Chỉ mục bài viết |
---|
Xuân Thu Oanh Liệt |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Trang 7 |
Trang 8 |
Trang 9 |
Trang 10 |
Trang 11 |
Tất cả các trang |
Bàng Quyên tới trưới dinh Tề cả kêu rằng: "Quân Tề phải đem thái tử ra thả, bằng không ta sẽ giết hết cả lũ bây giờ!". Tôn Tẩn nghe báo, bèn dạy Ngô Giải, Mã thăng đem binh ra trận mà trái bại, nhữ Bàng Quyên về cửa dinh Tề. Hai tướng đi rồi, Tôn Tẩn lại sai anh em họ Tu đem tụ thần kỳ ra chờ ở cửa dinh như trước.
Ngôi Giải, Mã Thăng đem binh ra tới trận, Bàng Quyên hét rằng:
- Hai tướng tên gì, phải nói cho mau!
Ngô Giải, Mã Thăng xưng tên rồi hỏi Bàng Quyên rằng:
- Mi là ai, sao dám tới đây chịu chết?
Bàng Quyên nói:
- Ta là Võ an quân nước Ngụy, tới đây đòi thái tử ta về. Nếu chúng bây giao trả thì thôi, bằng nghịch mạng ta chặt đấu cả lũ.
Ngô, Mã hai tướng không thèm đáp nữa, cứ việc áp lại đâm đánh.
Bàng Quyên hươi đao nghinh chiến. Cả ba đánh nhau được hơn năm mươi hiệp. Ngô Giải, Mã Thăng bèn quày ngựa chạy về dinh. Bàng Quyên xua binh đuổi theo. Tu Văn Long, Tu Văn Hổ thấy Bàng Quyên rượt gần tới trước dinh bèn phất cờ tụ thần. Tôn Tẩn bèn niệm lục giác linh văn, làm phép thâu đất, lập tức binh Tề lui lại sau đó hai mươi dặm, rồi có vô số binh ma, tướng quỷthế lại đầy đủ để chờ binh Bàng Quyên tới. Bàng Quyên kéo binh rượt tới trước dinh, thừa thế chém giết quan Tề rất nhiều, rồi đánh thẳng vào trong dinh chèm giết đến nỗi máu chảy thành suối, thây chất nên gò!
Khi chiếm được dinh Tề rồi, Bàng Quyên bèn dạy quân sĩ đếm bếp lại. Thấy số còn tám mươi ba ngàn cái. Bàng Quyên mừng lắm, tính lại thì biết đã giết binh Tề hết năm muôn năm trăm rồi. Bây giờ Bàng Quyên bèn hạ lệnh binh Ngụy đồn binh trong dinh Tề.
Liền khi đó, quân thám mã vào báo cho Bàng Quyên hay rằng có tướng Tề là Lý Mục kéo binh ra trận. Hai tướng gặp nhau liền sáp lại đánh. Đánh được vài mươi hiệp, Lý Mục bèn chạy về dinh Bàng Quyên rượt theo tới trước dinh Tề. Anh em họ Tu liền phất cờ tụ thần, Tôn Tẩn lại làm phép thâu đất, bao nhiêu binh Tề đều lui lại hai chục dặm, để trại lại cho binh ma tướng quỷcố thủ. Bàng Quyên rượt Lý Mục tới trước trại, thừa thế chém giết rất nhiều rồi cướp luôn trại mà đồn binh. Đồng binh xong lại sai đếm bếp nấu. Bây giờ số bếp chỉ còn năm muôn một ngàn cái. Bàng Quyên tính một trận mà đã giết quân Tề tới ba muôn hai ngàn rưỡi tên nữa thì mừng lắm.
Giây lát lại có quân váo báo với Bàng Quyên rằng có tướng Tề là Độc Cô Trần tới khiêu chiến. Bàng Quyên lập tức kéo binh ra trận. Hai đàng gặp nhau liều sáp lại đánh. Đánh được vài mươi hiệp, Một Cô Trần trá bại, Bàng Quyên rượt theo tới cửa trại, anh em họ Tu liền phất cờ, Tôn Tẩn lại làm phép lui binh Tề ra sau hai chục dặm nữa, để binh ma tướng quỷở lại trại và chịu cho binh Ngụy chém giết. Bàng Quyên rượt Độc Cô Trần chạy đã xa rồi, bèn cướp trại Tề mà đồn binh, và đếm thử số bếp lại thì chỉ còn ba muôn. Bàng Quyên mừng lắm, đinh ninh trong trí rằng nếu đánh luôn hai trận nữa ắt binh Tề không còn manh giáp mà về, thế nào cũng cứu được thái tử.
