Hai người uống rồi từ biệt Tương Vương cùng Mao Toại, Bạch Viên, người lên nai, người cỡi cọp, bay tuốt lên mây. Các tiên đưa rồi vào điện, Mao Toại nói với Tương Vương cùng Tôn Tẫn rằng:
"Tôi ở đây cũng vô dụng, xin cho tôi vào núi".
Tôn Tẫn sa nước mắt nói:
"Hiều đệ, vì sao bỏ tôi mà đi cho đành, hãy tạm ở ít ngày, chôn mẹ tôi rồi sẽ về, cũng chẳng muộn chi". Bạch Viên nói:
"Tôi cũng muốn về Nhạn Sầu giảng đó chút, song thấy các tiên về hết, còn lại một mình tam ca, nên khó mở miệng nói được, tôi nghĩ lại tôi với chơn nhơn cùng tam ca có tình bái ái chi giao, lẽ thì ở lại đưa bác lên đường, cho hết tấm lòng, chừng ấy sẽ về".
Tôn Tẫn nghe rồi, nói:
"Hiền đệ phân như vậy rất phải, xin hai em ở lại cùng ta, mà lên Ngô Kiều". Mao Toại nói:
"Thôi phen này đừng bắt tôi cầm phướn nữa, và đừng có làm cái tang xa trận gì hết không nên, vậy chớ chừng nào đi chôn bác?" Tôn Tẫn nói:
"Tôi tính đến giờ ngọ ngày mai thì chôn". Tương Vương thất kinh nói:
"Á phụ tính mai lên Ngô Kiều táng quý nhơn, trẫm tưởng binh Tần đi chưa được ba ngày, nếu nó dùng kế hoãn binh, thì trẫm biết cậy ai, chi bằng á phụ chờ qua mùa thu sẽ lên Ngô Kiều". Tôn Tẫn nói:
"Bệ hạ chớ lo, tôi tưởng chắc binh Tần phen này không dám tới nữa, hoặc về nước chỉnh tu binh mã, nếu chờ đến mùa thu, e nó tới nữa cũng chưa biết chừng, chi bằng nhân lúc này tôi lên Ngô Kiều chôn mẹ tôi cho rồi, e để lâu ngày, binh Tần đến nữa, thì không rảng được mà lên Ngô Kiều, mẹ tôi một ngày chưa vào đất, thì lòng tôi một ngày chẳng được an, vả lại đường sá xa xôi, nếu xe tang chưa đến Ngô Kiều, mà binh Tần tới nữa, thì có ai bảo hộ linh cửu, chừng ấy lòng tôi mắc lo hai phía, thì hóa ra việc chẳng tốt".
Tôn Tẫn kiếm lời dối gạt một hồi. Tương Vương không nói lại được ngồi giây lâu rồi nói:
"Á phụ phân như vậy cũng phải, đến mai trẫm cùng á phụ đưa lên Ngô Kiều". Tôn Tẫn biết Tương Vương đi không được, nên chẳng chối từ, nói:
"Tôi mang ơn bệ hạ, dẫu nát mình cũng không trả được, lại ban ơn đến người chín suối, thiệt là cái đức như trời cao, đất này". Nói rồi, kế đến yến diên dọn lên. Vua tôi ăn uống, chuyện vãn, Tôn Tẫn ăn rồi, lạy từ vua đi với Mao Toại, Bạch Viên về phủ, lạy linh cửu, khóc tế một hồi. Mạo Toại nói:
"Tôi không nói láo được, nay tam ca nói láo giỏi thiệt gạt cho Tương Vương không hiểu biết chút nào". Bèn ngó lại không thấy Tôn Yên ở trước linh cữu, thì hỏi:
"Tôn tiểu diệt không có đây, mà anh tính sang ngày đi chôn sao được?" Tôn Tẫn nói:
"Tôn Yên ta đã sai nó ra thành hai mươi dặm mà chờ, nếu chậm một ngày, nhân dân trong thành đều bệnh hết, thì lấy ai mà khiêng quan cứu".
Bèn dạy ngươi tới phủ Khai quốc hầu mà kêu Viên Cang. Giây phút Viên Cang tới phủ ra mắt Tôn Tẫn và hai tên. Tôn Tẫn nói:
"Đến mai tôi lên Ngô Kiều chôn mẹ tôi, ngươi nói lại với các vương hầu chẳng cần đưa đón làm chi, vì đến canh ba đêm nay trong phủ Nam phụng vương có người đến báo việc hung, thì ngươi nói lại với người ấy rằng ta đã biết trước rồi, chẳng cần tới báo, vốn bởi số trời như vậy, chẳng cần lo rầu làm chi". Nói rồi sa nước mắt, lòng thiệt chẳng an. Bèn dạy Viên Cang về phủ. Viên Cang nghe nói, lật đật từ biệt các tiên. Về đến phủ, trong bụng ngẫm nghĩ rằng:
"Lão già này nói ra những lời bất tường, ắt có duyên cớ chi đây".
Trong lòng buồn bực chẳng vui, Mao toại hỏi Tôn Tẫn rằng:
"Khi nãy anh nói cái chi mà sa nước mắt vậy?" Tôn Tẫn nói:
"Hiền đệ, bởi em chưa rõ, Nam Cực cùng các tiên đi rồi thì Ngũ ôn thần bay xuống rưới ôn, ta đoán vợ Nam Phụng vương nội canh ba đêm nay phải chết, còn Chánh cung Củng quốc mẫu đến giờ tỵ ngày sau thì băng, các học trò cũng không khỏi nạn ấy, ta tuy có lòng thương song chẳng dám cãi trời, thấy chúng nó chết mà chẳng đau lòng sao được, và mấy muôn sanh linh cùng mấy trăm năm cơ nghiệp nhà Tề, đều về tay người khác, như vậy ngươi có thương hay chăng?" Mao Toại nói:
"Tam ca, việc chẳng ca chi đến mình, thì mình chẳng cần nhọc bụng, tôi không can đến thì than thở làm gì, tôi từ đây không tới chỗ phiền ba thế giới nữa" Tôn Tẫn nói:
"Đời loạn đồ thàn, thiên hạ đao binh, có ai dám đánh tới động Nhàn âm của ngươi đâu, mà biểu ngươi than thở". Mao Toại nói:
"Tuy không ai đánh tới động Nhàn âm của tôi,song tôi về đây cũng mây che bít cửa động, kẻo lòng tôi từ thiện, thoảng có việc chi, nín không được thì sanh ra lòng vọng động".
