Chỉ mục bài viết |
---|
Robinson Crusoe |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Trang 7 |
Trang 8 |
Trang 9 |
Trang 10 |
Tất cả các trang |
Chương 11
Suốt đêm tôi không chợp mắt được: càng cố xua đuổi cái hình ảnh đã làm cho tôi kinh hoảng thì sự sợ hãi lại càng tăng lên. Nhiều ý nghĩ ghê rợn ám ảnh và làm cho tôi rối loạn tinh thần. Mặc dầu giờ đây tôi ở rất xa chỗ xảy ra câu chuyện bất ngờ, trí tưởng tượng của tôi vẫn loanh quanh luẩn quẩn ở đó, nặng trĩu những lo và sợ. Người nào đã để lại những dấu vết đó? Còn ai khác hơn là những thổ dân ở đất liền đã bơi xuồng trên biển rồi bị gió ngược hoặc bị những luồng nước chảy xiết đưa tới đảo này. Có lẽ họ cũng chẳng muốn ở lại lâu trên bờ biển vắng tanh này và tất nhiên tôi cũng chẳng mong gì có họ ở đó. Ruột rối bời bời nhưng tôi vẫn lấy làm may mắn vì đã không phải chạm trán với họ và họ lại chưa thấy chiếc xuồng của tôi. Nếu thấy chiếc xuồng, họ sẽ đoán trên đảo có người; nhất định sẽ đi tìm và sẽ kiếm ra tôi. Cũng có lúc tôi tưởng như chiếc xuồng của tôi bị lộ. ý nghĩ đó làm tôi lo lắng khổ sở. Tôi sợ họ sẽ trở lại đây rất đông.
Như vậy cho dầu tôi có trốn thoát được, họ cũng tìm ra chỗ ở của tôi, phá hoại thóc lúa, bắt mất bầy dê và hãm tôi vào chỗ chết đói. Tôi cứ suy đi tính lại, sợ quẩn lo quanh như thế, chẳng biết xoay xở ra sao. Thế rồi một hôm tôi lại tự an ủi và cho rằng mình đã hốt hoảng, hoa mắt trông nhầm cho nên mới sợ hãi đến thế.
Những vết chân ấy chỉ có thể là vết chân của tôi. Chính những dấu vết của tôi đã làm cho tôi kinh khiếp. Rất có thể -tôi tự nhủ -lúc trên xuồng bước xuống bờ biển, mình cũng đi về một phía như lúc trở lại xuồng. Mình đã giống như những người điên cứ bịa ra hết chuyện ma này đến chuyện quỷ khác, cuối cùng lại bị những câu chuyện bịa đó làm cho mất vía hơn là những người nghe mình kể chuyện. Thế là tôi lại bình tĩnh. Hàng ngày tôi lại ra ngoài để đi đây đi đó như trước. Mới ở nhà có ba ngày đêm mà tôi đã bị thiếu thốn rồi: trong nhà chỉ còn có vài cái bánh khô và một ít nước ngọt. Tôi nghĩ ngay đến đàn dê cái, vú đang căng sữa cần phải vắt. Tôi thường say sưa làm công việc ấy vào buổi chiều. Tôi ra thật đúng lúc; những con vật đáng thương ấy đang vật vă vì cương sữa, nhiều con đã phát ốm và một số con đã bị tắc sữa rồi. Càng ngày tôi càng mạnh dạn hơn và tôi càng yên trí rằng mình vừa trải qua một cơn mê hoảng dữ dội.
