Chương 27
CHUYỆN CÁC BÀ VỢ VUA KHẢI ĐỊNH
Vua Khải Định là Hoàng trưởng tử của vua Đồng Khánh-3.Khải Định là một trong hai vị vua mang tiếng “bất lực”,nghĩa là kém khả năng trong tình dục, ân ái.
Suốt 10 năm làm vua -9,ông đã nuôi Nguyễn Đắc Vọng làm thị vệ.Ban đêm ông ôm Vọng mà ngủ.Nhờ sự khéo léo trong việc phục tùng này mà ông Vọng đã được thăng tiến đến Ngũ đẳng thị vệ. Những buổi sáng phải ra điện Cần Chánh thiết triều,các bà đứng hai hàng bái kiến đón chào, ông liền dùng tay ôm gọn hai vạt áo bào sát vào người để khỏi vương vào “đàn bà”…
Nhiều người biết Khải Định bất lực, chính vua cũng nhận điều đó.Thế nhưng các quan đại thần thì vẫn muốn “tiến” cung con gái mình vào làm vợ vua. Khó lòng chối từ,vua thường nói với các quan”
- Nội cung của Trẫm là một cái chùa (ý nói không có chuyện ái ân tình dục),ai muốn tu thì cứ vào!
Do đó,dù Khải Định không gần gũi đàn bà, ông vẫn có đủ tam cung lục viện như các vua tiền triều.
Trong số đông đảo các bà vợ vua Khải Định,được nhắc đến nhiều nhất là Đệ nhất Giai phi họ Trương,bà Ân phi Hồ Thị Chỉ và bà Huệ phi Hoàng Thị Cúc (tức bà Từ Cung).
Ba bà được tiến cung trong ba trường hợp khác nhau.
Bà họ Trương là ái nữ quan đại thần Trương Như Cương được cưới làm phủ thiếp khi vua Khải Định còn là ông Hoàng Phụng Hoá Công ở Tiềm đế (sau xây thành cung An Định). Lúc đó ”ngài” Phụng Hoá Công còn hàm vĩ nhưng lại ham chơi cờ bạc thâu đêm suốt sáng. Cứ mỗi lần thua bạc là một lần bắt bà vợ họ Trương về xin tiền cha mẹ để “ngài” gỡ… Vì thương con gái, ông bà Trương Như phải bấm bụng chiều theo, thoả mãn mọi yêu sách của chàng rể vương tôn.Thấy thế Phụng Hoá Công đinh ninh của cải nhà nhạc gia là vô tận nên càng cờ bạc ăn chơi đã đời…Thật ra thì tuy gia đình họ Trương đại thần giàu có nhưng chưa phải là muốn mấy cũng có. Ông Trương xuất thân từ làng thợ rèn Hiền Lương,một làng lao động có nề nếp,cho nên dù làm quan đến tột đỉnh danh vọng,ông vẫn giữ phong cách giản dị,cần kiệm của người cha là người lao động.Cứ kéo dài cảnh ném tiền qua cửa sổ như thế này,các cụ không chịu nổi.Nhiều lần bà phủ thiếp Phụng Hoá Công đã bị cha mẹ quở trách nặng nề…
Thế rồi…một hôm (vào khoảng năm 1915) Phụng Hoá Công nảy ý định mở một chén bạc lớn để thử thời vận.Khi thấy Công hô lớn,nhưng trên chiếu đã sạch tiền,các con bạc chận tay Công lại,đòi phải trưng đủ tiền chung mới được mở chén.Thâm tâm Công đã muốn mở liều,không ngờ bị lật tẩy…Một phần vì muốn ăn to, phần vì sợ mất mặt, Phụng Hoá Công liền bảo vợ về nhà xin tiền…Bà phủ thiếp họ Trương đau đớn vì thấy đức ông chồng đã bất lực mà chẳng còn biết liêm sỉ,bà dùng dằng không muốn đi…Công nổi nóng la lối om sòm,doạ sẽ có thái độ với bà.Cuối cùng bà đã đi và đó cũng là lần cuối cùng bà về nhà xin tiền cha mẹ cho chồng cờ bạc…
Ngán ngẩm sự đời,bà họ Trương quyết định dứt áo ra đi,giã từ cuộc đời làm phù thiếp.Bà lập một cảnh chùa tại độn Sầm,làng Thanh Thuỷ, huyện Hương Thuỷ(cách kinh thành Huế chừng 3km về phía Nam)để tu thiền,lấy pháp hiệu là Đạm Thanh,biệt hiệu là Tuyết Nhan.