Dùng mưu và làm phép luôn mấy trận đã nhử Bàng Quyên theo gần tới Mã lăng đạo rồi, bây giờ Tôn Tẩn bèn kêu Tu Văn Long, Tu Văn Hổ, Ngô Giải, Mã Thăng tới dặn nhỏ ít câu rồi sai bốn tướng đem binh tới mai phục chung quanh Mã Lăng đạo.
Nói lại Bàng Quyên cướp được trại Tề luôn bốn lần thì thích chí lắm, quyết đánh luôn vài trận nữa để cứu thái tử, nên ngày hôm ấy ngồi trong dinh suy định mưu kế. Đương lúc suy nghĩ, bỗng thấy quân vào báo có người đạo sĩ xin ra mắt. Bàng Quyên bèn truyền cho mời vào. Đạo sĩ được lệnh vào trung quân ra mắt Bàng Quyên rồi nói rằng:
- Tiêu đạo là học trò của Huỳn Bá Dương tên là Hoàng Phủ Trí, nhân nghe phò mã cầu hiền chuộng sĩ nên giúp sức đánh Tề. Tiểu đạo tuy học dở tài hèn song cũng rõ được ba quyển thiên thơ, hay kêu mưu gió hú, hóa đá thành binh. Nếu phò mã tin dùng, ắt nghiệp bá dễ thành như trở tay vậy!
Bàng Quyên nghe mấy lời quả quyết, nhìn mặt Hoàng Phủ trí có vẻ khác phàm thì cả mừng nói rằng:
- Nếu được tiên sinh giúp tôi thời may lắm. Vậy bây giờ tiên sinh nên nghĩ cách cứu thái tử giúp tôi.
Hoàng Phủ Trí nói:
- Tiểu đạo tới đây cũng vì việc thái tử đó. Xin phò mã hãy để việc đó mặc tiểu đạo lo liệu tính!
Bàng Quyên cả mừng sai quân dọn chỗ bên tả dinh cho Hoàng Phủ Trí ở.
Lúc bây giờ, Tôn Tẩn ở bên dinh Tề đoán quẻ biết rõ việc của Bàng Quyên bèn nói với Lỗ vương rằng:
- Bàng Quyên mới thâu dụng một người, người đó là học trò của Huỳnh Bá Dương tên là Hoàng Phủ Trí, phép tắc khá lắm, tuy không làm chi nổi chúng ta, song cũng làm chúng ta mất công ít tháng.
Lỗ vương nghe dứt bèn nói:
- Vậy tiên sinh không có cách chi để trừ nó à?
- Có, song để làm thử coi. Được thì xong xuôi mọi việc, còn không được thì phải đánh nhau một trận rất to.
Nói dứt lời, Tôn Tẩn bèn lấy một miếng giấy viết bốn câu thơ rồi niệm chú làm phép nổi lên một trận gió bay qua dinh Ngụy.
Hôm nay, Bàng Quyên đương ngồi trong dinh sai người đi mời Hoàng Phủ Trí tới bàn việc, thình lình thấy có miếng giấy theo gió bay tới rớt bên chỗ ngồi, bèn lượm lên xem, trong ấy có bốn câu thơ rằng:
Học trò Bá Dương Hoàng Phủ Trí, Ràng rẽ thiên thơ, thông đạo lý Không phải tới giúo Võ an quân.
Trá hàng ứng Tề đặng phá Ngụy Bàng Quyên xem thơ xong mừng thầm rằng: "Té ra thằng này là quân tế của Tề à! May có trời giúp ta bốn câu thơ, không thời việc cả sẽ hư!"
Vừa khi ấy quân sĩ mời Hoàng Phủ Trí tới. Bàng Quyên liền trợn mắt rút gươm chém Hoàng Phủ Trí rớt đầu chết tươi.
Tôn Tẩn ở dinh Tề đoán quẻ hay Bàng Quyên đã giết Hoàng Phủ Trí thì mừng lắm, nói lại cho Lỗ vương biết.