Tôn Tẫn gật đầu, chuyện vãn cho đến canh năm, chờ đến giờ dần. Tôn Tẫn dạy sửa soạn xe tang, rồi vào triều, chờ Tương Vương lên điện để lạy từ. Lúc ấy các quan văn võ đều cùng ra mắt Tôn Tẫn. Tôn Tẫn đáp lễ lại. Đang chuyện vãn cùng nhau, bỗng nghe trống long phụng đánh, Tương Vương ra khách, Tôn Tẫn lạy ra mắt.
Tương Vương sa nước mắt nói:
"Khi hôm, Vương phi của Nam Phụng vương lâm bịnh ngặt mà thác, trẫm thương người tuổi trẻ và tưởng công lao của ngươi, như mất hết một cánh tay nước Tề, thiệt khá thương tiếc, và khi hôm trẫm không hề nhắm mắt, vì Quốc mẫu lâm bệnh dịch rất trọng, bất tĩnh nhân sự; nay trẫm muốn đưa quý nhơn lên Ngô Kiều, ngặt vì nương nương bệnh nặng, trẫm thiệt khó mà bỏ đi cho được; xin á phụ trước linh cửu bẩm rõ tội ấy, chẳng phải là cái lỗi của trẫm".
Tôn Tẫn nói:
"Tôi mang ơn bệ hạ, nát mình không tra được. Quốc Mẫu nay tuy bệnh trọng, lời xưa có nói:
"Hễ người có phước, thì trời giúp cho, liệu không hề chi, còn Vương phi của Nam Phụng vương, ấy là đại số như vậy, xin bệ hạ nguôn bớt lòng sầu, lấy việc xã tắc nhân dân làm trọng, tôi lên Ngô Kiều, chẳng quá năm ngày thì ắt trở về, việc binh Tần chẳng cần lo sợ". Tương Vương nói:
"Trẫm cũng y như lời á phụ phân". Bỗng thấy thái giám vào triều tâu rằng:
"Quốc mẫu đã tỉnh lại, xin mời bệ hạ vào cung, có việc tâu cùng". Tương Vương nói:
"Trẫm tính đưa quan cữu quý nhơn ra khỏi thành mười dặm, rồi sẽ trở về, ngươi nói lại với nương nương chờ trẫm về, sẽ vào cung".
Tôn Tẫn nghe rồi, lật đật tâu rằng:
"Quốc mẫu đã vời chúa thượng vào cung, vậy xin bệ hạ lui về". Rồi Tôn Tẫn lạy từ vua, ra cửa ngọ môn, thấy sáu vị tuôn ra cuồn cuộn, nói:
"Các vị hiền đồ của ta mà ta không đặng trọn thủy chung như vậy!" Nói rồi khóc rống lên, làm cho sáu vị hầu gia cung đều sa nước mắt, nói:
"Lão tô?
chẳng qua tạm lên thanh ngưu về phủ, sáu vị môn đồ cùng mười hai vị ấm tập đều mặc đồ trắng, còn Bạch Viên, Mao Toại hai người đi theo hai bên Tôn Tẫn, năm trăm gia đình thảy mặc đồ trắng để tang. Tôn Tẫn cầm phướn dẫn đường, cả triệu văn võ từ nhỏ chí lớn, không người nào mà chẳng đưa ra khỏi cửa, có hai ngàn binh Tề, ngựa trắng giáp trắng đi từ cặp, cờ xí trống nhạc rần rộ theo sau.
Từ cửa phủ Nam quận cho đến cửa tây thành Lâm Tri, trăm họ nhà treo đèn kết tuội, đầu đội hương huê quỳ rước nơi đường, chờ cho linh cữu qua khỏi mới dám đứng dậy, dọc đường một khúc thì tế, một khúc thì đi, tới thập lý trường đình. Tôn Yên dẫn hai trăm gia tướng, mặc đồ tang, quỳ rước, rồi thay đổi xe ngựa. Tôn Tẫn lạy tạ các quan văn võ và quay qua phía bắc, lạy tạ Tương Vương. Dặn dò học trò, phải hết lòng trung quân ái quố, rồi cùng Tôn Yên, Mao Toại, Bạch Viên, ba người nhắm Ngô Kiều thẳng tới.
Nói về các quan văn võ, đưa Tôn Yên đi rồi, kẻ lên yên người ngồi kiệu, trở về ngọ môn, tới cửa tây thành Lâm Tri có gia tướng các phủ đến báo với nói:
"Quốc mẫu đã băng rồi". Các quan nghe nói thất kinh bay ngựa tới triều. Vốn quốc mẫu là vì sao trên trời xuống phàm, và có học với người tiên, lẽ nào không biết đặng cái đại hạn của mình, vì bị cảm phong hàn, nhiễm bệnh ôn dịch, cho nên hôn mê bất tỉnh, đến lúc hồn dương lại, trong lòng rõ biết đại hạn không khỏi đặng, thì than thở rằng:
"Ta nay ngôi đến Quốc mẫu, quý tộc bực rồi, vả lại từng ra giặc lớn vài trận vì khí số Lâm Tri, mấy trăm năm công phu tổ tông mai một khó giữ". Nhớ đến chỗ ấy, nên sai giám quan lên điện, thỉnh Tương Vương vào dặn dò việc sau. Tương Vương nghe Quốc Mẫu tỉnh lại cả mừng, lật đật gát xe về đến cửa cung, gặp Tẫn phi quỳ rước.
Tương vương xuống xe, lật đật hỏi:
"Nương nương quả thiệt khá chăng?" Tẫn phi tâu rằng:
"Quốc mẫu khi nãy tỉnh lại nói đặng vài lời, bây giờ coi càng không khá, sợ e nương nương thác trong giây phút". Tương vương cả kinh chạy tới long sàng, thấy Củng quốc mẫu mặt như giấy vàng, thở ra một tiếng, hồn đã về trời.
Lầu rồng các phụng nay đâu mất, Phú quý vinh huê một buột rồi Nói về Củng quốc mẫu thác rồi, tam cung lục viện để tang lúc ấy văn vỏ về đến triều, thấy thái giám bước ra đứng giữa nói rằng:
"Củng quốc mẫu ngày nay, tháng này, giờ này giá băng, các quan vào cung đặng ban hành cho quan viên nhơn mã, thảy đều quái hiếu cư tang". Các quan vâng chỉ vào cung ra mắt Tương Vương, bèn đem việc đưa Tôn Tẫn lên Ngô Kiều táng mẹ, ra khỏi thập lý trường đình, trơ?
về phục chỉ. Tương Vương sa nước mắt gật đầu. Các quan lui chầu ai về phủ nấy.
