Chỉ mục bài viết |
---|
Chiếc Cầu Thời Thơ Ấu |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Chiếc Cầu Thời Thơ Ấu
Tác giả: Quan Dương
Mỗi khi lái xe qua chiếc cầu Causeway dài 40 cây số của tiểu bang Louisiana nơi hiện định cư, tôi đều liên tưởng đến chiếc cầu Dinh ngẳn củn dài chưa đầy 200 mét ở Ninh Hòa. Chiếc cầu dài nhất thế giới này ai cũng biết, còn chiếc cầu Dinh thì số người biết chỉ đếm trên đầu ngón tay, vậy hà cớ gì mỗi khi lái xe qua chiếc cầu nổi tiếng lại nhớ về chiếc cầu vô danh? Hay có lẽ vì chiếc cầu nơi tôi đang sống quá đài và chiếc cầu nơi tôi đã sống quá ngắn? Sự tương phản đó đã gây ấn tượng? Chiếc cầu Causeway nơi xứ người được xây vô cùng hiện đại và kiên cố bắt qua biển nối liền hai thành phố Metarie và Mendevill, Chiếc cầu nơi xứ tôi xây bằng xi măng bắt qua sông Dinh nối liền xóm chợ và Vĩnh Phú. Một nơi có nhu cầu về vật chất. Một nơi có nhu cầu về tinh thần.
Con sông Dinh có tự bao giờ? Không ai biết. Nhưng chiếc cầu thì chắc chắn phải có sau con sông.Chính xác hơn là tại bởi vì có con sông nên mới có chiếc cầu. Tóm lại ngoại hình chiếc cầu Dinh chẳng có gì đặc biệt nhưng bởi vì nó dính liền với thịt da, cho nên mỗi lần lái xe qua một chiếc cầu nào đó hồn tôi thường bâng quơ thổn thức về một chiếc cầu thời thơ ấu. Và có mấy ai biết được dưới chân gầm cầu đầy rác rến mấy chục năm về trước là nơi tôi khóc tiếng chào đời. Tôi là một đứa bé không được hưởng cái hạnh phúc được sinh ra từ một nơi bình thường đại khái như tại một nhà bảo sanh hoặc giả tại nhà thương của quận lỵ. Má tôi kể lại vào ngày đó, tháng đó, năm đó, khi bà đang đứng đón xe xuống Hòn Khói thì còi báo động vang lên inh ỏi. Lính Tây đang dẫn bảy ông Việt Minh ra chợ cá xử bắn. Má sợ quá mới chạy vô nhà cô ba tôi ngay đầu cầu. Cô dẫn má trốn Tây dưới chân cầu sát mé sông.
Khi tiếng súng khai tử của Tây nổ chát chúa vang lên từ phía chợ cách đó không xa, bà sợ quá "té đẻ" ra tôi. Vì má té đẻ bất đắc dỉ ở dọc đường không dự trù trước nên tôi vừa mới ra đời thì chân đạp đất bờ sông và trên đầu là bầu trời bao la bát ngát. Ba tôi chờ cho đến sẫm tối mới dám lén bồng về nhà. Nghe má kể lại, tôi đâm thắc mắc tại sao Tây dẫn Việt Minh đi bắn có liên can gì đến má khiến má phải sợ khi má chỉ là một người dân lại là phụ nữ? Má giãi thích lúc đó ba tôi cũng có hoạt động cho mấy ổng và trong giỏ đồ của má có thuốc Tây mang xuống Hòn Khói tiếp tế. Tôi hỏi tiếp tế cho ai, má bảo Việt Minh. À thì ra như vậy, má có tịt nên quịt đuôi.
Má tôi con đông, đẻ năm một, đẻ bình thường và tự nhiên, lại bận lo bươn chãi buôn bán nên má ít khi nhớ ngày tháng năm sinh của con mình, nhất là tôi má đẻ trong cơn són sợ. Tôi lớn lên không có giấy khai sanh. Chỉ mãi sau này nhờ đi học nên tôi mới được ba tôi làm cho một tờ giấy chứng chỉ thế vì lót lưng. Như vậy tôi bao nhiêu tuổi được sinh ra ngày tháng năm nào cả ba má tôi đều không nhớ chính xác, hỏi thét chỉ được trả lời là tuổi con trâu. Con trâu thì cái số trời định phải kéo cày không được làm quan ở nhà mát ăn bát vàng như thiên hạ, chỉ hy vọng nhờ đẻ ở bờ sông mệnh số trâu cày biến thành trâu nước bớt hắc ám phần nào.