Tuy nhiên tôi cũng chưa thật tin hẳn thế, tôi còn muốn thực sự đến tận nơi đo rő ràng kích thước cái dấu vết đã gây ra cơn mê hoảng. Ra đến nơi, tôi thấy rõ ngay mình không thể nào từ trên xuồng bước xuống được chỗ đó. Hơn nữa, sau khi ướm thử, tôi thấy rő ràng cái vết chân ấy to hơn bàn chân tôi. Thế là tôi lại phấp phỏng lo sợ. Tôi rùng mình như lên cơn sốt rét. Tôi trở về nhà yên trí rằng đã có người đặt chân lên bãi biển, hoặc là hòn đảo có người ở. Đằng nào tôi cũng có thể gặp nguy cơ bị đánh bất thình lình, khó mà đề phòng trước được. Thế là tôi bắt đầu hối tiếc việc đào cái hang xuyên qua núi mở một lối ra vào ở vách đá phía ngoài bức lũy đá. Để cứu văn tình thế đó, tôi quyết định làm thêm một bức lũy đá mới, đúng vào chỗ trước đây mười hai năm tôi đã trồng hai dãy cây. Những dãy cây này vốn trồng dày cho nên bây giờ chỉ cần chôn thêm một ít cọc gỗ chen vào giữa mỗi khoảng cây là hoàn thành một bức lũy đá hết sức chắc chắn. Như vậy là tôi có hai bức lũy đá che chở: bức ngoài bằng những cọc gỗ, những dây tam cố đã cũ và tất cả những gì có thể làm cho nó vững chắc thêm. Tôi lại đổ thêm đất và giẫm đi giẫm lại cho đất nén xuống thật chắc mà vẫn cao đến trên mười bộ. Tôi lại trổ ra năm cái ngách khá rộng có thể thò tay qua. Trong mỗi ngách, tôi đặt súng hỏa mai như kiểu bố trí đại bác ở những ụ súng sao cho nội trong hai phút đồng hồ tôi có thể bắn liên tiếp ở tất cả năm lỗ châu mai đó. Tôi đã phải hao công tốn sức bao nhiêu tháng trời để đắp lũy đá và tôi không dám nghỉ ngơi một phút trước khi công việc hoàn thành. Làm xong bức lũy đá, tôi ương thêm một khoảng đất rộng ở mé ngoài rất nhiều cành cây non, mau bén rễ, lớn nhanh, gỗ thì cứng. Có lẽ trong một năm trời tôi đã cắm xuống đó đến hai vạn cành như thế. Giữa lùm cây và bức lũy đá lại chừa một khoảng trống khá rộng để tôi có thể ra đó xem xét tình hình đối phương đồng thời không phải lo ngại những cạm bẫy bất ngờ của họ.
Hai năm sau, đám cây trở thành một cái lùm dày đặc và sáu năm nữa thì trước chỗ tôi ở đã có một cánh rừng vừa rậm vừa cao không ai vào nổi. Vậy thì còn ai dám nghĩ rằng phía sau rừng lại có nhà cửa và người ở. Mặc dầu dồn hết tâm trí vào công việc đó, tôi vẫn không sao nhãng những việc khác. Tôi chú ý đặc biệt tới đàn dê. Chẳng những chúng đã bắt đầu trở thành một nguồn lương thực quan trọng của tôi mà rồi đây còn giúp tôi tiết kiệm được thuốc đạn và sức khoẻ, đỡ mất công đi bắn dê rừng. Suy nghĩ kỹ càng, so sánh hơn thiệt chán chê, tôi thấy có hai cách có thể bảo vệ được bầy dê. Cách thứ nhất là đào thêm một cái hang dưới đất và cứ tối đến thì dồn chúng vào đó. Cách thứ hai là tìm những chỗ kín đáo hơn hết, làm thêm vài ba cái chuồng nhỏ cách xa nhau, trong mỗi chuồng có thể thả chừng sáu bảy con dê con. Như vậy nếu xảy ra chuyện không may cho bầy dê thì tôi vẫn còn có ít nhiều "vốn liếng" để gây lại một đàn khác trong trời gian ngắn không đến nỗi khó khăn lắm. Mặc dầu mất công và khó nhọc, tôi thấy cách thứ hai thích hợp hơn. Để làm những chuồng dê ấy, tôi đi lùng khắp trên đảo và tìm được một chỗ kín đáo, thật vừa ý. Đó là một khoảng đất trảng nắng và bằng phẳng ở chính giữa những đám rừng rậm mà trước kia tôi xuýt bị lạc trong khi đi từ phía đông hòn đảo về. Nó có đủ điều kiện để trở thành một cái trại chăn nuôi thiên nhiên đã dựng sẵn không đòi hỏi tôi phải lao lực như khi làm những bức lũy đá. Tôi không bỏ lỡ cơ hội và triệt để lợi dụng những thuận lợi thiên nhiên, chưa đầy một tháng trời, bầy dê khá thuần của tôi đã được yên ổn trong trại chăn nuôi mới.