Khá thương chưa hơn nửa ngày, tiếng khóc rúng động, trên đường kẻ để tang người sắm sửa lăng xăng không dứt, chết nơi đường không xiết kể, các quan bị bệnh rất nhiều, qua ngày thứ, Tương Vương lâm điện, chẳng thấy văn võ đến chầu thì than dài nói:
"Trẫm tưởng tam cung lục viện bị tai mà thôi, té ra trăm họ cũng đều mang hại; từ lúc Quốc mẫu băng rồi, chưa đầy vài giờ mà trong cung bệnh chết luôn hết hai người, có khi vượng khí đất Lâm Tri này đã hết, nên Á phụ lên Ngô Kiều chôn mẹ, rồi trời xuống tai lạ ấy". Túng không biết làm sao truyền quan Thái y, phát thuốc khắp cho bốn cửa thành, song cũng vô hiệu.
Nói về năm vị Ôn thần ở giữa không trung giương lọng ôn hoàng, phất phướn ôn hoàng, liệng gươm thôi ôn hoàng, liệng gươm thôi ôm kim (là gươm thúc làm bệnh ôn) trong thành Lâm Tri chẳng đầy ba bữa, trên đường người đi lần lần thứa bớt. Lúc mới chết ban đầu thì có hòm rương đến sau quấn chiếu, bó ván mà chôn không xiết kể. Trong triều các quan văn võ mười người chẳng còn đặng ba, làm cho Tương Vương hoảng kinh, đứng ngồi chẳng đặng.
Nói về vua tôi nhà Tần cách vài ngày lén sai quân đến Lâm Tri thám thính, qua?
thiệt tai trời cả đấy, lật đật chạy về phi báo, vua Tần cả mừng dẫn ba quân cùng Hải Triều đánh tới thành Lâm Trì, dọc đường thây chết vô số, đi tới cửa đông, đốt pháo an dinh. Thủy Hoàng cùng Hải Triều ra dinh xem coi, khí đen mù mịt, Hải Triều than nói:
"Sinh linh này mắc tai đồ thán, cũng vì mạng trời". Than thở một hồi rồi trơ?
về dinh. Hải Triều dạy Vương Tiễn dẫn ba ngàn binh đánh cửa đông, Chương Hàn dẫn ba ngàn binh đánh cửa tây; Tư Mã Hân dẫn ba ngàn quân đánh cửa bắc, còn bao nhiêu ở lại giữ dinh.
Lúc ấy quan binh bốn cửa thành chạy vào phi báo. Tương Vương nghe báo hồn bay khỏi xác, phách tán vào mây, lật đật lên điện. Lúc ấy tướng võ thì còn có Viên Cang, Độc Cô Giao, còn quan văn thì có Cao Hiền, nịnh trung vài người mà thôi, mà bộ tịch lại chao vao, mặt như sắc đất, có xác không hồn, đứng chầu hai bên. Tương Vương nói:
"Khi nãy quân giữ thành tâu nói:
"Binh Tần trở lại vây bít bốn phía cửa thành, biết làm sao bây giờ?" Viên Cang tâu rằng:
"Chúng tôi khá ra ngăn được, ngặt vì mang bệnh, cả mình mệt mỏi, làm sao ra trận cho nổi". Tương Vương nghe rồi cúi đầu, chẳng nói tiếng chi, nước mắt nhỏ sạ Cao Hiề tâu rằng:
"Binh Tần rất mạnh, và nay binh mã của ta cũng không cự đặng, xin bệ hạ liệu tính lẽ nào". Tương Vương khóc nói:
"Trẫm nay có một kiếp chết mà trả ơn tiên đế, có lẽ nào đứa nô tì mà đi thờ nó sao?" Nói rồi khóc rống lên. Các quan cũng đều khóc vùi.
Tương Vương nói:
"Các khanh hãy về mà giữ gia quyến của các khanh, trẫm cũng chết liền bây giờ". Bốn tôi nghe nói đều quỳ xuống tâu rằng:
"Chúng tôi cả đời chịu ơn nhà nước, đâu dám tiếc mình này, vì hôm nay thế ngặt sức cùng, xin theo bê.
hạ dặng thấy tiên vương nơi dưới đất". Nói rồi cúi mọp xuống mà khóc vùi. Tương Vương nói:
"Các khanh hãy đứng dậy, các khanh đã có chí ấy, thiệt mười phần khá khen". Bèn dạy nội thi đem đô gấm cho bốn tôi ngồi, và truyền dạy quan cận thị, nơi trong điện trước sau, tả hữu, chất củi cho đầy, rồi đất lửa lên. Giây phút lửa khói tột trời, năm vua tôi ở trong điện đều hóa ra tro tà. Nội thị trong cung đều nhảy vào lửa mà chết không xiết kể, ở ngoài đều ra sức phá thành. Quân sĩ nước Tề không chúa, liền mở cửa thành ra đầu. Vương Tiễn chẳng dám tự chuyên, phi báo; vua Tần Thủy Hoàng dẫn văn võ đến cửa đông thành Lâm Tri, thấy cửa thành mở hoác, bá tánh bịnh thôi mặt bàng mình ốm, người người đi té lên té xuống, đầu đội lư hương quỳ trước Thủy Hoàng, nói rằng:
"Vì ôn dịch cả đấy, người ngựa không ra đánh được, nên vua tôi đóng điện đốt mình mà chế, nay chúng tôi mở cửa rước binh vua vào, xin tha tội chết". Thủy Hoàng mừng thầm, vì rõ biết công việ, liền dạy treo bảng an dân, rồi cho nổi trống chiêng, ngự giá tới cửa ngọ môn, thấy ba tòa đại điện đều cháy thành tro, duy còn một cái điện ngánh chưa cháy. Thủy Hoàng truyền chỉ tới điện tạm nghỉ.
Lúc ấy có mấy thằng nịnh không biết hổ thẹn, mặc đồ triều phục, tới chầu Thủy Hoàng. Thủy Hoàng phong theo chức cũ, truyền chỉ bày yến ăn mừng, và khao thưởng ba quân. Giây phút diên yến dọn rồi, nhường cho Hải Triều ngồi giữ. Thủy Hoàng ngồi một bên. Hai bên dọn ra sáu tiệc, mười hai vị chơn nhơn ngồi trước, kế đó Kim Tử Lăng, Vương Tiễn, văn thần võ tướng cứ theo thứ tự mà ngồi.
