Bồng Nga, như chiếc bóng lẻ loi buồn, thẩn thơ trên dấu vết lâu đài của tổ phụ… Mỗi viên gạch nát, mỗi phiến đá long đối với chàng, là một mảnh đời dĩ vãng tan tành. Ngậm ngùi, chàng nhìn lớp cổ thụ đồng thời với các tiên vương hào hoa phong nhã, những voi ngựa đá rêu phong, những tháp cao nghiêng lệch, ủ e như bọn người già cả, yếu đau. Qua sân rộng vắng tanh, lau chờm cỏ mọc, chàng bước lên thềm điện chính, tìm những ảnh tượng thân yêu trong khoảng mái long, tường sập, sau vẻ son nhạt vàng phai. Mối cảm hoài nung nấu lòng chàng như lửa cháy ngầm trong đống trấu. Chàng ngồi xuống một đoạn cột đá to, khuỷu tay chống gối, bàn tay đỡ cằm, tia mắt xa xôi mơ mộng… Không khí quanh mình chàng nặng nề cái cảm giác chết, cái chết âm thầm dưới những nụ cười hoa muộn, nắng thu. Một tiếng rẵng hắng sau lưng; Bồng Nga quay lại… Nam Trân – vì chính nàng – giơ tay trỏ vòng quanh trước mặt, đoạn hỏi Bồng Nga: - Lớp tuồng thành bại phải chăng đã làm nát ruột anh hùng? - Vâng, buồn lắm thực! Cảnh này, ai dám bảo là di tích một kinh thành lớn lao, thủ phủ một quốc gia hùng mạnh? Ai dám ngờ rằng, đã một thời, một dân tộc đô hội sống hở đây? Những bức tường xiêu đổ, năm tháng gặm hầu mòn, đã ủ ấp, che đậy bao vẻ sa hoa tráng lệ, đã chứng kiến bao sự đắc ý kiêu căng, đã lắng nghe bao tiếng cười ròn chen lẫn cung dờn giọng hát! Những gạch đá bộn bề nọ trước kia là lầu các thâm nghiêm. Những cây bùm tum đã che mát cho bao nhiêu sắc nước hương trời… Mà nay, cả một đế kinh, chỉ còn trơ lại thế thôi, cả một nền uy vọng hiển hách chỉ còn lưu được một chút ghi nhớ lờ mờ…. Ðiện chúa, cung vua làm nơi hò hẹn của thằn lằn, các kẹ! Nam Trân nhìn Bồng Nga một cách ý tứ: - Bọn ta là người thường, đối cảnh hoang tàn, còn có những ý nghĩ man mác như vậy. Chẳng rõ những bậc hoàng thân quốc thích Chiêm Thành, mỗi khi tới đây, tấm lòng bi kim tích cổ nung nấu biết chừng nào? - Tiểu thư nói rất phải! Với các bậc ấy, cảnh này có thể gọi là cái mả lớn chôn vùi hy vọng… - Lại như ông hoàng vong quốc Chế Bồng Nga, nếu đứng vào địa vị hiệp khách lúc này, người sẽ cảm tưởng ra sao? Bồng Nga, làm bộ điềm nhiên hỏi: - Tiểu thư có biết hoàng tử Chế Bồng Nga? - Không, tôi không được biết người, nhưng nghe nói đến người nhiều lắm. - Ý kiến tiểu thư đối với ông hoàng xấu số ấy ra sao? Cúi đầu, Nam Trân nín lặng. Dưới nắng thu, sắc mặt nàng phơn phớt vẻ hoa đào… - Hiệp khách hãy cùng tôi thử vào trong cấm điện này xem… Nói đoạn, Nam Trân thướt tha lên trước, Bồng Nga đủng đỉnh theo sau.. Mỗi bước chân giày xéo lớp tro tàn là một mối thương đau cho người tuổi trẻ. Khi tới thâm cung, nơi mẫu hậu chàng tử tiết, mười lăm năm về trước, Bồng Nga đành chịu, không ngăn nổi thương tâm. Nam Trân nhìn lại… bốn mắt gặp nhau… yên lặng. Trên ngọn tường rêu , đôi chim gâu cất tiếng khúc ái ân đột ngột giữa vùng hiu quạnh. Nam