Vì Bàng Quyên đã lẩn tưởng Hoàng Phủ Trí là kẻ thích khách nên trong trí liền nảy ra một kế, lập tức sai quân đi mời bộ tướng là Trương Tài tới cho mình dạy việc. Trương Tài tới ra mắt Bàng Quyên. Bàng Quyên nói rằng:
- Nay ta cần dùng mi đi qua dinh Tề dọ thám binh tình một chuyến, mi có dám hay không?
Trương Tài nói:
- Tưởng chuyện chi rằng khó, chớ chuyện đó dễ như chơi!
Bàng Quyên nói:
- Ngoài sự dọ thám binh tình, ta còn cậy mi một việc nữa là lén giết Lỗ vương và quân sư của y.
Trương Tài nói:
- Tôi đủ gan dạ và tay chân lạnh lẹ làm việc đó có khó gì!
Bàng Quyên cả mừng kê miệng vào tai Trương Tài dặn nhỏ ít câu rồi nói.
- Ráng lo xong việc ta sẽ trọng thưởng.
Trương Tài dạ từ giã lui về giắt gươm vào mình lẻn ra đi.
Bên dinh Tề, Tôn Tẩn đoán quẻ biết mưu của Bàng Quyên bèn nói cho Lỗ vương hay rằng:
- Bàng tặc lại sai Trương Tài tới giả đầu hàng đặng lén giết điện hạ và dò tin tôi. Vậy chúng ta phải đề phòng mới được.
Lỗ vương gật đầu. Tôn Tẩn lại truyền lại quân sĩ rằng:
- Từ nay về sau không được gọi là Tôn Tẩn quân sư nữa, phải gọi là Huỳnh Bá Dương quân sư sai khiến. Nếu ai vi lệnh ta sẽ chém đầu làm gương.
Ba quân nghe truyền đều y lệnh gọi Tôn Tẩn là Huỳnh Bá Dương.
Sau đó một buổi, quân kỳ bài vào báo cho Lỗ vương xá một xá rồi nói:
- Tiểu vương là Trương Tài, bộ hạ của phò mã Bàng Quyên, vì phò mã ỷ thế khi người, vô cớ đánh đòn tiểu tướng, vì tủi nhục với bạn bè, nên tiểu tướng phải lánh mặt kiếm nơi khác mà lập thân. Nay nghe đại vương yêu hiền chuộng sĩ nên mới tới đây xin làm bầy tôi dưới trướng!
Lỗ vương nghe dứt bèn đáp:
- Về việc quân, ta không trọn quyền. Vậy để hỏi lại Huỳnh Bá Dương quân sư coi thế nào?
Huỳnh Bá Dương giả đáp:
- Người này có dõng lại đa mưu nên dùng lắm bỏ qua rất uổng.
Lỗ vương gật đầu tỏ lời thâu Trương Tài rồi dạy lui ra hậu trại.
Trương Tài được dung nộp, thích chí lắm tưởng Lỗ vương đã tới số chết nên mới lầm mưu mình. Từ đây Trương tài ở trong trại Tề dọ hỏi tin tức Tôn Tẩn, song chỉ nghe quân sĩ nói Tôn Tẩn đã chết rồi va quân sư bây giờ là Huỳnh Bá Dương mà thôi.
Một hôm, Tôn Tẩn sai một tên quân rất tin cậy, bện hai cái hình cỏ to lớn như người thường cho mặc y phục, một cái giống như Lỗ vương Điền Kỵ, một cái giống như quân sư Tôn Tẩn, trong có hai hình ấy đểu có để bong bóng heo đựng đầy máu heo, tay chân đầu cổ đều có gắn lắc léo để dễ làm cho cử động, rồi đem hai hình ấy để trong quân trướng chuyền dây vào vách cho ít tên quân núp trong ấy cầm coi chừng. Đoạn đốt vài cái đèn lu lu ở trong quân trướng, mấy tên quân cầm dây kéo tới giựt lui làm cho hai hình nộm cử động như là nói chuyện thầm. Bây giờ Tôn Tẩn bèn đọc linh văn, họa phép cho hai hình nộm được cơ lin như người thiệt, rồi cùng Lỗ vương lui ra trại sau mà yên nghĩ.
Đêm đó tới canh ba, Trương Tài cấp đao lén vào quân trướng, dưới bóng đèn lờ mờ, nó thấy hai hình cử động như sống, quyết chắc Lỗ vương và quân sư đương bàn luận hình cơ thời cả mừng đi lần vào, khi thấy chẳng có quân hầu bèn xông tới trước ch1m mỗi người một đao. Hai người đứt đầu té lăng máu chảy dầm dề.