Sau khi đã cất đặt kín đáo một phần nguồn lương thực sống của tôi như thế, tôi lại đi khắp hòn đảo tìm một chỗ khác có thể nuôi giấu thêm một số dê nữa. Một hôm, đi quá ra mỏm đất phía tây hòn đảo, xa hơn tất cả mọi lần trước, tôi đứng trên một chỗ cao nhìn ra biển và thấy hình như có một chiếc xuồng ở ngoài xa. Dạo trước tôi cũng có lấy được trên tàu mấy chiếc kính viễn vọng nhưng không may hôm nay lại không mang theo nên không thể nhận rõ vật ngoài xa là cái gì, mặc dầu tôi đã căng mắt lên mà nhìn đến mỏi. Vì vậy, tôi cứ nửa tin nửa ngờ không biết có phải là một chiếc xuồng hay không. Từ đó tôi rút kinh nghiệm là lúc nào đi ra ngoài cũng phải mang theo kính viễn vọng. Từ trên đồi xuống, tôi đặt chân vào một chốn xa lạ. Đến đây, tôi mới biết trên hòn đảo thật không hiếm dấu vết loài người; sở dĩ tôi còn ù ù cạc cạc chỉ vì tôi đã bị giạt vào phía bờ biển khó ghé. Thực ra thì thường vẫn có những chiếc xuồng ở đất liền tới đảo này tìm chỗ đậu khi bất ngờ đi quá xa ra biển khơi. Hơn nữa, sau mỗi trận giao chiến giữa các bộ lạc thổ dân, những kẻ thắng trận thường dẫn tù binh đến bờ biển này hành hình. Trên bờ phía tây nam hòn đảo, dấu vết một cuộc hành hình vừa qua bên một đống lửa chưa tàn hẳn đã cho tôi biết sự thực đó và làm cho tôi rùng mình sởn gáy. Khi đã đi xa cái pháp trường tạm thời ấy, tôi đứng sững ngay lại như một người bi sét đánh chết đứng, chua xót nghĩ tới số phận mình. Sau khi định thần, tôi mừng thầm đã được sống xa cảnh ấy mấy lâu nay.
Tôi sống ở đây mười tám năm ròng không gặp một con người. Tôi hy vọng có thể sống yên ổn như thế trong một thời gian dài nữa, chỉ có đừng có lộ tông tích, điều này tôi chẳng muốn tí nào, trừ phi gặp những người tốt. Khi đã bình tĩnh nhìn vào hoàn cảnh mình, tôi lại thấy cuộc sống cũng khá dễ chịu, hơn hẳn nhiều kẻ khác. Tôi không còn sợ bóng sợ gió nữa; bây giờ thì ngày đêm chỉ chăm chú nghĩ cách nắm lấy thế chủ động khi phải đối phó với những người thổ dân đó hoặc để tìm cách cứu tù nhân của họ đem về ở với mình. Tôi phải bỏ mất khá nhiều ngày mới tìm được một chỗ tốt mà ẩn nấp. Tôi cũng đã nhiều phen lần mò đến chỗ họ hành hình tù binh cho nên dần dần con mắt cũng quen với cái cảnh rùng rợn ấy. Cuối cùng, tôi tìm được trên sườn núi một chỗ rất thuận tiện để vững dạ đứng chờ và rình khi thuyền của họ đến. Trong khi họ ghé lên bờ thì từ chỗ nấp tôi có thể len lỏi vào trong khoảng rừng rậm rạp nhất. ở đó tôi đã tìm được một cây to và rỗng để chui hẳn vào. Đứng kín trong một hốc cây, tôi có thể theo dõi được tất cả những hành động của họ và tha hồ ngắm đích. Như vậy, ít nhất tôi cũng hạ được ba bốn người một lúc ngay từ phát súng đầu tiên.
Chương 12
Tôi nhất quyết thi hành cho được kế hoạch tác chiến đó. Tôi chuẩn bị sẵn sàng hai khẩu hỏa mai và khẩu súng săn. Súng hỏa mai thì nạp đạn sẵn sắt vụn và đạn súng ngắn, súng săn thì dùng đạn ghém lớn nhất, còn súng ngắn thì nạp đạn chì. Trong chỗ nấp, lại có sẵn thuốc đạn dự trữ cho hai loạt đạn bắn nữa; như vậy tôi có thể sẵn sàng chiến đấu nếu cần. Sáng nào tôi cũng trèo lên đồi, cách "lâu đài" của tôi chừng già một dặm đường. Nhưng ròng rã hai tháng trời canh gác, tôi chẳng thấy gì khác và qua kính viễn vọng cũng không phát hiện ra được một chiếc thuyền nào ở trong bờ, hoặc ngoài khơi. Suốt thời gian ấy, tôi cứ bồn chồn trong dạ. Lúc nào tôi cũng cứ hùng hùng hổ hổ sẵn sàng giáng một đòn thật mạnh vào đầu những người thổ dân ấy, diệt vài ba chục mạng như chơi để trừng phạt họ về những cuộc hành hình tàn nhẫn của họ. Tôi lại cũng bất bình trước những cuộc hành hình tàn nhẫn ấy và lúc nào tôi cũng nơm nớp lo bất ngờ phải chạm trán với họ. Kể ra bất bình như thế chưa hẳn đúng lý, sự thực thì họ làm những việc tàn nhẫn ấy chẳng qua vì tuân theo một phong tục hủ bại đã ăn sâu thành cội rễ trong nếp sống, khiến họ coi việc đó là bình thường. Cuối cùng, chờ mãi không thấy gì, tôi thôi không theo dõi và dần dần tôi đã có được những nhận định đúng đắn về việc làm của tôi: "Tôi có quyền gì? Sao tôi lại có thể tự cho mình là quan tòa để xét xử những con người đã hàng bao nhiêu thế kỷ nay vẫn cứ yên trí là có quyền tiêu diệt và hành hình lẫn nhau? Mặt khác tôi chuốc lấy vạ như thế, liệu một mình có thể đủ mưu trí và sức lực chống lại hàng chục, có khi là hàng trăm đối thủ có khí giới đầy đủ, dù chỉ mới là cung tên và lao nhọn, khi họ nổi xung lên không? Đã bao giờ họ động chạm đến bản thân tôi đâu!
