watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:04:2428/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Cái Bờ Đất
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Cái Bờ Đất

Tác giả: Lê Văn Thảo

Lâu lắm rồi họ mới gặp nhau. Họ có bốn người, bạn chiến đấu còn lại của một đại đội hồi kháng chiến chống Mỹ. Sau ngày giải phóng về thành phố, người này người kia chuyển ngành, tuổi đã lớn việc đi lại đâm khó khăn, lại bận bịu việc chung việc riêng họ ít có dịp gặp nhau. Cho tới hôm rồi đọc báo Sài Gòn Giải phóng thấy có bài viết về Trần Sĩ, một trong bốn người hiện đang làm giám đốc một công ty xuất nhập khẩu lớn của thành phố bị vướng vào một vụ bê bối sao đó, ba người kia định kéo tới hỏi coi đầu đuôi câu chuyện ra sao.
ý kiến đầu tiên về một cuộc họp mặt là của ông Hai Thân, người lớn tuổi nhứt trong bọn hiện đang dạy trường Đảng ở Thủ Đức. Ông vốn tính ngay thẳng, bộc trực nghe chuyện "sai trái" như vậy vội bỏ ngay công việc giảng dạy đón xe lam xuống nhà Ba Quới ở Gò Vấp để từ đó xuống nhà hai người kia ở nội thành, tính mọi chuyện sẽ được giải quyết xong "trong ngày".

Nhà Ba Quới có sân rộng làm ga-ra sửa xe hơi, phía trước chị vợ che chòi mở quán cà phê, khách hàng, thợ thầy ra vào tấp nập. Ông Hai Thân xuống xe đi vội vào nhà, vừa đi vừa nghĩ sẵn trong đầu câu hỏi như vầy: "Mày thấy thế nào hả Ba Quới, chuyện thằng Trần Sĩ nhắm có không? Chẳng lẽ nó đến nỗi như vậy? Hay bài báo viết sai? Mày nói ý của mày đi, rồi tao với mày sẽ tới hỏi ý thằng Năm Tính, rồi sau đó sẽ kéo tới nhà "hỏi chuyện" thằng Trần Sĩ". Chuyện gì ông Hai thân cũng tính trước cả, ngay ý nghĩ cũng xếp rõ ràng từng câu từng chữ. Nhưng ông thấy Ba Quới đang ngồi ngả người trên chiếc ghế mây vừa hút thuốc uống cà phê vừa chỉ chỏ đám thợ làm việc, không có vẻ gì chờ đón những câu hỏi của ông cả. Ba Quới kéo ghế mây cho ông Hai Thân ngồi, kêu cho ông ly trà đá rồi thong thả đốt tiếp điếu thuốc, nói:
- Ông xuống đây vì bài báo về thằng Trần Sĩ chớ gì? Được rồi, ông ngồi xuống đây đi, đừng nhăn nhó làm gì cho nó mau già tổn thọ. Chà, vậy là ông phải bỏ dạy hả?
- Chuyện tao không bằng chuyện thằng Trần Sĩ. mày nói đi, bài báo viết... Chẳng lẽ...
- Khoan đã, khoan đã... Rồi tôi sẽ nói... Chà khó quá!... Nói làm sao đây? Ông là tiên là phật trên trời, nói chuyện trần thế với ông khó quá.
- Chuyện sống chết mày nói như chuyện chơi.
- Ai sống ai chết? Thằng Trần Sĩ không chết đâu mà ông lo. Nó còn sống dài dài, có khi sống lâu hơn ông với tôi nữa. Đời vậy mà, thằng nhỏ thì chết khô xác, thằng lớn thì lên phơi phới. Ông nên lo thân ông thì hơn. Chà, lâu gặp ông quá, ông già quá! ốm quá! Nè, trong mấy đứa bạn, tôi thương ông nhứt đó nghen. Ông bồi dưỡng cái gì đi. Uống ly cà phê sữa nghen?