Trân, gượng một nụ cười, hỏi riễu: - Tôi tưởng anh hùng không nước mắt? - Tiểu thư bỏ lỗi, tiểu thư nghĩ vậy là lầm, anh hùng nào phải giống vô tình. - À ra thế! Nhưng này, người anh hùng, người có nhớ tôi là ai chăng? Bồng Nga khảng khái: - Có, tôi nhớ lắm! Tôi nhó tiểu thư là con gái Ðỗ tướng công, một thù nhân của nước tôi. Dầu vậy, dầu tiểu thư với tôi là hai kẻ địch, nhưng mối sầu chánh đáng của người lưu li, vong quốc này tưởng chẳng khi nào để cho một vị giai nhân có lượng như tiểu thư phải mếch lòng…. - Không những tôi không thù ghét mà, trái lại, tôi còn muốn giúp đỡ người tránh khỏi những sự nguy hiểm nó chờ người ở đây. - Tiểu thư nói gì, tôi không hiểu… - Người chóo giấu tôi. Ta đối với nhau cần chi phải dùng nhữngmánh khoé tầm thường. Vả, người giấu cũng không kịp nữa. Bài hát kia đủ cho tôi biết rõ lý lịch của người rồi. - Thưa tiểu thư, đó chỉ là một bài hát…. - Phải, chỉ là một bài hát, tôi có cãi đâu, nhưng là bài trường hận của người, của hoàng tử Chế Bồng Nga. Chàng ngạc nhiên, kinh hãi. Nam Trân ôn tồn: - Hoàng tử ơi, xin chớ bận lòng. Tôi chưa rõ tung tích của người mà rằng, một khi tôi đã biết, người có thể tin ở sự tận tâm của tôi. Bồng Nga cảm động: - Tiểu thư sẵn lòng thương xót kẻ bất hạnh này đến thế ru? - Tôi không dám ngạo mạn thế. Nhưng, thực tình, tôi không muốn để cho hoàng tử phải lâm bước khốn cùng… Nắm lấy tay Nam Trân, Bồng Nga thổn thức: - Nam Trân! Những lời nàng vừa nói đó khiến tôi nhẹ hẳn nỗi lòng. Nam Trân hãy lắng nghe chim hót, hãy nhìn cảnh rực rỡ dưới nắng thu, hãy trông mặt trời tà lấp loáng bên kia rặng cổ tùng… Trên đường luân lạc, tôi chưa từng dám ước mong có một buổi chiều, trong khung cảnh này, được gần một người nhu Nam Trân… Nước đại nam nêú là thù địch của tôi, vì đã sinh ra Nam Trân, một nàng tiên rất an ủi, rất nhân từ… Nam Trân nghe những lời nói ấy như nghe một khúc đờn. Ái tình thấm thía tim nàng như những giọt sương tưới bông hoa phơi dưới nắng chiều. - Hoàng tử ơi, người có thể cho tôi biết rằng từ sau khi lìa bỏ quê hương, người đã phiêu lưu những chốn nào chăng? - Phong trần lắm rồi, nàng ạ. Phàm chốn nào tấm thân phóng trục có thể ẩn núp lần hồi được, tôi đều qua cả. Tháng ngày tha mối hận trường lênh đênh thêm một bước đường một đau! Nam Trân ngậm ngùi. Nàng cảm thấy một sự thương xót vô cùng. Nàng chỉ muốn bảo chàng: “Ðồng bào em đã khiến chàng vong gia thất thổ, em xin đem cuộc đời em bù lại cho chàng những nỗi thiệt thòi. Từ nay, trên đường mai sau, chàng sẽ không phải như chiếc nhạn lạc đàn; em sẽ theo chàng, sẽ cùng chàng ca khúc ái ân để quên hết nỗi nhọc nhằn, mưa nắng. Chàng vui đi…” Hai người im lặng trong khung cảnh rực rỡ buồn. Hai trái tim, xa hẳn sự cạnh tranh, sự thù oán, thổn thức vì những cảm tình cao thượng sâu xa. Mặt trời lặn. Giải núi tây, như con rồng biếc vẫy vùng