Khi theo tụi bạn đi xem thầy tướng, ông thầy đòi hỏi sanh tháng nào ngày nào mới có thể gieo số tử vi, tôi chỉ biết trơ mắt ếch ấp a ấp úng. Tụi bạn gái cùng lớp cho là tôi dấu tuổi có âm mưu. Âm mưu khỉ khô gì khi chưa ráo cứt mũi, mép mới mọc mấy sợi lông măng xam xám loe hoe.Tuy thế khi về đến nhà tôi cũng chạy tìm má hỏi cho ra lẽ. Cho dù tra vấn má cách nào chăng nữa thì câu kết luận cuối cùng vẫn là "con đi tìm người lớn, ai đó nhớ ngày xử bắn bảy ông Việt Minh là ngày sanh ra con". Biết tìm ai để hỏi và hình như tôi cũng chẳng thiết tha vì không hơi sức đâu truy nguyên ngày đám giổ của những cái chết không cần thiết nhân danh để di lụy thêm nhiều cái chết oan ức sau này. Như vậy nếu căn cứ theo lời má thì khi hồn bảy ông Việt Minh lìa khỏi xác thì tôi được sanh ra đời. Khi họ đi thì tôi đến. Giữa sự đi của họ và sự đến của tôi giống như định mênh. Điều định mệnh này lập lại vào năm 1975, nhưng được đảo ngược. Năm 1975 khi họ đến thì tôi đi biệt xứ. Lần nào cũng có tiếng súng nổ - cùng họ - và tiếng khóc - cùng tôi.. Điều lập lại chẳng có gì khác nhau, có chăng tiếng khóc lần sau đã biết thế nào là lễ độ với trường đời nên nước mắt chảy ngược vào trong chứ không ồ ạt chảy ra ngoài vô tư như hồi được đẻ.
Cây cầu Dinh trấn thủ giữa phố Ninh Hòa như một cái rốn trên vuông bụng của một thiếu nữ xuân thì và chính vì vị trí toa. lạc đặc biệt đó mà nó trở thành hình tượng quê hương. Nhờ có nó nằm gát mình từ phía bên này phố chợ nên tôi mới có thể bước qua bên kia Vĩnh Phú để những lá thư tình có cớ tuôn về Phước Đa rồi quẹo lên Cầu Sắt, Quang Đông.
Nó cũng là cái cớ cho tất cả những nhà văn thơ Ninh Hòa đem vào sáng tác. Đối với họ con sông Dinh là biểu tượng. Đối với tôi con sông Dinh cũng chính tông là nơi chôn nhau cắt rốn. Khi bà mụ bất đắc dĩ nào đó nghiến răng bứt cuốn rốn tôi nối liền từ bụng má và đào lỗ chôn vội thì những giọt máu nhỉ ra từ cuống nhau vĩnh viễn muôn đời thấm sâu vào cỏ đất của bờ sông. Sau này lớn lên tôi vẫn thường tò mò một mình chui xuống gầm cầu để định vị chính xác đâu chính là nơi tôi lọt lòng? Cỏ trên bờ sông xơ xác vì rác rến, có cả một quãng thời gian dài tất cả rác rến ngoài chợ đều đổ ập lên núm đất cằn cọt phía dưới là đùm nhau.
Tôi thật tình vô tri.Tôi đứng vớ vẫn quan sát cảnh vật chung quanh chẳng có gì thơ mộng hay xúc động, vậy mà không hiểu nguyên cơ nào tôi có thể trở thành một nhà thở Chẳng lẽ làm thơ giống như đi thi tú tài gặp bữa trúng tủ hả họng ngáp trúng phải con ruồi? Hay nguyên cơ từ những cơn mưa dầm vào tháng chín tháng mười nước từ thượng nguồn Krông- But Ban Mê Thuột đổ xuống cuốn phăng ra cữa biển Hà Liên tất cả rác rến để đọng lại những ý thơ chứa đầy lãng mạn và thơ mộng? Tôi chịu thua không tìm ra câu giãi lý. Sau này tôi phát giác thêm cũng có thể tôi làm được thơ khởi nguyên không phải từ nơi cảnh vật mà từ nơi con người. Những người con gái tay yếu chân mềm chỉ cần dùng một phần công lực phủi nhẹ cũng đủ làm cho tôi té xuống văng ra thơ.
Vào mùa hè lòng sông cạn rong xanh đọng lại thành những mãng rêu màu xanh đậm trôi lềnh bềnh, mùi nước nồng mùi cá biển. Cái mùi kỳ cục thật trừu tượng ngữi được mà không tả được. Những ngày đầu tiên đến Mỹ suốt ngày ru rú trong nhà với máy lạnh có lần vừa mở cửa bước ra, không khí ập đến đã cho tôi cái cảm giác rất đột ngột. Tôi ngữi được cái mùi đó và bất giác kêu lên "mùi cầu Dinh". Sau này cái mùi cầu Dinh đại trà phổ quát hơn, tôi ngữi được khắp mọi nơi, trong những cơn mưa bất chợt làm con đường khuya thêm u ám lái xe một mình âm thầm đến hãng vào giờ ca ba , trong những giấc mơ nhất là vào những ngày giáp tết.