Năm 1916,vua Duy Tân khởi nghĩa chống thực dân Pháp thất bại,vua bị đầy sang đảo Réunion(thuộc châu Phi),người Pháp chọn Phụng Hoá Công đưa lên kế vị lấy niên hiệu là Khải Định.
Nhớ chút nghĩa xưa,Khải Định phái người lên chùa rước bà về làm Đệ Nhất Giai Phi.Bà từ chối.Để tỏ rõ chân tâm của mình với cố nhân,Khải Đinh vẫn dành chức Đệ Nhất Gia Phi(hay hoàng quí phi) cho bà họ Trương,dù đã dứt tình… Người vợ chính thức do triều đình cưới vua Khải Định chỉ phong bậc Đệ Nhị Giai Phi…
Vua Khải Định vừa yên vị,đại thần Hồ Đắc Trung đã “tiến” ngay vào Nội một người con gái.Bà họ Hồ tên là Chỉ đã từng được thân sinh gả cho vua Duy Tân,nhưng vua Duy Tân không nhận.Cụ Hồ Đắc Trung có tiếng là người đã bênh vực vua Duy Tân trong cuộc khởi nghĩa không thành năm 1916,nay sợ Khải Định,người đối lập với Duy Tân nghi ngờ,nên cụ tìm cách tạo mối liên kết tình cảm để vua tôi hiểu biết nhau,bằng việc tiến cung con gái mình.
Là con quan đại thần,được Triều đình cưới hỏi đúng nghi lễ,bà Hồ Thị Chỉ được phong chức rất cao nhưng cũng vẫn ở vào bậc Ân Phi (Đệ Nhị Giai Phi)
Tước cao, chức trọng, danh nghĩa là vợ chính ở với vua Khải Định, nhưng thực chất bà chẳng được tí gì về ái ân chăn gối với ông vua “bất lực”. Bà phải chấp nhận cảnh đóng kịch làm vợ vua như thế để được hưởng phú quí danh vọng, với ý nghĩ mình sẽ là mẹ đích thực của hoàng tử Vĩnh Thuỵ, vì bà Từ Cung tuy là mẹ sinh, nhưng là con nhà bình dân, lại không được cưới hỏi theo nghi lễ triều đình … Có lẽ đọc được ý nghĩ đó nơi bà Ân phi mà ngày vua Khải Định mất (1925) đáng lẽ ông phải trăng trối trao rương hòm,chìa khoá lại cho bà, thì Khải Định đã truyền trao cho bà Từ Cung với lời di ngôn vắn tắt : “tử quý, mẫu vinh” (ý nói Vĩnh Thuỵ được quý trọng thì bà Từ Cung được vinh hiển). Việc làm này làm cho Ân phi họ Hồ tức giận muốn phát điên.
Và sau đó … bà đã điên thật. Cuối cùng bà đã chết già trong một tu viện Thiên chúa giáo.
Bà vợ thứ ba là Huệ phi Hoàng Thị Cúc sinh ra Vĩnh Thuỵ, lên ngôi lấy niên hiệu là Bảo Đại, bà Từ Cung được vinh danh là Đoan Huy Hoàng thái hậu…
LẤY CHÚ LÀM CON
Vua Đồng Khánh sinh được sáu trai và hai gái nhưng chỉ nuôi được một trai là Bửu Đảo và hai gái là công chúa Ngọc Lâm và công chúa Ngọc Sơn.Gia đình vua Đồng Khánh với bà Thánh Cung(con đại thần Nguyễn Hữu Độ) và bà Tiên Cung(họ Dương,mẹ đẻ Bửu Đảo sau này là vua Khải Định) hằng hy vọng những gì vua Đồng Khánh đã vun đắp được trong thời gian ở ngai vàng -3.