Hành thích xong, Trương Tài bèn lén ra khỏi dinh Tề đi riết về trại Ngụy ra mắt Bàng Quyên trình lưỡi đao dính máu lên và thuật rõ việc hành thích, Bàng Quyên nghe dứt mừng rỡ vô cùng, quyết ý thế nào cũng sẽ đánh tan binh Tề mà cứu Thái Tử.
Ngày hôm sau, Bàng Quyên sai quân dọ tin tức về việc Trương Tài hành thích Lỗ vương và quân sư Huỳnh Bá Dương coi có thiệt hay không.
Mãi tới chiêu hôm ấy, quân báo rằng trại tề đã hạ cờ hiệu Lỗ vương và Huỳnh quân sư rồi, chỉ còn có một cây cờ hiệu của Viên Đạt mà thôi.
Bàng Quyên được tin này lại mừng rỡ bội phận.
Tới chạng vạng ngày ấy, Tôn Tẩn sai người ra sau khiêng mười cái rương ra trung quân, rồi giở rương ra lấy hết những mặt nạ trong đá mà phát cho quân sĩ mỗi đước một cái và dặn mưu chúng nó phải làm như vầy... Như vầy...
Quân sĩ được lệnh lập tức kéo nhau tới mai phục gần dinh Ngụy.
Đêm ấy đến canh ba, bọn quân sĩ mai phục đó bèn bỏ tóc xõa, đeo mặt nạ men lần tới dinh Ngụy, cả tiếng kêu khỏc rều rĩ rất ghe gớm. Kêu khóc chán lại gọi tên Bàng Quyên mà mắng là gian thần bội hữu, diệt lý bại luân, đã giết chúng nó thì nay phải thừơng mạng.
Bàng Quyên đương ngủ trong dinh, nghe tiếng kêu khóc thì tỉnh giấc dậy, lắng nghe một hồi, trong lòng đã run sợ, kịp đến lúc nghe chúng kêu mắng và đòi thường mạng thì nghĩ thầm rằng:
- Có lẽ ta giết nhiều quân Tề, nên ngày nào hồn oan chúng nó hiện đến đòi thường mạng. Vậy kẻ chánh khí nào sợ tà mi ta hãy ra khu trục chúng nó đi rồi!
Nghĩ đoạn, Bàng Quyên bèn điểm binh nổi đèn đuốc rồi lền ngựa kéo ra khỏi trại.
Bàng Quyên ra tới ngoài trại, bỗng có một trận gió lạnh thổi tới, rồi có vô số yêu ma, mặt xanh, mặt đỏ, đầu tóc rũ rượi, kết đoàn lũ, kêu khóc rền rĩ ngoài xa xa. Bàng Quyên bèn nói ta rằng:
- Chúng oan hồn kia không được làm náo động quân dinh ta lúc đên khuya như vầy. Hãy tan đi nơi khác cho mau, chờ khi ta ban sư về nước Ngụy ta sẽ làm chay siêu độ cho!
Chúng oan hồn nghe dứt, đã không tan đi mà lại càng kêu khóc mắng chửi Bàng Quyên nữa. Bàng Quyên cả giận lùa binh đuổi theo.
Bàng Quyên đuổi lũ hồn oan một hồi bỗng tới Mã Lăng đạo, thấy nơi ấy có một cây huỳnh dương rất to, trên cây có treo ngọn đèn rất tỏ, dưới bóng đèn, da cây lủng sâu biến thành sáu chữ:
- Bàng Quyên chết tại cội này.
(Nguyên mấy năm trước Tôn Tẩn giận Bàng Quyên bạc nghĩa, chặt chân mình nên mọng cho y phạm lời thề là chết tại Mã Lăng đạo, nên tới trước lấy mực trộn mật mà viết như vậy. Ngày qua tháng lại, sâu mọt đánh hơi ngọt, cạp đục vào da cây nên nay hiện thành sáu chữ tự nhiên).