Nói cho cùng chiếc cầu ngắn củn bé nhỏ ở tận nơi cùng trời cuối đất toa. lạc ở một địa thế gần như vô danh tên gọi là Ninh Hòa giống y như cái ngăn đông đá trong tủ lạnh mỗi khi bất chợt tay chạm phải , hơi lạnh chuyền đột ngột qua các sợi tế bào trên từng ngón tay rồi chuyễn lẹ làng vào tim vào óc. Mỗi lần chạm phải như thế tôi phát giác ra một điều chân lý, đó là chiếc cầu với rong rêu trôi lền bềnh vào những mùa nước cạn không có chút gì thơ mộng kia chính là cái tủ lạnh kiên cố đặt sâu trong tiềm ức. Nó gắn liền với cuộc sống , những khi vui vẽ yên lành thì tôi quên bén nó đi, mỗi khi trái gió trở trời thì hơi lạnh quê nhà tỏa ra làm da dẽ nổi đầy gai góc.
Tôi tong teo giống như con cò ma lừng khừng lớn lên trong cái xóm nhỏ khoảng hai, ba chục gia đình trú ngụ tên gọi là "Đường luồng cây Thị" Xóm nằm trong hẽm rộng vừa lọt một chiếc xe đạp. Những gia đình chen lấn san sát nhau không ngày nào là không xãy ra chuyện để nói, và vì có quá nhiều chuyện để nói nên thét rồi được mọi người xem như chẳng có nói chuyện gì. Người lớn ban ngày kiếm một cái gì đó bưng ra chợ để buôn bán, chiều về mạnh nhà ai nấy ở, thỉnh thoảng chửi mắng nhau vì chuyện không đâu xem như là một cách để thay đổi không khí. Lách ra khỏi hẻm là con đường Võ Tánh rộng hơn, nhưng cũng đủ vừa hai chiếc xe đạp tránh né. Giáp góc đường cạnh nhà bác Hai Thiện có một trụ điện với bóng đèn 80 watt trên cao tỏa xuống vàng vọt. Đám con trai ban đêm thường tụ tập để chia phe bắn lộn với " đám Tàu " xóm chợ. Tụi tôi bẻ gấp đôi cọng điệp lại rồi dùng dây thun bắn nhau, đứa nào cũng muốn trở thành anh hùng. Hình như làm anh hùng thì không cần phải ăn, cần phải ngủ, thậm chí không cần phải đi cầu.
Người lớn khi kể chuyện đời xưa không có nhắc đến những điều đó, đôi lúc trong trí óc non nớt của tôi loé lên nghi vấn mà không dám hỏi, đó là nếu làm anh hùng mà không ăn, không ngủ, không đi cầu thì làm người thường có vẽ có lý hơn. Tôi đem thắc mắc này giãi bày với một thằng nhóc thì nó lên mặt thầy đời " làm anh hùng có một cái lợi là oai phong lẫm liệt, tất cả anh hùng đều khôi ngô tuấn tú " Khi tôi hỏi căn cứ vào đâu mà nó dám cả quyết tất cả, nó đáp nếu không tất cả thì ít nhất chín phần mười , có nghĩa là mười anh hùng thì đã có chín người đẹp trai đàn bà con gái đều mê mẫn." Còn người thứ mười thì sao?" Nó đáp " người thứ mười làm hiệp sĩ bịt mặt đi giết kẻ gian nên không ai biết dung mạo" Tôi học sử ký bảo quân Tàu đô hộ dân tộc ta đến cả ngàn năm, xóm chợ là nơi tập họp của người Tàu nên có mối thù bất tận đáy thiên. Thù thì phải trả và nếu trả được thù thì mới là anh hùng , mà nếu đã là anh hùng thì tự nhiên diện mạo sẽ trở thành khôi ngô tuấn tú và khỏi cần phải đi ỉa. Hồi đó nhà tôi không có cầu tiêu, mỗi lần đau bụng muốn giải quyết phải xách quần chạy một lèo đến gò mả cạnh Lăng Bà Vú hơn cả nữa cây số, nhiều khi đang chạy "cầm lòng không đậu " rớt rơi rãi dọc đường thiệt là thê thảm. Lăng Bà Vú được vua Gia Long sau khi đoạt ngôi từ Tây Sơn ra lệnh xây lên để ghi ơn người đàn bà đã chứa chấp khi người còn là bại tướng bị truy đuổi. Nội tôi khi còn sống thường kể về nhiều huyền thoại linh thiêng của Lăng Bà.