- Tao không uống cà phê - Ông Hai Thân cau có đưa mắt nhìn quanh - Chà, mày làm ăn "ba lợi ích" coi bộ khá quá hả?
- Khá cái con khỉ. Nhưng cũng không nghèo hơn thằng nào. Đại khái đủ sống thôi. Còn ông thế nào, vẫn một thân một mình ăn cơm tập thể, sống bằng nghị quyết hả?
- Tao vậy thôi.
- Còn tôi thì chuyển sang kinh doanh rồi. Phải sống chớ. Đây là xí nghiệp đời sống của cơ quan tôi, xin ông đừng dòm ngó chi cho mắc công. Tôi làm ăn đàng hoàng, nộp lời về cho cơ quan mười phần trăm, còn tôi thì lời ăn lỗ chịu, đúng theo chủ trương Nhà nước. Tôi không giỏi giang được như thằng Trần Sĩ, chỉ làm ăn cò con như vầy thôi.
Ông Hai Thân cắt ngang:

- Lâu nay mày có gặp thằng Trần Sĩ không ?
- Không. Tôi không có thì giờ. Ông coi công việc tôi như vầy làm sao rảnh được. Tôi có thấy bài báo viết về thằng Trần Sĩ nhưng không đọc. Tôi đọc làm gì ? Thằng Trần Sĩ làm được cứ để cho nó làm nó có nhám nhúa chút đỉnh cũng không sao, nó làm cho Nhà nước mười nó cũng phải được hưởng một. Hay để ông làm ? Hà hà, những người "tư tưởng" như ông làm kinh tế thì coi như cả nước vác bị đi ăn xin...
Ông Hai Thân lại cắt ngang:
- Lâu nay mày cũng không gặp thằng Năm Tính hả ?
- Tôi cũng thương thằng đó nữa, cả đời nó sao cứ gặp chuyện không may. Nhưng phải đành chịu vậy thôi chớ biết làm sao. Tôi giúp gì được cho nó? Ông có giúp được không ? Đó ông thấy không...
- Nghe mày nói tao chán quá!
- Ông không nên chán. Ông ở đây ăn cơm với tôi, chơi chút rồi chiều mát trở về Thủ Đức, kệ bài báo với thằng Trần Sĩ. Thời buổi này làm kinh tế cứ như làm xiếc vậy, hoặc là lên thiên đàng hoặc là sa xuống địa ngục, ông khỏi lo chi cho mắc công. Đời mà, chuyện tới đâu tính tới đó thôi. Để tôi kiếm cái gì cho ông bồi dưỡng. Chà tôi thương ông quá, tôi thương ông lắm nghen ông Hai - Ba Quới quay sang gọi đám thợ - Thôi trưa rồi ta nghỉ tay, kiếm cái gì lai rai chút đi anh em.

Có vẻ như ngày nào Ba Quới cũng ngồi trên chiếc ghế mây đó hút thuốc uống cà phê chỉ chỏ đám thợ làm việc, rồi ăn cơm, nhậu "lai rai", ngủ gà ngủ gật, lại thức dậy chỉ chỏ, ăn cơm, nhậu cho đến chiều tối. Ông Hai Thân không thể hình dung nổi đó là Ba Quới! Khi xưa là một chiến sĩ trinh sát tuy không xuất sắc gì lắm nhưng cũng nhanh nhẹn, tháo vát, việc gì giao cũng làm tròn.
Ông hỏi:
- Mày cũng không còn làm việc cơ quan nữa hả ?
- ý ông muốn nói là không còn trong biên chế chứ gì? Trời ơi "xưa" lắm rồi ông Hai ơi, thời buổi này mà còn "trong ngoài" gì nữa. Cái thời mình khổ vì cái mác biên chế đã qua rồi. Nhớ hồi đó mấy món nhu yếu phẩm như gói mì tôm với hộp kem đánh răng không dùng cũng không dám đem bán, bởi đó là ân huệ của Đảng và Nhà nước. Thôi được, ông cứ coi như tôi đang ở trong biên chế của cái xí nghiệp đời sống này, với quán cà phê này của vợ tôi.