Bàng Quyên dòm lên cây huỳnh dương thấy mấy chữ ấy, biết là chỗ chẳng lợi cho mình, nên liền truyền lệnh ba quân lui về. Chẳng dè quân Ngụy chưa kịp quày lại bỗng nghe có tiếng pháo nổ, có bốn tướng Tề là Mã Thăng, Ngô Giải, Tu Văn Long, Tu Văn Hổ đem một muôn hình cung nỏ xông ra bốn phía bủa vây Bàng Quyên và quân Ngụy vào giữa.
Bốn tướng Tề vây được Bàng Quyên vào giữa, vừa muốn hạ lệnh ba quân buông tên, bỗng thấy Tôn Tẩn sải ngựa tới truyền rằng:
- Đừng bắn nó! Đừng bắn nó!
Bàng Quyên nghe kêu, ngước mặt ra ràng là Tôn Tẩn thì kinh sợ, tê tái cả mình, vô ý té nhào xuống ngựa. Tôn Tẩn truyền quân bắt bỏ vào tù xa, rồi chỉ vào mặt mà mắng rằng:
- Bàng Quyên ơi, mi rõ là kẻ lòng lang dạ thú, gạt chúa khi vua, vong ơn bạc nghĩa! Mi có nhớ lúc tại chợ Châu Tiên mi thề với ta rằng: Ai lỗi đạo anh em sẽ bị loạn tên tại Mã Lăng đạo và bị bảy nước phân thây hay không? Nay số mi đã cùng, mạng mi đã tuyệt nên trời khiến mi tới đây mà nạp mình. Ta không thèm bắn mi, ta hãy đem mi về nước Ngụy, một là giao trả Thái tử Tất Mạo cho vua Ngụy, hai là xin vua Ngụy một khoảng đất dùng làm chỗ bảy nước phân thây mi!
Bàng Quyên nghe mấy lời hối hận quá, nhưng nào có kịp!
Người sau đọc sử tới đây, có vịnh bài thơ rằng:
Muôn mũi tên gom tại Mã Lăng, Khen mưu Tôn Tẩn ứ ai bằng Đau chân bởi bạn càng buốn trí, Hươi kiếm vì ai phải nghiến rằng, Ba vạn binh Tề oai vũ dõng, Một viên tướng Ngụy dạ kinh mang Người sau kết bạn nên đôn hậu, Chớ khá vô tâm học chú Bàng.
Bây giờ Tôn Tẩn bèn kéo binh về trại ra mắt Lỗ vương, thuật rõ việc bắt Bàng Quyên rồi nói tiếp rằng:
- Bây giờ hạ thần muốn kéo binh qua thành Nghi Lương để trả Thái tử Tát Mạo cho vua Ngụy và mượn một tiếng đất hầu xử tội Bàng Quyên. Chẳng rõ ý điện hạ thế nào?
Lỗ Vương khen phải, lập tức hạ lệnh nhổ trại ra đi.
Quân sĩ được lệnh, liền nhổ trại, kết đội lên đường. Đi chẳng mấy ngày đã tới thành Nghi lương, đại binh đồn tại ngoài thành. Tôn Tẩn dạy quân sĩ nói với quân trong thành rắng:
- Nay Tôn quân sư đã bắt được Bàng Quyên tại Mả Lăng rồi. Bây giờ đối với Ngụy chúa không có cừu thù gì, nên đem Thái tử Tất Mạo tới trả.
Vậy trên thành phải vào mới Ngụy chúa ra lãnh.
Ngụy chúa tuy mừng con mà cũng buồn vì nỗi phải bị sĩ nhục. Dầu thế nào, Ngụy chúa cũng rán đem các quan lên thành hội kiến với Tôn Tẩn. Tôn Tẩn thấy Ngụy chúa đứng trên thành, bèn nói:
- Tôi với Bàng Quyên có cái thù chặt chân, chứ với Bệ hạ thời không cừu oán chi. Nay tôi bắt được Bàng Quyên rồi, nên tôi giao trả Thái tử lại cho bệ hạ, và luôn đây xin Bệ hạ cho tôi mượn một khoảnh đất ở cửa đông thành để xử tội Bàng Quyên.
Ngụy chúa nghe hỏi mượn đất giết Bàng Quyên, biết Tôn Tẩn muốn làm nhục mình nên buồn lắm, song cũng gượng nhận lời rồi sai quân sĩ thòng ván đu xuống dưới thành rước Thái tử lên, rồi cho con và các quan lui vào triều.