Vậy thì tôi chỉ nên đối phó khi nào thấy cần thiết phải tự vệ chống lại sự tấn công của họ". Những ý nghĩ đó đã làm cho tôi nguôi dần. Tôi cũng không chuẩn bị nữa, nhất quyết chỉ ra tay khi những người thổ dân kia tỏ ra ác ý đối với tôi. Tôi sống như thế suốt một năm trời, cố ý không nghĩ đến việc tiêu diệt những người thổ dân đó. Tôi cũng chẳng cần lên núi dò xét xem họ có chèo xuồng đến ghé lên bờ nữa hay không. Tôi cứ sợ mình không trấn tĩnh nổi và nhân một cơn tức giận bất thần bốc lên, có thể vô ý thức mà tàn sát họ nhân một dịp có nhiều thuận lợi. Tôi lấy chiếc xuồng ra nơi cất giấu, đem đi xa về bờ biển phía đông và lại giấu nó vào một cái hốc đá rất kín đáo dưới núi. Những dòng nước xiết sẽ ngăn không cho thuyền của họ ghé vào đó. Từ đó tôi sống cô quạnh hơn bao giờ hết. Tôi chỉ ra bên ngoài khi bắt buộc phải ra làm những việc cần thiết hàng ngày như vắt sữa dê, chăm sóc đàn gia súc nuôi kín đáo trong rừng sâu. Đàn gia súc này ở hẳn phía bên kia đảo nên hoàn toàn không bị lộ. Xem ra thì những người thổ dân hung bạo đó không hề có ý định bỏ hẳn bờ biển này. Rõ ràng họ đã đến đây nhiều lần, trước những ngày tôi bố trí mọi việc phòng thủ, tự vệ. Mỗi lúc nghĩ đến họ, tôi lại thấy hú vía! Hồi trước, khi mới đặt chân lên đảo, trần như nhộng, tay không có khí giới ngoài một khẩu súng độc nhất với một ít đạn ghém cỡ nhỏ , nếu tôi gặp họ thì biết tính sao? Hồi đó, tôi đi thăm dò khắp nơi trên đảo. Các bạn thử nghĩ xem tôi sẽ kinh khiếp như thế nào nếu, đáng lẽ chỉ gặp một dấu chân, tôi lại đụng đầu với một tốp chừng vài chục người thổ dân? Nhất định họ sẽ đuổi theo và chắc chắn là tóm được tôi ngay. Tôi rùng mình nghĩ rằng gặp trường hợp ấy thì đến phải bó tay chịu chết.
Phần vì lo sợ, phần vì hay nghĩ đến những tai họa có thể xảy ra, suốt một thời gian khá lâu, cuộc sống của tôi có vẻ cô quạnh và tôi thấy mất hẳn cái thú muốn sống cho thoải mái dễ chịu . Tôi chỉ nghĩ đến sống nhiều hơn là" vui sống ". Tôi không còn lo lắng đóng vài cái đinh vào chỗ này, hoặc gõ miếng ván chỗ kia cho nhà cửa thêm chắc chắn, vì tôi sợ có tiếng động bay ra ngoài. Tôi lại càng ít nghĩ đến chuyện bắn một phát súng. Mỗi lúc bất đắc dĩ phải nhóm lửa thì tôi lại phấp phỏng không yên, sợ khói bay lên có thể làm cho người ở rất xa cũng biết nơi đây có người. Chính vì thế, tôi cháển hẳn vào trong rừng tất cả những gì cần phải đun nấu, sau nhiều chuyến đi đi về về, tôi tình cờ gặp được một cái hầm thiên nhiên rất rộng, tôi vui sướng vô kể. Tôi tin chắc rằng không bao giờ một thổ dân nào có thể thấy được cửa ra vào, mà dù có thấy cũng không đủ cam đảm vào trong đó. Như thế chắc hẳn rất ít người dám liều lĩnh, trừ trường hợp như tôi đang rất cần một chỗ ẩn nYu yên ổn. Cửa hang khuất kín sau một tảng đá lớn và cũng là tình cờ mà tôi phát hiện được trong khi chặt một số cành lớn để đốt lấy than. Tôi đương định dùng than nướng bánh và đem nấu thức ăn để khỏi lộ vì khói. Vừa thấy cái cửa hang sau mấy bụi rậm um tùm, tôi tò mò chui vào trong xem sao. Hang cũng đủ cao và rộng nên tôi có thể đứng thẳng lên. Nhưng chưa gì tôi đã đâm nhào chạy trở ra nhanh hơn lúc đi vào, bởi vì khi chăm chú nhìn vào trong hang tối, tôi bỗng thấy hai con mắt sáng như hai ngôi sao, không biết là mắt người hay mắt quỉ. Một lúc sau, trấn tĩnh lại, tôi vớ một thanh củi cháy dở và mạnh dạn trở vào. Nhưng vừa được vài ba bước, tôi lại sợ đến dựng tóc gáy lên. Tôi nghe một tiếng thở dài, tiếp đó là một vài tiếng lắp bắp không rõ, rồi lại một tiếng thở dài khủng khiếp nữa. Mồ hôi toát ra lạnh ngắt khắp người; nếu tôi đội mũ thì tóc có thể dựng đứng lên mà hất mũ rơi xuống đất mất.