Thủy Hoàng bưng chén rượi nói với Hải Triều rằng:
"Từ lúc trẫm dấy binh đến nay, đánh hơn vài trăm trận, khó nhọc gian nan nhiều bề, nếu không có phép thần thông của lão tổ, thì tiểu vương này đâu đặng cái đức lớn như hôm nay, xin khính lão tổ chén rượu này, cho rõ tấm lòng". Hải Triều đứng dậy, tiếp lấy chén rượu, nói:
"Ấy là tại phước lớn của hiền vương, chớ bần đạo có tài chi, mà khen cho quá lắm, đã mang ơn ban thường, thì bần đạo xin uống hết chén rượu này, và có một lời xin tỏ".
Nói rồi, hai tay bưng chén rượu uống liền. Thủy Hoàng hỏi:
"Lão tổ có lời chi xin dạy biểu". Hải Triều nói:
"Lúc trước Nam Cực cùng Tôn Tẫn trái trời làm bậy, vì vậy nên tôi xuống núi phò giúp bệ hạ, bữa trước bày trận Sum la, có năm vị tiểu chúa đến giản hòa. Nam Cực cùng các tiên đã về núi hết, còn Tôn Tẫn thì lên Ngô Kiều chôn mẹ, chẳng bao lâu nó cũng về núi Thiên Thai, nay tôi xin cùng các học trò về núi tu luyện, chẳng có phạm chốn hồng trần sát giới nữa, nên trước mặt hiền vương tôi xin cáo biệt".
Thủy Hoàng nói:
"Lão tổ muốn về núi làm chi gấy vậy. Trẫm nghĩ lại từ lúc dấy binh đến nay, mới lấy được hai nước, còn bốn nước nữa, chẳng biết ngày nào bình phục cho nên được nghiệp lớn. Xin nhờ phép lực lão tổ cùng trẫm mà bình nước Sở, Hàng, Triệu, Ngụy cho xong rồi sẽ về núi, cũng chẳng muộn gì; muôn cầu lão tô?
cùng các chơn nhơn, tạm dừng tiên giá ít ngày, thì trẫm cảm ơn chẳng xiết". Lão tô?
nói:
"Hiền vương từ đây về sau, nhứt lộ hanh thông, không có điều chi lo lắng nữa; muốn bình bốn nước, thì có học trò nhỏ của tôi là Kim Tử Lăng cùng Vương Tiễn thì cũng đủ rồi, bần đạo ở đây không làm gì, quyết xin về núi".
Thủy Hoàng thấy Hải Triều nói như vậy thì liệu không cầm lại được, bèn dạy nội thị rót một chung rượu đầy, trẫm xin đưa đi, chúc cho lão tổ phước thọ vô cương".
Hải Triều uống luôn một hơi cạn chén. Kim Tử Lăng, Vương Tiễn hay được dâng rượu. Hải Triều đều tiếp mỗi người mà uống hết. Thủy Hoàng bước tới các chơn nhơn, kỉnh rượu tiễn biệt, rồi kế Tử Lăng, Vương Tiễn đều cùng các chơn nhơn nâng chén. Chuyện vãn vui cười, uống vùi một hồi tiệc tan, Hải Triều cùng các chơn nhơn đứng dậy cúi mình nói với Thủy Hoàng rằng:
"Bệ hạ chớ lo, cứ việc thẳng tới, ứng theo trời, chẳng mấy ngày thì được thành công, làm nên nghiệp đế, bần đạo xin từ biệt về núi". Thủy Hoàng nói:
"Tôi xin vâng lời dạy". Lúc ấy Tử Lăng, Vương Tiễn dẫn thanh mao hẩu đứng sẵn trước thềm chờ đó. Hải Triều lên lưng hẩu, bay bổng lên mây, các tiên cũng đều về hết.
Nói về Tôn Tẫn, Mao Toại, Bạch Viên, ba người theo phò xe tang, nhắm Ngô Kiều tấn phát, ngày kia đang đi, Tôn Tẫn vùng qùy xuống, khóc rống lên, nói:
"Không phải tôi chẳng muốn hết trung đền nợ nước, ngặt số trời đã định, tôi không dám cãi!" Mao Toại, Bạch Viên lật đật đỡ dậy, nói:
"Tam ca, anh làm cái chi như vậy?" Tôn Tẫn nói:
"Lúc này vua Tề đóng cửa điện mà đốt mình, lòng ta chẳng thương xót sao được". Mao Toại, Bạch Viên nghe nói, cũng đều thê thảm. Mao Toại nói:
"Cũng bởi số trười, không cứu được, thôi chúng ta lo việc của chúng ta cho rồi".
Đoạn kéo nhau đi nữa.
Ngày kia, phút đến Ngô Kiều. Tôn Tẫn lựa một chỗ đất tốt, dạy quân cất lều tranh, rồi để quan cửa chôn xuống. Tôn Tẫn cùng Tôn Yên, chú cháu Tôn Tẫn lau nước mắt, dạy quân lấp đất lại xong rồi, dọn bày lễ vật, hương đăng tế điện. Tôn Tẫn, Tôn Yên cởi hết đồ tang, để nơi một mà đốt, rồi cùng Mao Toại, Bạch Viên vào lều tranh mà ngồi. Tôn Tẫn nói:
"Hôm nay an táng tiên linh, thì lòng ta sơ?
nguyện, công việc đủ chẳng dám xuống hồng trần phạm sát giới mà nghịch lòng trời nữa; còn hệu điệt, cháu phải chạy qua nước Triệu cho sớm mà an thân lạc nghiệp".
Tôn Yên nghe rồi đau lòng xót dạ nói:
"Nay chú bỏ cháu mà đi, tưởng cháu mồ côi một mình, chẳng có thân thích chi cả, không biết ngày sau có làm nên việc được chăng, xin chú dắt cháu cùng đi". Tôn Tẫn nói:
"Chú là người tu hành, dứt không tưởng đến phàm tục, cháu phải nghe theo mạng trời, tùy thời an thân, chú không có lời chi mà dặn nữa". Đoạn Bạch Viện, Mao Toại cùng với Tôn Yên cáo biệt. Tôn Tẫn thót lên thanh ngưu, vỗ sừng con trâu cái, tức thị bay bổng trên không. Mao Toại, Bạch Viên đều lui hết. Tôn Yên quỳ lạy giữa trời, thấy các tiên đi xa rồi, bèn đứng dậy dẫn gia tướng tuốt qua nước Triệu. Tôn Tẫn về núi Thiên Thai, Mao Toại về động Nhàn Âm, Bạch Viên về Nhạn sầu giảng. Từ đó đến sau, tu thành tiên hết.