- Không, ý tao muốn nói công việc chuyên môn kìa.
- Chuyên môn nào? Hồi xưa tôi cầm súng là làm chuyên môn hả? Rồi sau đó qua làm tổ chức, tuyên truyền, công đoàn, thi đua... đó là chuyên môn đó hay sao? Thôi vô đi anh em !
Đám thợ quây quần lại, người ngồi trên ghế, người ngồi dưới đất, kẻ uống rượu, người ăn hủ tíu, người nhai khúc bánh mì thịt mua từ ngoài quán cà phê. Ông Hai Thân ngồi riêng ra một góc chỉ nhá một khúc bánh mì không với ly nước trà đá. Ba Quới vừa nhậu với đám thợ vừa tiếp chuyện ông Hai Thân:
- Ông Hai coi tôi mần ăn như vầy có được không? Cũng "êm xuôi" quá hả? Tôi cứ sửa cà rịch cà tang mỗi tháng vài chiếc xe hơi là đủ vốn rồi - Anh hỏi đám thợ - Tháng này mình làm được mấy chiếc hả anh em? Đừng tính chiếc này, để nó qua tháng sau - Rồi anh cười với ông Hai Thân - Như vậy đó ông Hai, tôi luôn luôn dự trữ vài chiếc xe không đưa vào sổ, tháng nào hụt tôi chêm vào để tháng tháng anh em trong cơ quan được lãnh tiền ba lợi ích đều đều khỏi có thắc mắc gì hết. Cho nó yên phận ông Hai à, mình có tính làm giàu làm có gì đâu, cái chính là cho vợ con có thêm được chút đỉnh tiền chợ. Thì cơ quan có mất gì đâu nào? Cơ quan chỉ bỏ ra một mình tôi còn tôi thì coi như nuôi cả cơ quan, còn muốn gì nữa? Thôi vô đi anh em!

Ông Hai Thân hỏi giọng cay đắng:
- Cơ quan tin mày quá hả ?
Ba Quới cười:
- Sao lại không tin ? Còn nếu muốn cử người kiểm tra thì cử đi, nhưng như vậy thì phải cử người thứ hai để kiểm tra người thứ nhứt, rồi người thứ ba kiểm tra người thứ hai. Đời vậy mà, đã không tin thì không tin ai hết.
- Mày nói năng nghe lạ quá.
- Không lạ đâu. Xưa nay tôi vẫn vậy, tại ông không biết đó thôi, tất cả chúng mình hồi trước thế nào bây giờ thế ấy.
- Mầy lo mần ăn không tính gì nữa hả ?
- Tính gì bây giờ ? Ông tính đi, tính toán là chuyện của ông mà.
- Sao mày không về hưu luôn cho rồi ?

- Ấy chết, không được về hưu. Thời buổi này không dựa vào Nhà nước thì chết. Nhưng cũng đừng dựa hết mình, lăn xả kiểu thằng Trần Sĩ chỉ tổ cho thằng khác dòm ngó. Cứ sống làng nhàng, nửa dơi nửa chuột là tốt nhứt - Anh nói với đám thợ - Nè mấy bạn trẻ đừng nghe chuyện mấy thằng già này nghen, đây là thằng già hết xí hoách nói chuyện tào lao chơi vậy thôi - Anh lại quay sang ông Hai Thân - Ông Hai à, tôi nói riêng với ông điều này: Mình đóng góp như vậy là đủ quá rồi, cũng hơn nửa đời người rồi, mồ hôi nước mắt còn thiếu cái gì nữa đâu. Nghĩ mà thương cho đám tụi mình thằng nào thằng nấy tóc bạc trắng cả, tài năng không có, chuyên môn chữ nghĩa cũng không, vốn liếng chỉ có nghề đánh giặc với mớ chính trị học lõm bõm, thôi thì đành sống làng nhàng cho đến hết đời chớ mong làm vương làm tướng gì bây giờ - Mặt Ba Quới từ đỏ rần chuyển sang xanh xám, rồi trắng bệch ra - Thôi phận ai nấy lo, chuyện thằng Trần Sĩ cứ để yên cho nó tính, mình đi gặp nó bươi móc lại chuyện cũ làm gì.
Ông Hai Thân nói:
- Là do tao cứ nhớ chuyện hồi xưa thằng Trần Sĩ vượt qua cái bờ đất.