Ngụy chúa vào triều vẻ mặt buồn bã lắm, đem việc vừa hội kiến với Tôn Tẩn mà thuật lại cho các quan nghe. Con trai Bàng Quyên là Bàng Anh nghe nói Tôn Tẩn sẽ giết cha mình tại ngoài cửa đông thì liền xin với ông ngoại là Ngụy vương, sáng hôm sau đem binh ra đó cứu cha.
Ngụy chúa chuẩn tấu. Tới hừng đông, Bàng Anh đem binh đi, vừa ra cửa thành gặp Viên Đạt đem binh đón giết mất. Viên Đạt kêu lới rằng:
- Quân trên thành hãy vào báo với Ngụy chúa rằng: Tôn quân sư không định giết Bàng Quyên tại đây. Hỏi mượn đất như vậy là lập mưu gạt Bàng Anh ra thành đặng giết cho tuyệt giống như vong ân phụ nghĩa.
Nay Bàng Anh đã bị giết rồi. Tôn quân sư đem Bàng Quyên sang Mao Đâu Na hành hình. Vậy Ngụy chúa tới ngày hai mươi lăm tháng này phải có mặt tại đó đặng chứng kiến với các vua chưa hầu. Ngày đó nước nào thiếu mặt sẽ bị quân sư đem binh hỏi tội.
Quân sư kêu bèn đem các lời vào báo lại với Ngụy chúa. Ngụy chúa nghĩ rằng:
- Ngày ấy quả nhân còn mặt nào mà hội với các chư hầu. Âu là sai người có bệnh đi không được.
Bây giờ Tôn Tẩn lại viết hịch văn sai sứ đi tới sáu nước mời chư hầu nhóm hội xử tôi Bàng Quyên. Hịch văn như vầy:
"Tượng nghe: Kẻ nào khi dễ vua và cha mẹ, ắt bị chém đầu, mà bà con cũng có tội. Kẻ nào nói dối gạt người ắt bị mài rằng cắt lưỡi. Phép tắc đã rành rành như mặt trời chói chang, kẻ vô đạo đâu thoát khỏi ngoài vòng được. Tôi Tân Tẩn, tài hèn trí mọn, may được các vua cho dự binh quyền để dẹp rối thiên hạ.
Tới nay, vì thù chung của các nước phải đem binh ra chiến đấu với Bàng Quyên. Nó là đứa con trời hiếp dân, gạt vua quấy nước, vong ân bội nghĩa, không thể cùng chung sống với Tẩn này một trời. Vậy tôi đã hết sức đánh gạt mà bắt được rồi, định sẽ hành hình tại Mao Đậu Na, một là trừ hậu họa cho chư hầu, hai là trả thù chặt chân của tôi. Đến ngày hành hình là hai mươi lăm tháng này, các vua nên tựu đủ mặt để xem quả báo:
Làm dữ gặp dữ và mừng đã trừ cái tai nạn của sự hòa bình.
Ngày mười một tháng chín mùa thu năm thứ ba mươi hai, vua Oai vương nước Tề.
Sai sứ đi các nước rồi, Tôn Tẩn lại sai Tu Văn Long về nước Tề rước Tề vương. Lúc bây giờ, Tề Oai vương đã băng, con là Tuyên vương thế ngôi. Tu Văn Long về triều ra mắt Tuyên vương đem việc Tôn Tẩn bắt được Bàng Quyên định tới ngày hai mươi lăm thì hành chính... Mà tâu lại, rồi thỉnh Tuyên vương ra Mao Đậu Na chứng giám. Tuyên vương chuẩn tấu truyền quan nghi trượng sắp sửa xa giá tới hôm sau thì đi.
Tuyên vương ra tới Mao đậu Na, Lỗ vương và Tôn Tẩn hay tin bèn ra khỏi trại rất xa mà tiếp. Khi vào tới trung quân, phân ngôi thứ ngồi xong, Tuyên vương bèn phán rằng:
- Quả nhân nghe tin báo tiếp thì mừng rỡ biết bao nhiêu. Thiệt tiên sanh đã gánh chịu tủi nhục mới có được hôm nay.
Tôn Tẩn nói:
- Hạ thần mà trả được thù này đều nhờ ơn tiên vương và chúa công vậy.
Tuyên vương phán rằng:
- Đó là trời giúp tiên sinh chớ quả nhân có ơn gì? À, bây giờ giam Bàng Quyên ở đâu, hãy cho quả nhân xem mặt thằng khuấy nước hại dân, vô ơn bạc nghĩa đó coi ra sao?