trong đám lửa hào quang. Những cánh rừng xa thăm thẳm mờ mịt sương chiều. trên mặt đồng phẳng lặng, tuyệt mù không một bóng vang; có chăng từng quãng lâu lâu, một trận gió đưa, ngàn lau rào rạt như lũ oan hồn than tiếc một ngày sáng sủa đã tàn. Bồng Nga thốt hỏi Nam Trân: - Thời khắc này chẳng biết rồi ra còn lại thấy chăng? Hay, rút cục, chỉ là một giấc chiêm bao… - Dù chỉ là một giấc chiêm bao, tôi tưởng cũng đủ lắm rồi! Bồng Nga thở dài. Nam Trân tiếp: - Hoàng tử lại không biết đó sao? Hai chúng ta chẳng qua là hai mối đau khổ do sự thù oán của hai dân tộc gây nên. Bồng Nga nhìn nàng, hai gương mặt cùng thiểu não… …Bóng đêm trộn lẫn cả vật sắc chung quanh. Mặt trăng nhẹ nhàng lên cao, toả ánh mờ xanh xuống những tường trơ, cột gẫy. Con chim từ quy bắt đầu ráo rác gọi đàn… Nam Trân nói: - Hoàng tử ơi, hai ta nên ra khỏi nơi này. Số phận của đời Nam Trân, từ đây, thế là quyết định. Trái tim như thắt lại, Bồng Nga sẽ ép Nam Trân vào lòng hỏi: - Nam Trân không thể là vợ tôi? Nàng ngậm ngùi: - Nhưng, chàng có thể là người dân của nước Ðại Nam chăng? Nói dứt câu, nàng bỗng vùng chạy ra sân cỏ rậm, tháo cương ngựa, nhảy lên yên, xuống núi. Trơ lại với muôn nghìn cảm giác, chàng ngơ ngẩn trông theo… Dưới ánh trăng, bóng Nam Trân mỗi lúc một mờ, xa…
Ra khỏi nơi tàn phá đã xa rồi, Bồng Nga vẫn thấy trái tim rung động. Chàng như còn trông rõ cặp mắt của Nam Trân, cặp mắt trong sáng, tinh đời lại chan chứa mơ màng, thương xót. Tai chàng còn văng vẳng giọng nói du dương, nâng giấc và an ủi của thiếu nữ nhân từ . Bao nhiêu niềm đau, nỗi khổ trong lòng chàng, lúc ấy, tan đi như âm khí chốn hang sâu hé chút ánh dương. Những sự thù oán cũng dịu dần. Sau cái hình ảnh Nam Trân êm đềm, mỹ lệ, dân Ðại Nam không phải là một cừu địch tham tàn, hung ác nữa, chỉ là một dân kiêu dũng đã phạm vào sự tự do của người Chiêm Thành, đã làm mất cái quyền thiên liêng tuyệt đối của dân chàng, mà nay, chàng cần phải đời lại cho kỳ được, thế thôi. Việc khu trục dân Nam ra ngoài bờ cõi Chiêm Thành cũng chỉ còn là việc gây dựng lại sư thăng bằng giữa hai quốc gia hùng mạnh. Quan niệm của Bồng Nga đã thay đổi và lên cao được một tầng thì tâm linh chàng cũng theo đó mà bình tĩnh sáng suốt hơn. Con đường chàng đi cứ chạy thẳng băng trước mặt, giãi ánh trăng trong. Giữa đêm trường yên tĩnh, chim từ qui ra rả, ve cuối mùa nỉ non, gió thoảng ngàn cây, run kêu nội cỏ, vạn vật như thiết tha cầu khẩn chút tình yêu… Tâm hồn chàng là một bài thơ ân ái, thiên nhiên cũng là một bài thơ ân ái, hai bên cùng hoà theo một điệu say sưa… Bồng Nga đi dưới ánh trăng, yên lặng cho linh hồn cảm thông với sự vật. Trong đời chàng, có lẽ Bồng Nga được biết lần này là một cái hạnh phúc tuyệt vời. Nhưng, chàng bỗng giật mình… Một người từ bụi rậm bên lề đường nhảy ra, gọi: - Hoàng tử hãy thong thả! Người lạ gọi bằng tiếng