồi chúm chím cười nói:
"Qúy nhân là phận đàn bà chẳng thông thời vụ, xưa nay hễ là thuận trời thì còn nghịch trời phải mất, đất Tây địa vua Tần trên theo lẽ trời, dưới thuận lòng dân, tóm thâu sáu nước. Nàng coi nước Yên kia có Tôn Tẫn trái trời làm nghịch, rốt lại chẳng khỏi khổ lôi hoành, huống chi đất Lâm Tri này là nước nhỏ mọn, sao dám chống cự binh trời, ắt phải mang hại, nếu nghe lời ta thì mạng được yên, mà nước cũng còn bảo tồn được. Qúy nhân là người chưởng quyền lớn trong cung, khổ gì chường mặt bày đầu làm cho kinh tiện quý thể, chi bằng quày ngựa trở về, khuyên Tương Vương sớm nạp tờ hàng cho khỏi sanh dân đồ thán".
Nương nương giận lắm, mắng rằng:
"Yêu đạo có tài chi mà nói phách". Nói dứt lời hươi đao chém tới, Tử Lăng hươi gậy ngăn đỡ. Châu Đạt trên thành xem thấy nương nương giao chiến, liền giục trống đánh lia; lúc ấy tám viên hổ tướng nghe trống đều ngậm linh đơn vào miệng kêu to một tiếng chạy qua cửa thành Lâm Trị Tử Lăng thấy thế sinh nghi, nói thầm rằng:
"Vì làm sao, tám viên tướng kéo rốc tới đây, một đao một thương chưa từng đánh tới mà lại bỏ đi thiệt chẳng rõ ý chi". Rồi ngó qua cửa Đông chẳng thấy binh mã chi hết, duy có một đội quân mã cùng một vị nữ tướng. Lúc ấy Nương nương hươi đao chém xuống, Tử Lăng cử trượng rước đánh, hai bên ra sức tranh hùng.
Nói về tám viên tướng Tề, vâng kế Nam quận vương quày về cửa Tây, rồi bố phương hướng lén vây Tử Lăng ở giữa, tám tướng miệng ngậm linh đơn, một tướng đi đầu che khuất ba quân, cho nên chẳng thấy hình dạng, chớ nói Tử Lăng chẳng thấy mà thôi, đến nỗi Nương nương cũng không thấy được. Lúc ấy hai người mắc đánh với nhau, không lòng xem kỹ, thấy bốn phương tám hướng bụi bay mù mịt, có đâu mà rõ được binh mã Lâm Tri.
Nói về tám tướng bố theo phương hướng, chờ nghe pháo hiệu thì lộ hình ra đánh Tử Lăng, còn Tử Lăng cũng như giấc chiêm bao, đâu rõ được mình mắc trong trận bát môn kim tỏa, cứ ráng sức tinh thần mà đánh với Nương nương.
Lúc ấy Tương Vương ở trên địch lầu lượt trận, trong bụng hoảng kinh, giựt dùi trống mà nói rằng:
"Để trẫm đánh trống đặng trợ Oai cho nương nương". Nói dứt lời đánh trống nghe vang dội trời đất. Nương nương đang lúc đánh vùi, nghe tiếng trống kêu vang, ngó lên thành, thấy cờ rồng phảng phất, lại có âm tán huỳnh la, còn Tương Vương bổn thân đánh trống, trong bụng nghĩ rằng:
"Lúc này không ra tài còn đợi chừng nào? " Bèn nạt rằng:
"Giỏi cho thằng yêu đạo". Rồi đem hết các nghề đao pháp của tiên truyền hươi múa lộn nhào, dường như một toà núi đao, không có chỗ nào trống hở, đánh vùi một hồi, làm cho Tử Lăng xoay trở chẳng kịp, khó bề chống cự, kéo trượng chạy dài. Nương nương quát:
"Yêu đạo! Mi chạy đường nào, ta cũng quyết rượt theo". Liền giục Long mã rượt theo, Tử Lăng dòm thấy long mã rượt tới trong bụng rất mừng, lấy dây cửu long liệng lên không trung, xảy thấy chín con rồng vàng, trương nanh múa vuốt. Nương nương xem thấy cười lớn nói rằng:
"Té ra đây là cửu long điều, có chi làm lạ". Liền thò trong túi, lấy ra một cây thần trượng dài chừng năm tấc lớn bằng ngón tay, vụt ra một cái, hào quang muôn đường sáng chói bay bổng trên không, nghe vang một tiếng, tức thì dây cửu long hiện ra nguyên hình là chín cái liên hoàn kim câu, mà rớt xuống đất. Nương nương thâu kim câu và cây thần trượng, rồi nạt lớn rằng:
"Yêu đạo mi còn phép chi nữa, đem ra thử coi". Tư?