Nói về vua Tần kéo binh đánh nước Hàng, dứt nước Ngụy, lấy nước Triệu, phá nước Sở, tới đâu không ai dám cự, thế tợ chẻ tre, gồm nên một mối. Thiên hạ tuy rộn rực tranh giành, song những kẻ phàm tục tử, cự sao cho lại cây gươm của Vương Tiễn, cho nên không có ai là tay đối thủ với y đặng.
Thế là Tần Thủy Hoàng đã gồm thâu sáu nước làm một vậy.
Hết hồi 60
Hóa hình giả thả sao bổn mạng
Tới cung Tần khéo vụng cực thân
Nói về Nam Cực đến cửa phía tây muốn vào, trong ấy xông ra một viên thần tướng ba đầu sáu chân đạp xe phong hỏa, cần hỏa tiêm hương ấy là Na Tra, đón đường nói rằng:
"Chưởng giáo thượng tiên không được vào chổ tôi giữ, tôi vâng chi?
Ngũ lôi chơn nhơn oai trấn cửa tây nay e Tôn Tẫn chạy thoát, chẳng dám vị tình".
Nam Cực cười nói:
"Thượng thánh xin nghe tôi phân một lời, tôi là người tu hành, đến đây vốn không phải là cứu Tôn Tẫn đâu, chẳng qua muốn vào trận xem coi phương hướng thế nào đặng nói cho Ngũ Lôi chơn nhơn rõ mà cầu hòa xin thượng thánh mở cho tôi một đường đi". Na Tra nói:
"Nếu thượng tiên vào trận, phải hết lòng cẩn thận". Nói rồi tránh đường cho Nam Cực đi. Nam Cực cỡi nai vào trận ngưới mặt xem thấy các cửa đều có tướng, nẻo nẻo thảy có thần ngũ đầu tam tài cửa diệu, nhị thập bát tú đứng theo thứ lớp, hung tính ác sát, vây bịt bốn phương, điển mẫu làm chớp, tiếng sấm nổ vang. Nam Cực coi rồi trong lòng sợ hãi mới nói:
"Trận này thiệt quả lợi hại". Lật đật cỡi nai tới giữa trung ương thấy Tôn Tẫn ngồi dựa bên trâu:
Cờ hạnh huỳnh bao mình, hào quang chiếu sáng, sấm sét đánh xuống không được; Tôn Tẫn như say bất tỉnh. Nam Cực kêu lớn rằng:
"Tôn Tẫn, Tôn Tẫn". kêu hai ba tiếng mà không thấy đáp lại. Nam Cực nói:
"Không xong, coi bộ giống như mất hồn phách". Vội vàng lấy quạt nga mi nhắm Tôn Tẫn quạt một cái, Tôn Tẫn đang lúc mê muội, thình lình tỉnh dậy, mở mắt ngó thấy Nam Cực trong lòng thê thảm nói:
"Tổ sư, đệ tử bị khổn trong trận này, tưởng là kiếp này chẳng gặp không dè tiên giá đến đây cũng như cây khô được gặp mùa xuân, xin mở lòng từ bi cứu tôi khỏi trận thì cái ơn tái sanh đến chết tôi chẳng dám quên". Nam Cực nói:
"Ngươi có cờ hạnh huỳnh che mình, vì sao mà hôn mê mất trí như vậy?" Tôn Tẫn nói:
"Cờ hạnh huỳnh là che thân, còn sao bổn mạng của tôi bị đè dưới tháp, phía ngoài thì dựng cây phướn lạc hồn biên ngày tháng năm sanh của tôi trong phướn ấy, mỗi ngày ba giờ, sai lôi thần sét đánh, thì tôi liền hôn mê, vậy nên thần chẳng định xá, khí chẳng tiếp ngươn, hễ mất ngươn thần ấy thì tánh mạng khó sống". Nam Cực an ủi rằng:
"Ngươi chẳng cần kinh sợ, ta đã xuống đây ắt làm phép cứu ngươi khỏi đặng, và có sư phụ, sư thúc của ngươi đền đến Đông Tề, và Bạch Viên, Đông Phương Sóc phụ giúp, thì sợ gì thẳng tiểu bối Mao Bôn?".
Nói về Mao Bôn thua chạy về kinh, trong bụng nghĩ rằng:
"Anh em Vương Thuyền xuống núi, muốn cứu Tôn Tẫn, ắt cũng không cứu đặng, vì nó vào trận đã năm ngày, nếu qua đặng hai ngày nữa, chắc là phải chết, như có người vào trận, thì ta sai ngũ lôi đánh". Lúc ấy trời vừa đến giờ dậu, Mao Bôn cầm gậy cỡi nai; đi cửa Tây bắc vào trận, lên đài trung ương nghĩ rằng:
"Hai ba ngày rày, ra chưa coi đến thằng cụt, tưởng chẳng bao lâu thì nó cũng chết, vì bởi ta đánh một gậy mà Đại la thần tiên bị hại". Bèn đứng trước đài ngó xuống thấy trên đầu Tôn Tẫn hào quang chưa tan, đang cùng lão thầy chùa già nói chuyện. Mao Bôn thất kinh nói:
"Ngươi gì mà lớn mật dám lén vào trận, giải cứu Tôn Tẫn". Coi kỹ lão thầy chùa ấy đầu bịt khăn đen, mình mặc áo bát quái, lưng cột dây huỳnh long, cầm gậy đầu rồng, rõ ràng là Chưởng giáo, thì nói thầm rằng:
"Nam Cực nó tới mà chịu chết, nếu vào trận cứu khỏi Tôn Tẫn, thì có ta không ngươi, có ngươi thì không ta, ta với ngươi thề chẳng đứng chung". Nói rồi lột mão, bỏ tóc xõa, niệm chú thỉnh thần, đánh lệnh bài thôi thúc ngũ lôi. Xảy nghe giữa không trung sấm sét vang rền. Tôn Tẫn nói:
"Không xong, sét đã tới rồi". Nam Cực lật đật lên nai, phá cửa Tây mà chạy. Mao Bôn đứng trên đài kêu nói:
"Nam Cực, mi chạy đâu, coi ngũ lôi ta đánh mi". Tức thì trước đầu nai, chớp giăng sáng giới, sấm sét nổ lên. Nam Cực chẳng sợ, bước xuống mau huê lộc, lấy quạt long tu quạt lên một cái, ngũ lôi chẳng dám đánh xuống, đánh vẹt một bên nhằm con nai chết tốt. Nam Cực lật đật độn trong chớp sáng đi tuốt, về đến lư bằng, trong lòng cả giận. Vương Thuyền, Vương Ngao, Bạch Viên, Đông Phương Sóc đều tới hỏi thăm. Nam Cực đem việc vào trận, bị chết mai huê lộc mà thuật lại một hồi. Vương Thuyền nói:
"Trận ấy lợi hại lắm, chẳng biết có vị thần nào phá nổi, đặng toi đến thỉnh người". Bạch Viên nói:
"Anh có tài nói miệng mà thôi, có đâu chờ được thỉnh người, theo ý tôi chi bằng trước vào trận, thả vì sao bổn mạng của tam ca đốt phướn lạc hồn, mà giữ thánh mạng của tam ca, rồi sau sẽ toan mưu phá trận cũng chẳng khó gì". Nam Cực nói:
"Phải, song e ngươi vào trận không được". Đông Phương Sóc nói:
"Như người khác thiệt không đi được chớ Bạch Viên sợ tề thiên đại thánh, nay đại thánh cũng chẳng khác gì bao nhiêu, phải giả biến làm đại thánh phá vào trong trận, thần tướng có ai dám ra ngăn cản, miễn là thả sao bổn mạng, đốn phướn lạc hồn được rồi thì dễ lắm". Nam Cực cả mừng nói:
"Kế ấy rất hay". Bạch Viên nói:
"Để tôi biến thử coi có giống không". Nói rồi miệng niệm thần chú, rùng mình một cái, tức thì xem thấy đầu đội mão tàn thiên, mình mặc quần da cọp, đi giày đạp bổng. Chúng nhân xem thấy cả mừng. Nam Cực nói:
"Biến giỏi lắm, quả thiệt giống như in, vậy người cầm cây quạt long tu của ta vào trận tới phướn lạc hồn, lấy sao bổn mạng Tôn Tẫn, để trên cây quạt, bay lên khỏi thiên la hai mươi trượng, rồi thả sao bổn mạng quạt luôn ba cái mà đưa về". Bạch Viên lãnh quạt, hóa kim quang bay tới trận ngũ lôi, xem thấy bốn phương tám hướng đều những thần tướng trấn giữa. Đại thánh giả, tay cầm niếp bổng nạt lớn rằng:
"Chúng bay là Mao thần ở đây làm gì?" Chúng thần xem thấy nói:
"Khổ dữ a! Con khỉ nó đến rồi". Vội vàng cúi mình thưa rằng:
"Tiểu thần vâng chỉ Ngũ lôi chơn nhơn, bày bố thiên la, lỗi không tiếp rước, xin đại thánh thứ dung". Đại thánh giả nổi giận mắng rằng:
"Hay cho Mao thần, tội đáng đánh chết, bây không biết Liễu nhứt chơn nhơn là anh em bạn thiết của lão Tôn hay sao? Ta ở dưới núi Ngũ Hành, nghe Tôn Tẫn bị vây nổi giận, ra đến đây để giải cứu, mau mau phải mở thiên la, nếu chẳng nghe lời thì ta đánh chết hết".
Chúng thần tưởng Đại Thánh thiệt, người người run sợ, đều nói rằng:
"Xin Đại thánh chớ giận, chúng tôi tình nguyện mở hết thiên la, mời Đại thánh vào trận". Đại thánh giả nạt rùm:
"Phải mở cho mau". Chúng thần chẳng dám chậm trễ, lật đật xúm nhau mở hết thiên la, Bạch Viên cả mừng nhảy vào trong trận, kinh động các thần trong trận đều nói:
"Không xong rồi, người phản thiên cung đến đó". Làm cho Ngũ Đẩu, Tam Tào thất kinh run rẩy, Cửu Diệu tinh quan thối lui, Nhị Thập bát tú kiếm đường mà trốn, Ngũ lôi tứ soái liếc mắt chẳng dám cản. Bạch Viên mừng thầm nói:
"Lão Tôn quả thiệt danh bất hư truyền". Bạch Viên cầm kim niếp bổng giả đến đài trung ương, ngó thấy Tôn Tẫn ủ mặt châu mày, ngồi dựa bên trâu, trong lòng thảm thiết, Đại thánh giả bước đến kêu rằng:
"Tam ca! Toi đã tới đây". Tôn Tẫn mở mắt ngó thấy biết liều cúi đầu nói:
"Đại thánh! Tôn Tẫn này có tài đức chi, dám nhọc ơn trọng, đường xa tới cứu". Bạch Viên bước tới kề tai nói nhỏ:
"Tam ca! Tôi là Bạch Viên, biết Đại thánh ba lượt phá thiên cung, các thần đều sợ nên biến hóa đến đây mà thả sao bổn mạng của anh, nếu các thần thấu biết, chắc không sống được". Tôn Tẫn nghe rồi nói:
"Mấy thưở được hiền đệ nhọc lòng hằng mong cứu giúp, chết sống chẳng quên". Bạch Viên nói:
"Tam ca chờ lấy được sao bổn mạng thì không hại gì".
Tôn Tẫn nói:
"Làm cho mất công hiền đệ, tôi cảm ơn chẳng xiết". Bạch Viên bước tới dưới phướn lạc hồn thấy trên phướn có đề tám chữ niên ngoại nhựt thời của Tôn Tẫn, coi rồi thấy đi tới một vị thần, mười phần cao lớn mặt xanh nanh dài, dữ tợn vô cùng Đại thánh giá cầm niếp bổng chỉ hỏi rằng:
"Mao thần sao ở đây?" Vốn người ấy là tôi vua trụ, lúc phong thần va ở ải Giáp Bài, tướng của Hành Vinh, họ Dư tên Hóa, va ở ngoài ải lập phướn mê hồn, ngăn trở Tử Nha, sau bị Dương Tiễng giết chết, không có tên tong bảng phong thần, nên Ngọc Đế phong va là chức Mã danh vương, vì lúc Đại thánh phá thiên cung, va chưa đặng chức ấy cho nên nhìn không biết Đại thánh. Bây giờ va vâng phép Mao Bôn, ở giữ phướn lạc hồn, lạc hồn, lẽ nào có người đến mà không hỏi sao.