Chiêm Thành, có vẻ khác thường bí mật. Bồng Nga dừng bước, một tay nắm sẵn lấy chuôi gươm. Phục xuống lạy xong, người lạ mặt hỏi chàng: - Ðức ông quên tiện tốt rồi chăng? - Không, nhưng hình như ta đã gặp nhau ở đâu một lần thì phải… - Bẩm hai lần. - Ðâu nhỉ? - Lần thứ nhất, cách đây mười lăm năm, khi hoàng tử xuất bôn lánh nạn, chính tiện tốt đã theo hầu bên ngựa khỏi ngoài mưòi dặm tràng đình… Bồng Nga cau lông mày, thờ dài: - Ta nhớ rồi, thế còn lần sau? - Lần sau, khi đức ông sai thượng tướng Bố Gia Luân từ làng Bản về đây chiêu mộ dũng sĩ, tiện tốt được theo hầu Bố tướng quân. - À phải!… Nhưng, sao ít lâu nay ta không được tin tức gì về Bố Gia Luân cả? - Thượng tướng Gia Luân đã chiêu mộ được hơn một vạn người, cho tản ra các miền quanh đây phá hoang cấy lúa. Hiện nay lương thảo sẵn, voi ngựa đủ, lại có mẹ tên Dương Nhật Lễ tự Thăng Long vào báo tin nội biến của triều đình nước Nam, chủ súy con, cho là cơ hội đã đến, vội sai con về Bản rước xa giá chúa công. - Vậy, cớ sao ngươi đón ta chỗ này? - Về đến làn Bản, tiện tốt nghe nói Ðức ông đi chiêm ngưỡng cố kinh nên vội trở lại đây. Lúc chiều, tiện tốt đã gặp Ðức ông qua con đường này… - Bố Gia Luânb hiện ở đâu? - Xin Ðức ông theo con. - Nào đi? Hai người lần vào dưới bóng cây to, viên tì tướng đi trước dẫn đường vì Bồng Nga không thuộc lối. Hai người đi như thế một lúc lâu thì đến một con suối chảy thầm kín giữa rừng. Một cái mảng nứa buộc sẵn bên gốc cơi to. Vua tôi đều xuống rồi, chỉ ba mái khoát, mảng đã sang bờ bên kia. Một con đường mạch chạy men theo bờ suối, thẳng vào rừng. Tới nơi, hai người dừng lại, vì từ nãy đã hết sức đi nhanh, không kịp thở, không kịp cùng nhau nói một câu nào. Bồng Nga hỏi: - Gần tới chưa? - Bẩm đã. - Sao không vào ngay? - Vì ở gốc xồi kia còn một tên lính chờ sẵn để báo tin… viên tì tướng chưa dứt lời, quả nhiên một cái bóng đên đã chạy đến bẫm: - Xin ngài cứ tiến. Tì tướng hỏi: - Không trở ngại gì chứ? - Bẩm không. Cả ba vua tôi lại đi… Chỗ này cây cối rậm rạp, Bồng Nga nhìn chung quanh chỉ thấy là một cảnh hỗn độn mịt mù. Chàng luôn luôn vấp phải những vật đen trùi trũi, những cành khô, cây đổ, mắt nhìn lẫn với bóng đêm dầy. Cũng có khi giẫm ph3i hòn đá rêu trơn, Bồng Nga trượt ngã, vùng dậy rồi lại đi ngay, đi liều giũua cảnh vô cùng hắc ám. Ngực chàng lúc ấy thở mạnh, bao nhiêu gân thịt đều hoạt động, bao nhiêu năng lực phấn đấu xung lên, chàng tưỏng như trên đời không còn trở lực gì ngăn nổi sức tiến thủ của chàng. Qua khỏi rừng, qua khỏi con đường hươu chạy,k lởm chởm gập ghềnh dưới bóng tối nặng nề u uất, ba người nhô ra mặt bãi cỏ tranh. Hơi thở đẵ dễ, tầm mắt đã rộng, ánh trăng sao đã trả lại cái cảm giác thư thái của tâm hồn. Nhưng, tiếng chó sủa dữ dội, văng vẳng từ xa, bỗng khiến chang cùng hai tên lính nín hơi. Một khắc dài, mấy thầy trò không nói, không