Lăng giận lắm mắng rằng:
"Đồ tiện tỳ, sao dám thâu mất phép ta, mi chạy đâu cho thoát". Liền quày nai hươi gậy đánh tới, nương nương cử đao rước đánh, nai ngựa lăng xăng, gậy đao tở mơ, đánh hơn mười hiệp, Tử Lăng liệu sức khó hơn, và nghĩ rằng:
"Con này phép thuật cao cường, nếu thạch đánh nó từ cái, e không nên việc, chi bằng lấy năm viên thần thạch, nhắm trên dưới hai bên, liệng nhầu một lượt làm cho nó trở tay không kịp, chắc phải thành công". Tính rồi tay thì đỡ đao, miệng niệm thần chú, lấy năm viên thần thạch liệng ra một lượt, xảy thấy năm vầng mây, xanh, vàng, đỏ, đen, trắng, năm sắc rỡ ràng, cát bay đá chạy, khói lửa mịt mù, nhắm ngay quốc mẫu đánh tới, nương nương xem thấy hoảng kinh liền cắn chót lưỡi phun ra mộts búng huyết, nạt rằng:
"Năm thần ở đâu sao không thâu thần thạch cho ta, còn đợi chừng nào? " Nói chưa dứt lời, xảy thấy năm vị thần hiện ra thâu thần thạch tiêu mất, chẳng thấy hình dạng, khói tan lửa rụi, Tử Lăng thấy thần thạch chẳng linh, càng thêm giận lắm, hươi trượng tới đánh, nương nương cười ngất nói:
"Yêu đạo, còn dám đánh nữa sao? Có tà thuật chi đem ra cho hết". Tử Lăng nghe nói tức giận căm gan, mặt đỏ phừng phừng, ráng hết sức bình sanh múa gậy nghe vùn vụt. Nương nương không hề rúng sợ, hươi đao rước đánh, Tử Lăng đánh vùi một hồi, hai tay bủn rủn, miệng đà thở dốc, ngăn đỡ không kịp phải thua chạy dài, nương nương giục ngựa rượt theo. Tử Lăng quay lại ngó thấy nói thầm rằng:
"Đồ tiện tỳ không biết chết, mi phá đặng hai vật bửu bối của ta mà tự thị anh hùng, muốn rượt theo giết ta cho tuyệt, chớ mi đâu rõ trong mình ta còn một vật bửu bối chưa từng dùng đến". Nói rồi thò vào trong túi da beo, lấy ra một cái đồng la nhỏ, tên là hoảng hồn la, chẳng cần đánh gõ chi hết, hễ cầm nơi tay, giơ ngay tướng giặc, rung một cái thì cặp mắt tối đen, không thấy đường; rung hai cái thì hồn tan phách mất, rung ba cái liền chết tức thì, vốn đồ báu lạ của ông Hải Triều để lại cho Tử Lăng. Lúc ấy Tử Lăng bi.
nương nương rượt theo gấp lắm, liền quày nai trở lại, nhắm ngay mặt Củng quốc mẫu rung lên một cái. Quốc mẫu xem thấy kinh hồn thất sắc, vội vàng lấy ra một cái bửu bối, hai đầu nhỏ giữa lớn, tên làphá hồn thần châm, liệng giữa không trung bên kia Tử Lăng vừa muốn rung nữa, xảy thấy một lằn khí sáng, bay rớt xuống nhằm ngay cái hồn la, nổ vang một tiếng, bể ra tan nát, đâm thấu bàn tay lão thầy chùa già nhức đau không xiết, lật đật quày nai bỏ chạy.