Tuy nhiên tôi vẫn cố hết sức bình tĩnh và cứ mạnh dạn bước vào. Té ra đó là một con dê cụ rất lớn, đương nằm trên mặt đất chờ chết... Tôi lại gần nó, thử đẩy một tí xem có thể tống cổ nó ra khỏi hang được hay không. Nó cố gắng chuyển mình để đứng lên nhưng không sao dậy nổi. Tôi cũng không bận lòng đến nó nữa. Cứ để nó nằm đó, nó còn sống ngày nào cũng được việc ngày ấy; những ai muốn liều lĩnh chui vào trong hang này sẽ được một mẻ khiếp vía như tôi vừa rồi thôi. Yên bụng, tôi đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Hang phía ngoài khá hẹp và không ra hình thù gì; ở đó chưa có bàn tay người đụng chạm đến. Mé trong có một lối nhỏ, tôi phải chui qua mới vào được phía sau và gặp một cái động tốt nhất trần gian, mặc dầu rất tối. Nền đất bằng phẳng và khô ráo, phủ một lớp cát nhỏ mịn; không có một dấu vết độc trùng rắn rết, không có một mùi hôi thối bốc lên, không có một dấu hiệu ẩm ướt. Điều bất tiện độc nhất là lối vào khó khăn nhưng chính vì thế mà cái động càng kín đáo, yên ổn. Tôi rất hài lòng và quyết định chuyển lại đây tất cả những gì cần cất giấu chắc chắn, nhất là thuốc đạn và khí giới dự trữ. Hôm sau, con dê cụ chết ngay lối vào hang. Tôi đào đất chôn nó tại chỗ, đỡ mất công lôi nó ra ngoài. Bấy giờ là tháng chạp, đúng vào mùa gặt; suốt ngày tôi phải ở ngoài đồng lúa để gặt hái. Một buổi sớm, trước khi mặt trời mọc, vừa ra khỏi nhà, tôi ngạc nhiên thấy đằng xa trên bờ biển có ánh lửa, cách xa đến chừng nửa dặm đường. Lần này ánh lửa lại không ở về phía lâu nay những người thổ dân vẫn ghé. Tôi rất lo ngại vì thấy nó lập lòe ở hướng lâu đài của tôi. Sợ bị tấn công bất ngờ, tôi vội vã chạy trở về hang đá. Nhưng ở đó tôi cũng thấy không thể yên ổn được. Nhìn thấy lúa đang gặt dở, những người thổ dân đó biết ngay trên đảo có người, họ sẽ sục sạo khắp nơi để tìm cho được tôi mới thôi. Trong cơn lo sợ, tôi trở về nhà ngay, kéo thang lên và chuẩn bị cuộc chiến đấu tự vệ. Tôi nạp đạn vào tất cả súng ngắn, súng hỏa mai đã để sẵn ở những lỗ châu mai trong chiến lũy đá, cương quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Trong tình trạng báo động đó, tôi đợi kẻ địch luôn trong hai tiếng đồng hồ, rất nóng ruột không hiểu ngoài kia đã xảy ra những chuyện gì.