Khi Bửu Đảo đến cuối thập phủ thiếp, hai bà vui mừng đi cưới con quan đại thần Trương Như Cương cho con trai mình ngay. Cuộc hôn nhân này thật tuyệt vời: làm rể họ Trương vừa có thế lực vừa được của cải, biết đâu ”trời đất đoái hoài” Bửu Đảo được chọn làm vua,nào ngờ vợ chông Bửu Đảo ăn ở với nhau không có hạnh phúc.Ngày đêm Bửu Đảo chỉ ham thích đánh bạc không ngó ngàng đến bà vợ mới cưới,khi vợ chồng gặp nhau, Bửu Đảo chỉ bàn có một việc là làm sao xin gia đình họ Trương cho thật nhiều tiền. Vợ Bửu Đảo rất buồn,nhiều lần phải khóc lóc với cha mẹ mới xin được đủ tiền cho chồng tiêu xài.
Lúc đầu,gia đình họ Trương còn giữ uy tính cho ông Hoàng Phụng Hoá Công (tước của Bửu Đảo lúc còn Tiền đế) nhưng về sau Bửu Đảo cứ ép vợ về lấy tiền hoài,Trương gia rất bất bình đã nhiếc chàng rể là “đồ bất lực vô hậu”.
Biết chuyện con trai duy nhất của mình “không có hậu” hai bà Thánh Cung và Tiên cung buồn bã thất vọng não nề. Suốt ngày than thở cùng nhau về hậu vận. Và cứ thế, nỗi lo lắng chồng chất làm cho đêm mất ngủ, ngày biếng ăn…sức vóc của hai bà ngày càng sa sút tiều tuỵ… Tuy ham mê cờ bạc nhưng Bửu Đảo là đứa con có hiếu, thấy hai mẹ mình đau buồn như thế ông cũng phát lo.
Ông đem chuyện tâm sự với một người trong hoàng tộc thuộc bậc ông,nhưng tuổi tác lại đồng trang với cháu.Vị hoàng thân đó là cụ Hường Đ. Trong nhiều năm lui tới trà,rượu,bạc bài với cháu là Bửu Đảo ở Tiềm Đế,cụ Hường Đ. Đã được cháu gọ bằng ông ấy giúp đỡ những lúc thiếu thốn.Do đó,lần này,nhân được Bửu Đảo muốn san sẻ một phần khó khăn của mình,cụ Hường Đ. đã ra tay giúp cháu…
Bửu Đảo đã rất vui mừng khi nghe cụ Hường Đ dựng lên câu chuyện sau đây:
“Phụng Hoá Công vốn là người bất lực. Nhưng một hôm, Công bắn được một con chồn hương, người nhà đã hầm con chồn hương vói sâm, nhung và nhiều vị thuốc bổ dương khác. Buổi tối, Công uống rượu và ăn món hầm đại bổ ấy… liền cảm thấy hửng khởi và nổi cơn “đòi phụ nữ”… Cái phút thần hạnh phúc ấy đến đột ngột,sợ nó” tan biến đi nên sẵn có cô Hoàng Thị Cúc đang ở trong nhà, Công liền gọi đến “dùng” và may mắn sao cô Cúc đã thọ thai!
Tin cô Cúc có thai với Bửu Đảo đến tai bà Tiên Cung và bà Thánh Cung và những thân thích trong gia đình Phụng Hoá xem như một phép lạ.
Để xác minh thực hư,các bà đã sai đào một cái hố (sâu khoảng hai tấc) bảo cô Cúc nằm sấp,để cái bụng có mang nằm lọt dưới hố, rồi dùng roi đánh tra hỏi cô Cúc đã lấy ai mà dám vu chu Phụng Hoá Công. Cô Cúc cắn răng chịu đựng hình phạt và chỉ đinh ninh một lời khai là đích thị có mang với Bửu Đảo. Thế là các bà mừng rỡ công bố cho hoàng tộc biết Phụng Hoá Công sắp có con.