Nương nương hươi đao ra sau lưng một cái, quan tổng binh Châu Đạt liền giục trống nghe như sấm nổ. Tôn Yên đứng trên thành, ngó thấy Tử Lăng thua chạy, bèn đốt pháo làm hiệu, tức thì Đông, Tây, Nam, Bắc tám viên tướng mạnh nghe thấy tiếng pháo nổ, liền nhả linh đơn xuống đất, bốn phương tám hướng, binh tướng lớn nhỏ, người người đều lộ hình ra, cờ xí nhộn nhàng, kiếm kích như gai, chẳng khác tường đồng vách sắt, Tử Lăng đang giục nai thua chạy, ngước mặt xem thấy kinh hồn nói:'khi nãy ta cùng con tiện tỳ giao chiến, thì chẳng thấy binh mã chi hết, vì sao làm trong nháy mắt, mà vây phủ ta như vầy, con tiện tỳ này đâu khứng dung ta, ta vốn là một tên học trò, núi cao đắc đạo, sống nào vui, thác nào sợ, nếu ta phá ra khỏi đặng thiệt là cái may muôn phần đó, còn như ta không khỏi, dẫu có chết đi nữa, thì cũng đặng tiếng tốt ngàn năm". Tính rồi nhắm phía Đông chạy trốn, bỗng nghe pháo nổ, xông ra một viên đại tướng, cầm búa đón đường, Tử Lăng xem thấy dừng nai nạt lớn rằng:
"Tướng kia tên gì? Sao dám đón đường ta, hãy thông tên đã". Tên tiểu tướng nạt rằng:
"Ta là con Bảo quốc công, họ Viên tên Cang, mi biết ta lợi hại mau mau xuống ngựa chịu trói cho sớm, khỏi nhọc công ta ra sức". Tử Lăng giận lắm nói:
"Thằng con nít, nhắm bộ mi có tài chi giỏi, mà dám nói phách, coi ta chém mi đây". Liền xốc mai huê lộc, hươi trà điều trượng đánh xuống, Viên Cang cử búa rước đánh, hai bên khoe sức anh hùng, đánh vùi một trận, làm cho lão thầy chùa già ngăn đỡ không kịp, nai ngửa người nghiêng la lớn rằng:
"Cha chả, thằng con nít thật giỏi, sức mạnh búa to, ta sao đánh lại". Bèn đánh bậy một trượng bỏ chạy, Viên Cang rượt theo, vốn con ngựa của Viên Cang chạy mau hơn con mai huê lộc, cho nên đầu ngựa đuôi nai kế khít, Viên Cang nghĩ:
"Nếu ta xuống một búa, chắc thằng yêu đạo này bi.
xả làm hai khúc, cũng không lấy làm chi giỏi, chi bằng bắt sống nó đem về lãnh công". Tính rồi giở chân kẹp búa, xốc ngựa vọt tới, với tay chụp áo đạo bào của Kim Tử Lăng, ráng sức kéo qua, lão thầy chùa già hoảng kinh giựt lại, hai bên ra sức kéo trì, nghe một tiếng vạt áo đứt lìa nửa đoạn, lão thầy chùa già lật đật quất nai, nhắm phía Nam chạy trốn, Viên Cang dừng ngựa trở về phần đất trấn giữ.
Nói về Tử Lăng chạy qua phía Nam thở chưa hết mệt, trước mặt đi tới một viên đại tướng tay cầm trướng thương nạt rằng:
"Yêu đạo! Có nhìn con Định quốc công là Độc Cô Giao hay không? Yêu đạo mi mật lớn bằng trời, cả gan dám phá đến chỗ ta giữ". Chẳng đợi phân nói, hươi thương đâm nhàu, Tử Lăng cử trượng rước đánh, hai bên ra tài võ nghệ, chẳng khác rồng đua cọp đánh, nguyên cây thương của Độ Cô Giao là cái nghề của ông cha truyền lại. Tử Lăng có đâu mà đánh lại, đánh hơn mười hiệp, ngăn đỡ chẳng kịp, cây trà điệu thương coi đà bấn loạn, Độc Cô Giao dùng thế bát thảo tâm xà đâm ngang sườn một cái, lão thầy chùa la chao ôi một tiếng, bị thương quày nai chạy tuốt. Độc Cô Giao chẳng rượt theo, Kim Tử Lăng thua chạy, quay lại không thấy tướng giặc rượt theo bèn dừng nai nghĩ rằng:
"Sườn ta chẳng biết dấu thương thế nào? " Vội vàng cởi áo xem coi, bị mũi thương đâm nhằm, may vì rách ra chớ không lấy chi làm nặng, cột dải áo lại, rồi xách gậy cỡi nai chạy qua phía Bắc, xảy gặp một đạo binh đón đường, xông ra một viên đại tướng, tiếng la như sấm, kêu lớn rằng:
"Yêu đạo! Chạy đâu, ông mi chờ đây đã lâu, mi chẳng biết ông lợi hại sao? " Tử Lăng nói:
"Tôi cùng Triển tướng quân bình nhựt vốn chẳng cừu thù, hôm nay cũng không oan trái, chi bằng thả tôi ra khỏi trùng vây, thì tôi rất cảm ơn lớn của tướng quân". Triển Lân giận lắm nói:
"Yêu đạo, sao dám kiếm lời dụ dỗ, mi chớ chạy, coi ta lấy đầu". Nói dứt lời hai tay hươi thương đâm tới. Tử Lăng cư?
trượng rước đánh, đánh đến mười hiệp, chẳng ai hơn thuạ Triển Lân lén rút cây trước tiết cang tiên, cầm nhập với cây thương, kêu là điệp lý tàng huê, thương lý tàng bổng, xem thấy Tử Lăng hươi trượng đánh tới. Triển Lân trở thương đỡ khỏi, thuận tay giơ cây trước tiết cang tiên lên sáng ngời, nhắm đầu Tử Lăng đánh xuống.