Chẳng có ai giúp cho việc trinh sát nên tôi cứ phải đứng đó, chịu đựng măi một sự chờ đợi thấp thỏm. Bứt rứt quá, không chịu nổi nữa, tôi nối hai cái thang lại, đánh liều trèo lên trên mỏm núi cao đằng sau. Tới nơi, tôi nằm rạp xuống đất, dùng kính viễn vọng xem xét tình hình. Trước hết, tôi nhận rõ chín người thổ dân đương ngồi xúm quanh một đống lửa nhỏ. Họ đi hai chiếc xuồng tới và họ đã kéo xuồng lên bờ. Lúc bấy giờ nước triều đang lên. Có lẽ họ đang chờ nước rút để quay ra biển mà trở về, cho nên tôi cũng yên tâm. Tôi nhận ra rằng họ đều theo thủy triều mà đến đây rồi lại trở về. Như vậy, tôi có thể ung dung qua lại khắp nơi trên đảo trong lúc nước triều xuống, miễn là đừng có lộ mặt ra trên băi biển. Biết được như thế, tôi tiếp tục gặt hái yên tâm hơn.
Sự việc xảy ra đúng như tôi đoán trước. Thủy triều vừa rút xuống ở bãi biển phía tây thì họ đã nhảy cả xuống xuồng, rồi trèo thuyền đi thật nhanh. Họ vừa đi khỏi, tôi khoác luôn hai khẩu súng săn lên vai, giắt hai khẩu súng ngắn vào thắt lưng và đeo thanh mã tấu vào bên sườn rồi tất tả ra khỏi chỗ ẩn. Tôi chạy vội đến ngọn đồi mà lần đầu tiên tôi thấy vết tích những cuộc hành hình của họ. Tới đó, tôi lại thấy về phía ấy cũng có ba chiếc thuyền khác đương chèo nhanh ra biển khơi như mấy chiếc kia để trở về đất liền. Có lẽ những buổi ghé thăm đảo như thế càng ngày càng thưa vì đã ngoài mười lăm tháng trời, tôi mới lại thấy bóng dáng họ. Tuy vậy, suốt thời gian đó, tôi cứ phải sống trong một tình trạng đầy lo lắng, không tìm ra cách gì thoát khỏi. Ban ngày cứ nơm nớp lo sợ bị tấn công bất ngờ; ban đêm thì cứ nằm mê những cảnh kinh hoàng , khắc khoải thâu canh chẳng đêm nào ngủ ngon giấc. Lâu dần rồi tôi cũng khuây khỏa và trở lại nếp sống bình thường. Cuộc sống đã được yên tĩnh hơn nhưng tôi vẫn không quên đề phòng cẩn mật. Tôi ít đi ra ngoài hơn trước và chỉ đi về phía không có vết tích những người thổ dân để đỡ phải mang theo nhiều khí giới phòng thân. Tôi lại sống hai năm liền cũng tạm gọi là thoải mái mặc dầu tâm trí vẫn loay hoay với muôn vàn ước mơ tìm cách thoát ra khỏi đảo. Nếu có được chiếc thuyền dạo trước đã dùng để trốn thoát tên cướp bể ở hải cảng Xa-lê thì tôi quyết đánh liều vượt biển một phen.
Những ý nghĩ đó càng ngày càng ám ảnh và làm cho tôi mất ăn mất ngủ suốt cả một thời gian. Tôi không còn đủ sức để kiềm chế lòng mong ước một cuộc hành trình như thế nữa. oeớc muốn đó ngày càng mãnh liệt làm cho tôi đành chịu bó tay không thể nghĩ sang chuyện khác được nữa. Nhiều đêm, suốt hai ba tiếng đồng hồ, ước mong đó đã chiếm lấy tâm trí tôi, lôi cuốn tôi một cách dữ dội, làm cho tôi cháy ruột cháy gan như khi lên cơn sốt. Nhưng thường sau khi tinh thần căng thẳng tột độ như thế, tôi thấy mệt mỏi nên lại nằm xuống ngủ thiếp đi. Muốn thực hiện ước muốn đó, tốt nhất là phải tóm cho được một vài thổ dân; nếu được một tù binh biết trả ơn cứu sống thì rất tốt. Nhưng tôi thấy ngay cái khó khăn ghê gớm là muốn thế thì chưa biết chừng tôi sẽ phải bắt buộc tiêu diệt cả một đoàn người. Quả là một hành động phiêu lưu có thể thất bại dễ dàng. Tuy nhiên, nhất định tôi phải tìm cách tự giải thoát dù phải làm đổ nhiều máu. Tôi đã nhiều lần suy đi tính lại, ruột rối bời bời. Tôi đã cân nhắc kỹ lưỡng "nên" và "không nên", giữa "ước mong" và "lòng nhân đạo" không biết bao nhiêu lần mà kể. Cuối cùng, tôi quyết định dùng hết cách để bắt sống cho được một người thổ dân mặc dầu phải trả giá rất đắt. Một buổi sáng, tôi thấy trên bãi biển có tới sáu chiếc xuồng. Những người thổ dân đã lên bờ và đi quá tầm mắt tôi nhìn. Tôi đã biết rõ thường thường cứ mỗi xuồng chở năm hay sáu người, như thế thì lần này số người bên đó đã đảo lộn mọi sự sắp đặt của tôi. Một mình tôi đơn thương độc mă, đối chọi thế nào với hàng ba bốn chục người! Tuy vậy, sau một phút ngần ngừ, tôi vẫn chuẩn bị tất cả cho cuộc chiến đấu. Tôi lắng nghe động tĩnh rồi đặt hai khẩu súng trường dưới chân thang, trèo lên đứng trên cao, đầu không nhô ra khỏi mỏm đất. Qua kính viễn vọng tôi nhìn thấy có đến ba chục người là ít. Họ đã nhóm lửa lên để chuẩn bị hành hình tù binh. Họ đương nhảy múa chung quanh đống lửa với nhiều động tác và nhiều điệu bộ lạ lùng, theo như phong tục của họ. Tôi soát lại một lần nữa kế hoạch chiến đấu của mình, trong lòng phân vân chưa dám tin chắc ở kết quả. Một lát sau, tôi thấy ba người trong bọn họ lại gần một chiếc xuồng kéo ra hai người tù binh để chuẩn bị hành hình.