Ba Quới cười buồn:
- Trời ơi, ông còn nhớ chuyện đó hả ? Thương ông quá chừng.
- Tụi bây đừng cười tao, không có tao nhớ tới những chuyện đó không còn thằng nào nhớ hết.
- Quả là có như vậy. Được, ông cứ nhớ, rồi tụi này sẽ đóng kệ đưa ông lên bàn thờ. Thôi làm việc đi anh em !
Đám thợ quây lại chiếc xe hơi, tiếng đục gõ lại vang lên. Ba Quới tiếp tục hò hét chỉ chỏ, chun ra chun vô dưới gầm chiếc xe, một chập sau trở lại ngồi lên ghế mây, đưa tay lau mồ hôi trên trán:
- Thiếu chút nữa mất ăn với chiếc xe này rồi. Thiệt thầy với thợ, thời buổi như vậy đó.
Ông Hai Thân đứng dậy:
- Thôi tao đi đây. Mày không đi tao xuống rủ thằng Năm Tính cùng đi.

Ba Quới quay lại nhăn mặt khổ sở:
- Thằng Năm Tính không đi đâu, ông biết tính nó rồi, chuyện trời sập nó còn không màng huống chi ba chuyện lẻ tẻ này.
- Nó không đi tao ti một mình, bạn bè không gặp nhau lúc này còn lúc nào nữa.
Ba Quới lại đưa tay vuốt mồ hôi trên mặt, càng nhăn nhó hơn:
- Ông Hai thông cảm, tôi phải làm gấp chiếc xe này, nếu rảnh tôi cùng đi với ông.
- Tùy thôi, ai muốn sao thì muốn. Riêng tao, trước sau tao vẫn như một. Hồi xưa thằng Trần Sĩ vượt qua cái bờ đất tao khen nó giờ nó sai trái tao phải nói với nó.
- Ông ơi, cái bờ đất thằng nào không vượt qua, hôm đó kẻ trước người sau đều vượt qua hết. Nhưng đó là chuyện hồi xưa, lúc thằng địch còn ở trước mặt, còn bây giờ thằng địch có cùng khắp hết, có khi có ở trong ông trong tôi, vậy biết đâu mà khen chê, đánh giá... Ông nhứt định đi hả?
- Tao đi đây.
- Khoan đã... Thiệt bạn với bè... Thôi tôi tính như vầy, để thủng thẳng rồi đi, được không ? Ông làm gì như bị lửa đốt vô đít vậy ? Ông về Thủ Đức nghỉ đi, để chiều rảnh tôi đi gặp thằng Năm Tính cho. Trời ơi, ông bày chuyện ra làm chi vậy ? Có gì đâu mà nói ? Mà nói để làm gì ?