Tôn Tẩn dạ dạ rồi truyền lệnh ba quân đem cũi nhốt Bàng Quyên ra trước quân tướng. Tề Tuyên vương trông thấy Bàng Quyên thì chỉ vào mặt mắng nhiếc thậm tệ, rồi dạy đem giam nơi khác chờ các nước hội đủ sẽ hành hình. Bây giờ Tề Tuyên Vương lại sai ngự trù dọn tiệc, rồi cùng Lỗ vương và Tôn Tẩn ăn uống.
Chẳng mấy ngày vua nước Tần, nước Sở, nước Triệu, nước Yên, nước Hàng đều tới hội, còn nước Ngụy thì có Châu Hợi đi thay mặt. Thấy đủ mặt các nước rồi, Tề Tuyên vương bèn truyền bày tiệc khoan đãi. Các nước đều tôn Tuyên vương là vua nước đàn anh xếp ngồi trên, rồi cùng nhau ăn uống chuyện vãn.
Tiệc rượu tới vài tuần, Tôn Tẩn bèn dạy quân sĩ đem Bàng Quyên ra trước mặt các vua, rồi đứng lên nói rằng:
- Tôi chẳng phải là người bất nhân bất nghĩa, song vì Bàng Quyên xưng hùng bội bạc với tôi, nên nay tôi phải sửa trị nó. Vậy tôi xin đứng trước đây kể lai lịch của nó cho các đại vương nghe.
Tôn Tẩn nói dứt liền đem việc mình với Bàng Quyên từ lúc gặp nhau giữa đường, thề nguyền kết bạn, tới lúc học với Quỷ Cốc bị gạt, rồi khi xuống Ngụy bị Bàng Quyên chặt chân và toan giết... Mà kể lại. Kể xong bèn nói tiếp rằng:
- Tôi với Bàng Quyên chỉ có cái thù chặt chân, vậy nay tôi xin chặt chân nó cho hả giận. Còn nó đối với các vua thế nào thì các vua hãy liệu mà xử.
Tôn Tẩn nói dứt, đôi dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Các vua đồng nói:
- Tôn tiên sinh xử như vậy là phải.
Tôn Tẩn liền dạy quân sĩ trói Bàng Quyên để nằm ngửa ra, rồi khiến khiêng cái áp đồng kẹp chân lại. Đoạn Tôn Tẩn ra lệnh quân sĩ ép xuống. Đánh rốt một tiếng, mười ngón chân Bàng Quyên đứt liền, máu ra lai láng. Bàng Quyên chết ngất đi rồi sống lại. Tôn Tẩn nói:
- Bảng Quyên ơi, nay mi bị chặt chân đau thế ấy. Thiệt lưới trời thưa mà không lọt phép trời rộng mà khó dung.
Người sau có thơ rằng:
Mi lìa Nghi Lương, ta cách Yên, Gặp nhau kết bạn, chợ Châu Tiên.
Theo thầy chung học lòng không nản, Giữ nghĩa cùng chơi dạ chẳng riêng.
Xuống Ngụy sớm quên lời thệ nguyện, Chặt chân đã buốc mối oan khiên.
Cơ trời báo ứng Mả Lăng đạo, Mao Đậu Na, nghiệt trả nhãn tiền.
Tôn Tẩn nói dứt, lui lại chỗ cũ mà ngồi, Lỗ vương Điền Kỵ bước tới chỉ mặt Bàng Quyên mà rằng:
- Ta với mi nào có thù áo chi mà lúc trước mi làm nhục cạo râu bôi phấn vào mặt ta. Nay ta cũng lấy cách ấy để trả thù cho mi biết nhục!
Nói rồi dạy quân sĩ cạo râu và bôi phấn vào mặt Bàng Quyên.
Rồi đó lại tới phiên Hàng chúa bước tới mắng Bàng Quyên rằng:
- Ơ Bàng tặc, Ngụy Dương công chúa là vợ ta, có cừu thù chi với mi, mà mi dám đặt điều nói xấu giữa Ngụy Triều để đến nỗi công chúa uất ức mà chết. Nay ta vì vợ ta mà trả thù đây!
Mắng dứt dạy tả hữu kéo lưỡi ra mà cắt một khúc.