Người tù binh thứ nhất đã ra khỏi xuồng, nhưng người thứ hai hình như còn dùng dằng chưa chịu ra. Tức thì anh ta bị một đòn rất mạnh giáng vào đầu, ngã nhào xuống. Ba tên đao phủ nhảy xổ lại đè cứng lấy người khốn nạn đó, giết tươi ngay trước mắt người tù binh kia đương chờ đến lượt mình! Người tù binh thứ nhất thấy mình đã được thả lỏng một chút; bản năng gợi cho anh một tia há vọng có thể trốn thoát. Anh ta chạy nhanh vùn vụt, hướng thẳng về phía tôi đứng, men theo phía bờ biển dẫn đến nhà tôi ở. Trên bờ biển, giữa người tù sổng và "lâu đài" của tôi có một cái vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền. Tới đó, nhất định anh ta sẽ dừng lại nếu không đánh liều bơi vượt qua.
Nhưng tới đó, anh ta không hề tỏ vẻ bối rối, cứ nhảy ào xuống nước và chỉ bơi ba chục sải là sang bờ bên này, rồi lại chạy vùn vụt như trước. Khi ba người kia đuổi theo đến đó thì chỉ có hai người nhảy xuống bơi theo, còn gã thứ ba dừng lại một chút trên bờ rồi quay trở lại. Thật là một điều may mắn không nhỏ cho người tù sổng. Tôi lại để ý thấy hai người kia bơi cũng kém và phải mất gấp đôi thì giờ người chạy trước mới tới được bờ bên này. Tôi nhận thấy ngay rằng đây là dịp may hiếm có đem lại cho tôi một người bạn đồng thời một kẻ giúp việc. Tôi thấy phấn chấn tinh thần hẳn lên và tin chắc vào thắng lợi của mình. Không bỏ lỡ dịp tốt, tôi lao ngay xuống chân núi để lấy mấy khẩu súng rồi vụt trèo trở lên núi cũng hăng hái không kém. Tôi tiến thẳng ra bờ biển và chỉ một lát sau đã nhảy xổ ra chặn đường, cắt ngang giữa người tù sổng và những người đuổi bắt anh ta, đồng thời cũng tìm cách làm cho anh ta nghe tiếng tôi mà dừng lại. Tôi lại giơ tay vẫy vẫy để ra hiệu cho anh ta. Nhưng hình như mới đầu anh ta cũng sợ tôi không kém gì sợ những người đang đuổi theo sau. Lúc đó tôi thong thả bước về phía những người này rồi bất thần nhảy tới gần người chạy trước, giáng cho một báng súng thật mạnh vào đầu. Tôi không muốn bắn vì sợ tiếng súng vang đi xa, những người ở đằng kia có thể nghe thấy. Thực ra xa như thế thì cũng khó mà nghe rõ được. Vả lại những người thổ dân đó có nghe thấy tiếng súng thì họ cũng chẳng hiểu được cái tiếng lạ lùng ấy là cái gì.