Tử Lăng xem thấy kinh hồn, liền cúi đầu trở qua bị cây roi đánh nhằm xương sống, làm cho Tử Lăng hộc máu chạy dài, quày nai tuốt qua phía Bắc. Triển Phụng giận lắm, mắng rằng:
"Yêu đạo! Sao dám xâm phạm chỗ tả " Rồi chẳng đợi phân trần, hươi đao nạt rằng:
"Yêu đạo! Coi đao ta này!" Tử Lăng ngó thấy đao xuống gần đầu, lật đật trớ qua còn chân thì thúc nai vọt tới, cây đao chém nhằm đầu song cũng bay hồn mất vía, giụa nai tìm đường lánh nạn.
Lúc ấy có quan lược trận bên Tần thấy Tử Lăng bị vây nguy khốn, liền bay ngựa về dinh tâu cùng Thủy Hoàng. Lúc ấy có Vương Tiễn, Chương Hàng, Triệu Cao nghe hết, chẳng kịp thỉnh lệnh, lật đật xuống trướng, tay cầm binh khí, thót lên ngựa, dẫn bộ quân binh ra khỏi cửa dinh, ráng sức phá vào trong trận, Tử Lăng ngó thấy rất mừng nói:
"Mang ơn ba vị đến cứu, song việc không nên chậm trễ, phải phá khỏi trùng vây, mới có đường sống đặng". Ba tướng nói:
"Lời quốc sư phân phải lắm".
Rồi đó bốn người xông phá chạy ra.
Nói về Củng nương nương hay đặng binh Tần phát binh phá vào trùng vây cứu Kim Tử Lăng, thì trong lòng giận lắm, hươi đao cửu hườn, giục ngựa đào huê, tuốt qua phía bắc.
Lúc ấy bốn phía tám hướng, thấy cờ long phụng tợ sao bay chớp nháng, chạy xẹt qua hướng Bắc, người người đều giục ngựa tưng bừng, áp lại phủ vây tướng Tần, nước chảy chẳng lọt. Tử Lăng thấy Củng nương nương dẫn chúng tướng áp lại vây phủ không đường nào ra khỏi thì hoảng kinh, xảy nhớ trực lại, nói:
"Mình đại chết thì thôi, nay bị vây, tánh mạng chết trong giây phút, sao chẳng ra phép đánh phá trùng vây còn đợi chừng nào? " Nói rồi miệng niệm chơn ngôn, thình lình giông gió nổi lên, cát bay đá liệng, ba quân mở mắt không ra. Tử Lăng rất mừng, kêu chúng tướng:
"Phải chạy theo ta mà ra cho mau". Nhơn lúc đó, Triệu Cao, Vương Tiễn, Chương Hàng ráng sức đánh ra khỏi hàm rồng hang cọp, thoát đặng trùng vây, lật đật như cá ra khỏi lưới, tuốt về dinh Tần.
Nói về Củng nương nương đang thôi thúc chúng tướng vây phủ dinh Tần, chẳng dè Tử Lăng lén làm phép gió cát thoát khỏi trùng vây. Nương nương cả đặng toàn thắng, thâu quân dẫn chúng tướng về thành.
Lúc ấy Tương Vương đang ở trên lầu thành lược trận, thấy nương nương đắc thắng, thâu binh về thành, trong lòng mừng rỡ, dẫn chúng tướng văn võ xuống thành, đến cửa phía Tây tiếp rước. Giây phút thấy cờ xí lăng xăng, ba quân hớn hở, gióng chiêng trở về. Tương Vương thấy nương nương về tới cửa thành, vội vàng bước ra.