Bèn nạt lớn rằng:
"Ngươi là người nào, phải tránh cho mau". Đại thánh giả giận lắm nói:
"Ta là Tề thiên đại thánh đây". Vị thần ấy nghe nói thất kinh, mới biết là Hầy vương, động Thủy Liêm, vội vàng cười nói:
"Tối là Bắc trực u châu cai quản thiên hạ, làm chức Mã danh vương, vâng mệnh Ngũ lôi sai giữ phươn này, không hay Đại thánh đến đây, lỗi không tiếp rước". Đại thánh giả nạt rằng:
"Sao ngươi không lui lại?" Mã thần hoảng kinh, lui lại vài mươi trượng, Bạch Viên nắm phướn lạc hồn kép xuống xé nát, lấy lửa đốt tiêu, Mã vương hoảng kinh nói:
"Đại thánh đốt phướn ấy, Ngũ lôi quở trách tiểu thần, biết làm sao nói được?" Đại thánh giả nói:
"Đừng sợ nó, nếu nó có hỏi, nói:
Có lão Tôn đến đốt". Nói rồi quày đi trở xuống, gặp Thái Bạch kim tinh nói:
"Tôi nghe nói Đại thánh bị đè dưới núi Ngũ hành, làm sao ra được?" Đại thánh giả nói:
"Lão Tôn có phép thần thông, tài ba ai lại không biết, nay đến giải cứu Tôn Tẫn thả sao bổn mạng trở về". Kim tinh nói:
"Ấy là Mao chơn nhơ câu xuống đè lại chổ này, sai tôi giữ, làm sao mà dám thả?" Đại thánh gia?
nổi giận nói:
"Hay cho thằng già, ta bảo thả sao bổn mạng mà sao ngươi dám cãi, dễ chẳng biết học của Tôn Tẫn vốn là một họ Tôn với ta, nay bị nạn ta đến cứu, ngươi phải tránh cho mau, nếu còn nhiều lời, cây kim niếp này không nhịn được". Kim tinh nghe nói hoảng kinh rộn ràng, nói:
"Xin Đại thánh chớ giận muốn thả thì tôi tha?
cho". Đại thánh giả nói:
"Nếu vậy ngươi hãy tránh đi". Kim tinh túng phải tránh vẹt một bện. Bạch Viên bước tới lấy thần tháp rồi giở tấm lụa đen trên miệng ảng, nhe.
tay cầm sao bổn mạng để trên quạt long tu, cỡi tường quang bay khỏi thiên la, tuốt lên mười hai trượng nữa, thả sao bổn mạng bay giữa không trung, quạt luôn ba cái đưa về chỗ cũ. Rồi Bạch Viên cần kim niếp bổng thẳng qua dinh Tần, bay xuống.
Quân giữ cửa dinh nghó thấy giữ không trung rớt xuống một người, hình tướng dị kỳ, thất kinh hỏi rằng:
"Ngươi là yêu ma quái quỷxứ nào? Chớ đi tới trước, cai ta bắn tên đây này". Đại thánh giả nạt rằng:
"Bây chớ nói bậy. Mau vào báo nói:
Có động Thủy Liêm là người cá phá thiên cung, Tề Thiên đại thánh đến đây!" Quân binh nghe rồi chạy tuốt vào dinh quỳ xuống bẩm rằng:
"Ngoài cửa không trung rớt xuống một người, lông lá đầy mặt, mỏ giống thiên lôi, cầm cây binh khí ước bằng miệng chén, xưng rằng:
"Đông Thủy Liêm, cả phá thiên cung, Tề Thiên đại thánh, nên tôi phải vào báo". Mao Bôn quay lại với Thủy Hòang rằng:
"Thánh chúa có phước lớn lắm, người Đại thánh ấy tôi tuy không biết mặt, song tôi có nghe Hải Triều lão tô?
nói:
"Người ấy giỏi lắm, vốn là thạch hầu của trời sanh, tu luyện một mình, không phục ba giáo, đánh Đông Hải lấy được kim nếp bổng, ở núi Hoa quả sơn, xưng bá xưng vương, Ngọc đế triệu về phong chức Bật mã ôn, bị say rượu phá hội bàn đào, đánh giết mười muôn binh trời, cả phá thiên cung, nhờ có Phật tổ Như Lai bắt va đè dưới núi Ngũ Hành, hôm nay bị va trốn khỏi đến đây, chắc là phụ giúp Tây Tần".
Thủy Hoàng cả đạp truyền mơ hoác cửa dinh, dẫn văn võ đến đại trướng ngồi giữa.
Thủy Hoàng ngồi một bên, Mao Bôn, Kim Tư Lăng đứng phân hai hàng. Đại thánh giả nói với Thủy Hoàng rằng:
"Tôi muốn nói một lời, chẳng biết hiền vương nghe chăng?" Thủy Hoàng nói:
"Nếu có việc chi làm được, tôi phải vâng nghe". Bạch Viên nói:
"Nếu có việc chi làm được, tôi phải vâng nghe". Bạch Viên nói:
"Tôn Tẫn một họ với lão Tôn, vì người bị vây trong trận, lão Tôn hay được tới đây giải cứu, nếu hiền vương rõ biết thờ thế, thì mau rút binh dẹp trận, mà thả Tôn Tẫn ra, muôn việc đều thôi, nếu không nghe lời, chớ trách lão Tôn thô lỗ". Thủy Hoàng cả kinh, cứng miệng không nói được. Mao Bôn nghỉ thầm rằng:
"Tôn Tẫn là Yên Đơn công chúa sanh ra. Con hầu vương này, là ở Đông thắng thần châu, đến núi Hoa quả sơn, vốn một cục thần thạch, chịu tinh khí mặt nhựt, mặt nguyệt mà đẻ ra, vì sao cùng với Tôn Tẫn bà con, có khi giả chăng? Việc này rất hồ đồ, chưa biết giả thiệt, nếu mình dẹp trận, thì làm sao trả thù một gậy cho được, bằng trái lời e mắc tội với con khi?
này". Lẽ khó toan xảy nhớ lại nghĩ rằng:
"Để ta tâu với vua Tần bày yến khoán đãi, cầm nó ở lại đến sáng ngày, đặng thử coi thiệt giả". Mao Bôn tính rồi bước tới nói với Đại Thánh rằng:
"Xin chờ tôi sáng này thâu binh thì xong, bệ hạ hãy bày yến cùng Đại thánh uống rượi, để tôi đi dẹp trận". Thủy Hoàng vội vàng truyền chỉ bày yến, Đại thánh nói:
"Chẳng bày yến làm chi, đem rượi và trái cây thì đủ". Tả hữu vội vàng đem lênh, Bạch Viên cả mừng ăn uống một mình.