Tuy nhiên, cẩn thận một chút vẫn yên lòng hơn. Trông thấy bạn mình ngã xuống, người chạy sau có vẻ sợ hãi và đứng dừng ngay lại. Tôi tiếp tục đi thẳng về phía hắn ta. Nhưng khi lại gần, tôi thấy hắn giương cung lên và sửa soạn mắc tên vào. Thấy thế tôi phải đề phòng và bắn cho hắn một phát chết ngay tại chỗ. Thấy lửa phụt ra và nghe tiếng súng nổ, người tù sổng đứng sững vì quá kinh khiếp. Nhìn vẻ mặt khiếp sợ của anh, tôi nhận thấy anh lại có ý muốn chạy trốn thật nhanh hơn nữa chứ không muốn đến gần tôi, mặc dầu thấy rő ràng cả hai kẻ thù của mình đã ngã. Tôi lại vẫy anh, tỏ ý bảo anh lại gần. Anh ta bước vài bước rồi đứng dừng lại và cứ làm đi làm lại cái đó mãi một lúc lâu. Có lẽ anh ta ngỡ rằng mình lại bị cầm tù một lần nữa và cũng sẽ bị giết như hai kẻ thù kia. Tôi lại vẫy một lần thứ ba với tất cả thái độ thân mật để làm cho anh yên lòng. Anh ta cố gắng bước tới và cứ mươi mười hai bước thì lại quì xuống như để tỏ lòng cảm ơn tôi. Trong lúc đó, tôi cố gắng mỉm cười với anh ta một cách hết sức trìu mến. Cuối cùng, khi đã đến gần sát tôi, anh ta đứng dừng lại, quì xuống hôn đất rồi nắm lấy bàn chân tôi, có lẽ để tỏ ý hết sức cảm ơn tôi đã cứu anh ta thoát chết và hứa một lòng trung thành với tôi, xin theo hầu hạ tôi suốt đời. Tôi dịu dàng nắm lấy tay anh, đỡ anh đứng dậy, vuốt ve âu yếm, làm cho anh vững lòng lên hơn. Vẻ cảm động, anh bỗng thốt lên mấy tiếng tỏ ý vui mừng hết sức. Vừa được nghe mấy tiếng nói của anh, mặc dầu chẳng hiểu được anh nói gì, tôi sung sướng và cảm động quá, run người lên. Đó là tiếng nói đầu tiên của loài người mà sau hai mươi lăm năm trời lưu lạc tôi mới lại được nghe. Sao mà nó êm đềm, ấm cúng và chứa chan tình cảm đến thế! Tôi lại được nghe một con người nói và sẽ được nói chuyện với một con người!
Hạnh phúc đến với tôi đột ngột thế ư? Mỗi tiếng nói ấy, tuy chưa rő nghĩa, đều là tự đáy lòng của một con người thốt ra, một con người thật sự như tôi, một đồng loại của tôi, khác hẳn những tiếng nói như cái máy của con vẹt hàng ngày vẫn gọi rõ tên tôi, đã hai mươi lăm năm nay chỉ biết lắp đi lắp lại có một vài câu không thay đổi! Tôi mừng rỡ quá, ôm lấy anh bạn mới và nói luôn một thôi một hồi, mặc dầu anh không hiểu được tôi nói gì, cũng như tôi không hiểu lời anh. Nhưng anh cũng nhìn tôi bằng một cặp mắt trìu mến, có vẻ thông cảm với nỗi vui mừng của tôi; anh lại nói tiếp mấy tiếng, líu lo như tiếng chim, ngọt ngào và êm ấm quá chừng! Nhưng bây giờ chưa phải là lúc tha hồ tận hưởng niềm vui sướng tuyệt vời ấy. Nguy hiểm đương quanh quẩn bên chúng tôi. Sự việc chưa phải đã kết thúc. Người thổ dân bị tôi đánh một báng súng vào đầu chỉ mới ngất đi chứ chưa chết. Hắn đương cố gắng vùng đứng hẳn dậy. Nhìn thấy thế, người bạn mới của tôi im lặng, trên nét mặt lộ vẻ kinh sợ. Thấy tôi ra bộ nhắm bắn tên kia, anh ta ra hiệu ngăn lại và muốn mượn thanh mã tấu. Tôi rút ra đưa ngay cho anh. Vừa cầm thanh mã tấu trong tay, anh nhảy xổ ngay lại vung lên chém chết kẻ thù. Sau thắng lợi đó, anh trở lại chỗ tôi, vừa đi vừa nhảy vừa cười rất lớn tiếng như để mừng chiến công của mình. Tới nơi, anh đưa ngay thanh mă tấu trả lại cho tôi sau khi đã chùi sạch máu. Anh ta ra hiệu cho tôi biết cần phải chôn hai cái xác chết, sợ rằng những người thổ dân khác bắt gặp thì sẽ kiếm cách tìm ra chúng tôi.
Tôi đồng ý và chỉ trong nháy mắt, anh đã đào hố trong bãi cát và chôn xong mấy cái xác ấy. Xong xuôi, tôi dẫn anh ta đi, không phải cùng về "lâu đài" của tôi mà về cái hang mới, ở sâu vào phía trong đảo.