động, lắng tai nghe. Sự chuyên chú ấy say sưa lạ, nó nhắc lại những cảm giác của ngưòi ta khi còn lạc lõng trong những rừng hoang rậm cổ thời…. Tiếng chó im, sự đìu hiu lại bát ngát, ba thầy trò lại hăng hái vượt đường. Ði một quãng xa, tên lính mới dừng chân, hú lên một tiếng. Một bóng đen khác nhảy ra. Mấy tiếng xì xào, đám đông, chừng đã mười phẫn vững dạ, tiến thực nhanh. Con đường lên dốc, quằn quại dưới trăng mờ… Tới đỉnh cao, bốn ngưòi đứng đợi. An, hiện dưới ánh trăng lấp ló sau những giải mây đen, cảnh vật lạnh lùng thảm đạm. Ðó đây, một vài gốc thông gày guộc xoã đầu rên rỉ. Xa xa, mấy khóm cây lẩn trong sương lạnh như đàn ma quái chực gieo nỗi sợ hãi cho kẻ yếu linh hồn. Những con rơi rơi to lớn nặng nề bay thấp thoáng như những ý nghĩ tối tăm hiện ra rồi biến mất. Viên tì tướng để hai ngón tay lên miệng thổi rít ba tiếng đều nhau, ba tiếng gọi lạ lùng… Tức thời, trong rừng sâu, nổi lên một tiếng rì rầm như sóng biển. Cả một dân tộc đứng dậy, hăm hở phục thù. Họ vậy lấy chân đồi trong khi Bố Gia Luân hấp tấp chạy lên ra mắt hoàng tử Chế Bồng Nga. Quân sĩ vẫn im lặng. Gia Luân, chào vua xong, quay lại, giõng giạc bảo mọi người: - Hỡi binh sĩ! Từ khi vua ta, đức vua nhân từ, minh ch ính, phải Trần Anh Tôn lập mưu lừa bắt, chúng ta thành một bọn yếu hèn vô chủ mà non nước Chiêm Thành trở nên đất phiên thuộc của Nam Man. Ở vào cảnh ngộ ấy, ai có chút nhân tính mà chẳng đau lòng? “Các ngươi thử ngẫm xem, chúng ta sinh gặp lúc nhiễu nhương, non sông tan nát, ngụy tặc hoành hành, thân tự do biến ra đời nô lệ, kiếp sống thừa còn đâu hy vọng ở mai sau. “Ta đây, phụng mệnh đức trừ quân, chiêu mộ dũng sĩ, mong gây dựng lại cơ đồ cũ, tạo lại cuộc thái bình hạnh phúc năm xưa, may được các người sẵn lòng khẳng khái, ta xiết bao cảm độnbg. Nhưng nuôi quân ba năm để dùng trong một ngày, các ngươi bấy lâu chắc cũng ngứa gan, muốn cùng ngoại tặc so tài cao thấp, hòng phơi mặt anh hùng dưới đôi vầng Nhật Nguyệt. Cái ngày mong đợi ấy nay đã tới. Cái ngày ta rửa nhục ấy tới nơi rồi. Triều đình nước Nam hiện đang nội biến, cơ hội trời cho ta không nên phí mà rồi ân hận mai sau. “Chúng ta gắng lên, mạnh mẽ lên, lấy gươm sắc chém ta quốc hận, rỏ máu đào rửa sạch nhục nghìn đời.” Sĩ tốt nức lòng, tiếng hoan hô vang động cả khu rừng. Chờ sự kích thích qua, Bố Gia Luân lại nói: - Hỡi binh sĩ! Quân mà không tướng chẳng qua như hổ không đầu. Vị chủ tướng can đảm, tài năng, nhân từ độ lưỡng sẽ dát các ngươi lên đường vinh quang hiện đã có mặt ở đây! Các ngươi hẳn đang khao khát lắm! Hết thảy đều một lời: - Vâng, khao khát lắm. Gia Luân, trỏ Bồng Nga tiếp rằng: - Hỡi ba quân, Chúa thượng của ta đâ. Mặt trời của ta đây! - Vạn tuế!… Hoàng tử Chế Bồng Nga vạn tuế! Ðức Quân thượng vạn tuế!… Bồng Nga tiến lên mấy bước, nhìn khắp mấy ngàn binh sĩ, hai giọt lệ bỗng từ từ lăn xuống má.