Nói về Mao Bôn, Kim Tử Lăng, xuống trướng huỳnh la dọn bàn hương án, gieo tiền chiếm quẻ, rõ biết việc ấy, cả giận nói:
"Dữ cho Bạch Viên mật lớn bằng trời, giả hình Đại thánh, phá vào trong trận, thả sao bổn mạng Tôn Tẫn rồi đến trong dinh, khi gạt ta như thế, thiệt đáng ghét, thôi việc không nên chậm trễ, hai ta mang bửu kiếm vào bắt nó rồi sẽ tính". Tử Lăng nói:
"Sợ se nó chạy thoát đi, chi bằng ta đem dây khổn tiên thằng lén truyền tướng quân lớn nhỏ cung lên dây, đao rút vỏ, sửa soạn bắt nó". Mao Bôn, Tử Lăng bày trí xong rồi, bước vào đại trướng, thấy Bạch Viên đang ngồi cầm trái cây mà ăn, Kim, Mao hai người bước tới, rút gương nạt lớn rằng:
"Cả gan cho Bạch Viên! Sao dám giả mạo Tề thiên vào dinh ta, toan mưu khi dễ, mi chạy đi đâu?" Bạch Viên nói:
"Không xong, bị lũ này thấu biết, một người khó cự bốn tay". Đang ngồi vùng nhảy bổng trên không Mao Bôn lật đật liệng khổn tiên thằng, xem thấy một lằn sáng chói, bắt Bạch Viên trói lại mà bỏ xuống đất. Thủy Hoàng rất mừng quay lại hỏi Mao bôn rằng:
"Vì sao chơn nhơn biết nó là Đại thánh giả?" Mao Bôn đem việc chiếm quẻ, thuật lại Thủy Hoàng nghe, Thủy Hoàng nói:
"Bây giờ bắt nó làm sao?" Mao Bôn nói:
"Nó là nửa phần tiên, đi đại hội bàn đào có sáu chữ chơn ngôn của bà Vương mẫu nơi mình không giết được, vậy lấy dây da xỏ ngang xương tỳ bà cốt của nó cột lại vào củi". Kim Tử Lăng làm y theo lời Mao Bôn, rồi bắ Bạch Viên bỏ vào củi để sau hậu đình, sai tít tên coi giữ. Rồi sau đó Thủy Hoàng bày yến, cùng Mao Bôn ăn mừng.
Nói về Nam Cực đang ngồi trong lư bằng, trong lòng hồi hộp, co tay suy tính, rõ biết cách việc, than thở một mình, Đông Phương Sóc hỏi:
"Vì sao lão tổ có dạng ưu sầu?" Lão tổ nói:
"Đạo hữu rồi, lòng tham chưa đủ, lại đến dinh Tần cùng Thủy Hoàng giảng hòa, rủi bị Mao Bôn chiếm quẻ thấy ra việc giả, dùng dây khổn tiên trói bỏ vào củi, nay Tôn Tẫn chưa ra được, còn Bạch Viên lại bị bắt, nếy có đều chi thì ta mất thể diện". Đông Phương Sóc nghe nói cười ha hả mà rằng:
"Lão tổ chớ lo, chẳng phải tôi kheo miệng, muốn cứu Bạch Viên duy tại nơi tôi". Nam Cực mừng nói:
"May nhờ phép lực đạo huỳnh". Đông Phương Sóc nói:
"Tôi phải chịu nhọc mới được". Nói rồi nhảy lên một cái, không thấy hình dạng, ra khỏi thành Lâm Tri, lén qua dinh Tần, thò trong túi lấy ra một vật bửu bối, dài một ngón tay, bề ngang nửa ngón, hau đầy nhọn (vốn là một lá đào, lấy trong vường bàn đào, dùng tinh khí nhật nguyệt gia công luyên chế, mùa động, mùa hạ cũng xanh hoài, người xem chẳng thấy, bửu bối ấy tên đào diệp độ, cũng như Mao Toại có cỏ ẩn thân vậy. Đông Phương Sóc nhờ bửu bối ấy mà lấy vật không ai hay biết, các thần tiên ngoài biển đều sợ, cho va làm đầu hết, nên kêu là Thoại Mao Toại). Lúc ấy Đông Phương Sóc cầm đào diệp độ ẩn vào dinh Tần, chờ đến hoàn hôn, trong dinh đèn đuốc sáng ngời, bước tới trướng Kim đính huỳnh la, thấy Thủy Hoàng, Mao Bôn cùng Kim Tử Lăng đang vui cười ăn uống, Đông Phương Sóc nghĩ thầm rằng:
"Ở đây coi nó uống rượu cũng không ích gì. Chi bằng đến thả Bạch Viên hay hơn". Nghĩ rồi quày mình xuống trướng, đi qua hướng đông, thấy một tòa dinh bàn nho nhỏ, có bốn năm tên quân ngồi trước cửa nói chuyện, tên kia nói:
"Mao chơn nhơ của ta thiệt có tài giỏi lắm, bắt đặng Bạch Viên nhốt sau hậu trường, sợ e ngủ rồi nó trồn đi mất". Tên nọ nói:
"Chưa giao cho chúng ta giữ cũng là may, bây giờ chơn nhơn chưa về, còn đang uống rượu". Đông Phương Sóc nghe nói rõ ràng, mừng rỡ khôn xiết, bèn ẩn mình vào trong trại Mao Bôn, chẳng có một người, đèn đuốc sáng rỡ, căn giữa để một cái ghế sơn đỏ, trên có hương hỏa đèn đuốc, thờ cái túi chi vàng vàng, hai bên bồ đoàn, một phía thì để trà điều trượng, một phía thì treo bửu kiếm, ấy là chổ của Mao Bôn ngồi.
Đông Phương Sóc nói thầm rằng:
"Trong túi này chẳng biết vật chi". Giở ra xem thấy hai cuốn sách, ngoài đề bốn chữ lớn:
Ngũ lôi thần thơ, thì mừng lắm, bèn lấy thần thơ bỏ vào túi, dời chân muốn đi nhưng trong bụng nghĩ rằng:
"Ta ăn cắp thần thơ, Mao Bôn về đây chẳng thấy, thì chúng quân chẳng khổi bị tội, vậy để ta viết ít chữ, cho khỏi lụy đến quân nhơn". Rồi viết bồn côn thơ bỏ trên ghế:
Khen cho Mao đạo rộng thần thông.
Để sách Ngũ lôi tại giữa phòng, Phương Sóc hôm nay xem tợ mặt, Cơ mưu bày trận uổng công lao.
Viết rồi, tuốt ra sau trướng thả Bạch Viên, hai người chạy ra cửa dinh, bị quân giữ cửa đón lại, la ó lên.
Hết hồi 41