Đoạn tới tướng nước Triệu là Liên Pha xách gươm tới chỉ vào mặt Bàng Quyên mà mắng rằng:
- Ớ thằng chọc trời khuấy nước kia! Con ta là Liên Cang gởi ải Bá Linh, mi ỷ mạnh buộc nó mở cửa cho mi đi qua một lần rồi, thế mà sao lại còn tới giết nó? Nay mi tới đây chính là ngày mi thường mạng cho con ta vậy!
Dứt lời Liêm Pha hươi gươm chặt đứt làm hai đoạn.
Xong việc trả thù Tôn Tẩn bèn dạy quân đao phủ phân thây Bàng Quyên chia cho bảy nước. Nước Tề đứng bực lớn lấy cái đầu. Tần lấy cánh tay trái. Sở lấy cánh tay mặt, Yên lấy thân dưới. Mỗi nước một phần đem về treo ngoài thành cho diều tha quạ đánh, nắng đốt mưa chan hai ngày để răn chúng. Còn bộ lòng của Bàng Quyên, thì Tôn Tẩn cậy Châu Hợi đem về cho Thoại Liên công chúa.
Phân thây Bàng Quyên vừa rồi, Tề Tuyên vương bèn hiệp với các vua phong cho Tôn Tẩn làm chức Thiên hạ tổn binh quân sư, cho đeo ấn vàng của bảy nước. Tôn Tẩn lãnh chức rồi nói với các vua rằng:
- Từ nay các ngài nên giữ lệ nẹp cống cho Tề vương. Nếu ai đổi lòng tôi sẽ hưng binh hỏi tội. Chừng ấy chớ trách tôi sao chẳng trọn lòng trung.
Các vua đều tỏ lời bằng long.
Sau khi tiệc tan, các vua từ Tuyên vương, Lỗ vương và Tôn Tẩn mà về nước.
Nói lại Châu Hợi đem bộ lòng và thân dưới của Bàng Quyên về Nghi Lương thành tâu rõ đầu đuôi việc hành hình tại Mao Đậu Na cho Ngụy chua nghe. Ngụy chúa nghe dứt than rằng:
- Tại Bàng Quyên lúc bình sinh hay thù oán, nên nay chết chẳng toàn thây! Thôi thi thể nó khanh hãy liệu lý giùm, rồi cho công chúa hay và an ủi chớ quá buồn mà hại thân!
Châu Hợi dạ dạ lui ra khỏi triều, qua phủ Phò mã mà báo tin buồn cho công chúa. Công chúa nghe tin chồng bị bảy nước phân thây, liền nhào xuống lầu mà chết. Có thơ chứng rằng:
Ai khéo xuôi chi rẽ phụng loan Nghe tin chi xiết nỗi kinh hoàng Nơi cồn Mao Đậu chàng tan xác Thiếp phải mau theo xuống suối vàng.
Tề vương về triều, dạy quân đem đầu Bàng Quyên ra theo ở cửa thành rồi truyền quan đại phu Quan Lộc mở tiệc lớn cho chúa tôi cũng ăn uống khánh công. Giữa lúc ăn uống, vua hạ chỉ tha các tù phạm và miễn thuế cho dân ba năm. Bữa tiệc hôm ấy chúa tôi ăn uống rất vui vẻ.
Bây giờ, công đã thành, danh đã toại, thù đã trả. Tôn Tẩn muốn học gương triết nhân, nên định từ tạ Tề vương đem vợ con về Yên thăm cha mẹ, anh em, rồi vào núi ẩn thân tu niệm. Ý đã định một buổi chầu nọ, Tôn Tẩn bèn dâng sớ xin giải chức. Tuyên vương cầm lại đôi ba lần không được bèn phong cho hòn núi Thạch Nhàn để dùng làm chỗ tu niệm. Tôn Tẩn bái tạ, rồi từ giã lui về phủ. Ít hôm Tôn Tẩn từ biệt, đem vợ con về Yên thăm cha mẹ anh em rồi vào ở trong núi Thạch Nhàn, ở hơn một năm thì mất ám dạng. Người đương thời nghĩ rằng: "Tôn Tẩn đã theo thầy Quỹ Cốc về tu luyện ở núi Vân Mộng rồi".
Người sau có thơ khen rằng:
Ba năm học phép núi Vân Mộng.
Một lúc đem ra giúp vạc Tề.
Công toại danh thành, lòng chẳng động Về non tu luyện, lánh nơi mê.
Hết