Nương nương xem thấy xuống ngựa, vợ chồng dắt nhau vào hành cung. Nương nương thay đồ nhung phục rồi làm lễ ra mắt. Tương Vương cười nói:
"Hiền thê vì giang san của trẫm nên đánh đã trọn ngày, làm thua đặng Tử Lăng, thiệt công chẳng nhỏ, lòng trẫm cảm tưởng khôn cùng". Nương nương nói:
"Một nhờ phước bệ hạ, hai là có chước diệu Nam quân vương, ba nữa là chúng tướng đồng lòng ra sức đánh lui người Tần, chớ thiếp có công chỉ " Tương Vương cười nói:
"Hiền thê thôi chớ khiêm nhường, trẫm kỉnh trước một chung rượu đặng mừng công hiền thê". Nói dứt lời kêu quân đemrượu, tả hữu rót đầy chén vàng, hai tay dâng lên. Tương Vương tiếp chung rượu cúi mình nói:
"Hiền thê trên ngựa nhọc nhằn hãy uống một chung rượu này cho rõ tấm lòng trẫm yêu mến vô cùng". Nương nương vội vàng quỳ xuống nói:
"Thiếp có đức chi, làm nhọc đến bệ hạ ban thưởng". Rồi giơ tay tiếp lấy chung rượu, vốn nương nương là người chinh chiến nhọc nhằn, cả mình đều những mồ hôi, cất chung rượu uống vừa rồi, thình lình trước mặt tối đen sau lưng xây xẩm, tế nhủi ngã ngửa ra rớt nhào xuống đất, quăng chén bể tan. Tương Vương hoảng kinh, lật đật bước tới đỡ dậy, giây lâu mắt phụng mở dậy cả mình mồ hôi như tắm. Tương Vương thất kinh vội vàng dạy cùng quan phò nương lên tán phụng, đưa về cung Chiêu vương, thuốc thang điều trị. Rồi đó Tương Vương dẫn văn bá quan vừa muốn về triều xảy có quân báo nói:
"Nam quận vương về triều, còn đứng ngoài thành hầu chỉ.s" Tương Vương nghe nói mừng khôn xiết, truyền chỉ phò vương thúc vào ra mắt. Điền Anh vào đến hành cung. Tương Vương đứng dậy nói:
"Lúc nọ vương thúc ra trận bị giặc Tần nó ám toán, thua chạy phương nào, vì sao đi biệt vài ngày, mà đặng trở về đây? " Điền Anh đem việc bị thần thạch Tử Lăng đánh nhằm, thua chạy tới làng Ngọa Long, gặp con gái ông Hộ Quốc công, là Lý Phù Dung cứu sống, rồi cùng nhau kết làm chồng vợ, mà thuật hết đầu đuôi. Tương Vương nói:
"Việc cũng là cái may muôn ngàn của vương thúc." Bèn truyền chỉ cho Vương Thiểm (là thím của vua) vào ra mắt. Lý Phù Dung vâng chỉ vào đến hoàng cung, tung hô ba lượt, làm lễ xong rồi. Tương Vương khiến đứng dậy, dạy cung quan sắm sửa kiệu tàn, đặng đưa vương thiểm về phủ, Lý Phù Dung tạ Ơn lên tàn, thẳng qua vương phủ, Tương Vương lên xe vào đại điện, bày yến diên khao thưởng bá quan.
Nói về Kim Tử Lăng, lén hóa phép gió cát, xông ra khỏi kim tỏa, về đến dinh Tần, vào Huỳnh la bửu trướng ra mắt Thủy Hoàng xin tội. Thủy Hoàng nói:
"Quốc sư bị vây mà về được là may, còn việc thắng bại binh gia là sự thường, trẫm đâu khứng làm tội. Song cùng Kim Định tuy rằng có tài mạnh mẽ, cũng chưa ắt là nó có chước hay như vậy, e có người tài phụ giúp, phép toán âm dương của quốc sư rất nghiệm, sao chẳng chiếm coi thử người nào bày trận kim tỏa lợi hại như vậy? " Tư?
Lăng dạy bàn hương án, rồi khấn vái một hồi, gieo tiền xủ quẻ, xem coi hào tượng, rồi thất kinh, làm thinh chẳng nói. Thủy Hoàng hồ nghi hỏi rằng:"Chẳng hay quốc sư chiếm quẻ biết chắc người nào hành binh bố trận, hoặc hung hoặc kiết, mau mau nói cho trẫm rõ, vì sao chẳng nói tiếng chi; xem coi hào tượng, mà có sắc kinh như vậy".
Kim Tử Lăng bỏ tiền xuống tâu rằng:
"Tôi ngỡ là Tôn Tẫn đã về núiThiên Thai rồi, không dè ở tại thành Lâm Tri, hôm nay lén bày trận Sát Môn, giúp cho Củng Kim Định; nếu không có phước lớn của bệ hạ, thì ắt phải mang tay độc của nó rồi". Thủy Hoàng nghe nói Tôn Tẫn còn ở nước Tề, thì lòng mật xé gan.
Hết hồi 36