Và lúc ấy, trong hoàng tộc dù tin hay ngờ đều phải công nhận như thế.
Sự thật,theo ông Phan Văn Dật và ông Ngũ đẳng thị vệ Nguyễn Đắc Vọng thì không có chuyện Bửu Đảo “dùng” cô Cúc và may mắn cô Cúc có thai. Cô Cúc đã mang thai với chính Hường Đ.từ trước. Được Hường Đ. nhường cho một bào thai, Bửu Đảo rất hàm ân người ông. Để đền ơn,Bửu Đảo đã giúp đỡ rất nhiều (về quan tước cũng như vật chất tiền bạc).
Do có sự giúp đỡ của anh Bửu Dương,chúng tôi được đọc 17 cuốn vở gồm 1700 trang viết tay của thầy Ưng Đồng (con trai cụ Hường Đ.)viết về lịch sử gia đình và họ hàng nhà mình.
Qua tập di cảo đồ sộ ấy,chúng tôi đã lọc ra được một số chi tiết có liên quan đến sự việc thân sinh của Vĩnh Thuỵ sau là “hoàng đế Bảo Đại” là con cụ Hường Đ.
Trong khi đi dự họp Nguyễn Phước Tộc ở Phú Tân thày Ưng Đồng thường hay được chào là “Ông giáo sư em của Cựu hoàng”,lời chào này hàm ý thầy Ưng Đồng với Bảo Đại là anh em cùng cha.Thày Ưng Đồng cho biết: ”Khoảng năm 1972 thân phụ ta và hoàng tử Bửu Đảo là đôi bạn thân ăn một mâm nằm một chiếu”.
Ngày 22-10-1913 Vĩnh Thuỵ ra đời thì một tháng rưỡi sau -1908Ưng Linh, con chính thức cụ Hường Đ. cũng ra đời. Hai cậu bé này lớn lên đều to béo khoẻ mạnh giống nhau, ảnh của hai người đặt cạnh nhau thấy giống như anh em ruột.
Thày Ưng Đồng còn cho biết thêm: ”Bà ngoại ta thường vào cung Diên Thọ chào thỉnh an đức Từ Cung.Đức Từ Cung gọi bà ngoại ta (tức là mẹ vợ cụ Hường Đ.) bằng “dì” dù bà ngoại ta không có họ hàng thân ruột gì với đúc Từ Cung”.
Bà Từ Cung nhiều lần dặn mẹ cụ Hường Đ.”khi nào Hoàng đế hồi loan,dì cho thằng Đồng vào đây ở đế nó được nhờ” (Phải chăng bà Từ Cung hàm ý cho Ưng Đồng vào Nội để hưởng lộc của anh?!).
Đoạn tư liệu trực tiếp nhất là: vào khoảng năm 1934, trong một lần vào Đại Nội tham viếng hoàng đế Bảo Đại, ông Hường Đ, đã bị mật thám Pháp ngăn trở. Về nhà ôm đầu bực tức,ông “quở” rằng: ”Đồ chó má! Tau là cha vua mà tụi nó chẳng nể nang chi”.
Nếu quả thật như dư luận (được thày Phan Văn Dật thuật lại) và như đã ghi một cách khá rõ trong tài liệu của gia đình cụ Hường Đ.,thì vua Khải Định đã nhận chú làm con (1)
(Theo lời kể của Phan Văn Dật căn cứ di cảo của Ưng Đồng,tài liệu của R.Orband và của Nguyễn Đắc Vọng,Ngũ đẳng thị vệ triều Khải Định)
(1) Trong bài Đế hệ vua Minh Mạng đã chọn sẵn chữ lót để phân biệt đẳng hệ cho 20 đời con cháu mình như sau:Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quí Định Long Trường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thoại Quốc Gia Xương.Theo phổ hệ trên,Bửu Đảo phải gọi con cụ Hường Đ. bằng chú nhưng Bửu Đảo được cụ Hường cho một đứa con(dù còn phôi thai trong cô Hoàng Thị Cúc) thế có nghĩa là Bửu Đảo đã nhận một người chú làm con mình…