*    *
*

Hồi xưa ở đại đội Ba Quới làm trinh sát, thường đi công tác độc lập, trước mỗi trận đánh cùng một tổ vài ba người đi lùng sục trong các chi khu, ấp chiến lược, các chợ huyện chợ tỉnh, ban đêm đi ban ngày ngủ, phần lớn thời gian ở xa đơn vị, quan hệ gặp gỡ anh em thường chỉ qua các cuộc họp tổng kết trong những đợt nghỉ quân. Trong những đợt kiểm điểm tổng kết anh em chỉ qua lời anh báo cáo mà nhận xét, đánh giá còn chuyện anh công tác như thế nào, tính khí vui buồn ra sao khó biết đích xác được. Hơn nữa tính Ba Quới hay bô lô ba la, chuyện gì cũng nói nửa đùa nửa thật, cứ tưng tửng không biết ra sao. Anh thường không thích nhận xét đánh giá người khác cũng không thích ai nhận xét đánh giá mình. Trong công tác anh làm theo sự cắt đặt của ban chỉ huy, ít chịu trách nhiệm chính trong công việc, không thích chỉ huy và cũng né tránh người khác chỉ huy mình. Nhìn chung anh là một chiến sĩ thuộc loại trung bình, không sắc sảo, chưa bao giờ đạt được thành tích cao nhưng mọi công việc đều hoàn thành, không để mích lòng ai và cũng không để ai làm mình phiền lòng.
Tuy vậy do ở lâu trong đơn vị, và do tính tình vui vẻ cởi mở anh lại là đầu mối ràng buộc mọi người. Ai đi đâu cũng viết thư về cho anh, anh nhắn bảo người này người nọ tin tức của nhau, giữ những kỷ vật những chiến sĩ hy sinh, thay mặt anh em đi vắng tiếp các thân nhân gia đình từ dưới quê lên thăm. Trong đại đội anh giữ hòa khí chung tránh không để xảy ra những đụng chạm xích mích lớn, thường tổ chức những cuộc vui đùa, những đêm liên hoan, những buổi uống trà chuyện vãn cười giỡn thâu đêm.

Sau ngày giải phóng cùng với nhiều người do lớn tuổi, "trình độ có hạn" anh chuyển ngành, đi hết cơ quan này tới cơ quan khác làm những việc vừa tạm thời vừa "mũi nhọn" như ban quân quản, ban cải tạo, ban chỉ đạo vùng kinh tế mới, và ngay trong những cơ quan ấy cũng chỉ làm những việc của công đoàn, thi đua, chữ thập đỏ, thậm chí có một lần anh phụ trách cả một đội phòng cháy chữa cháy. Vẫn như xưa, trên giao việc gì anh làm việc nấy, không thắc mắc cũng không làm hết mình để nổi bật. Cũng như giờ đây anh phụ trách cái xí nghiệp đời sống này vậy.
Ba Quới về đây đã ba năm. Năm đầu làm việc năng nổ, hăng say vì công việc mới lạ, vì lợi ích đem về cho cơ quan được mọi người khen ngợi. Sang năm thứ hai công việc nở ra, những khó khăn cũng kéo đến tuy không lớn gì nhưng cũng quá tầm tay của anh. Anh bắt đầu thấy chán nản, bực bội nhưng không thể dừng lại được, cơ quan cũng đã tin anh và anh cũng đã quen với sinh hoạt "có thêm đồng ra đồng vào" ngồi trên ghế mây chỉ trỏ, nhậu lai rai suốt từ sáng tới chiều như thế này. Ngoài ra - điều này chỉ riêng anh biết thôi - anh còn kẹt với những khoản chi "ngoài kế hoạch" tuy có làm anh áy náy nhưng anh thấy nó cũng có cái thú vị riêng của nó. Người ta thấy anh bắt đầu lên tiếng than vãn, đôi khi tỏ ra tức giận, đồng thời cũng tìm cách khéo léo đối phó lại tất cả những thứ đó. Gần đây - nghĩa là đã sang năm thứ ba - anh quen dần với công việc và cũng quen dần với sự chịu đựng, công việc bên ngoài có vẻ yên ổn nhưng trong thâm tâm Ba Quới có cảm giác như sắp có giớ lớn nổi lên. Anh không còn thấy hứng thú nữa, tâm trạng cứ thấp thỏm, buồn vui thất thường, cảm giác xa lạ, trống trải, lúc nào cũng nghĩ rằng công việc sắp tuột khỏi tay mình hoặc mình sắp phạm một tội nào đó. "Tại sao mình lại nhận công việc này ?", nhiều lúc Ba Quới tự hỏi như thế. Nhưng đó là những lúc trong đêm khuya thanh vắng, chỉ có một mình, những lúc anh có thể suy nghĩ được, còn ban ngày anh bù đầu vào việc chỉ chỏ, tính toán, trả giá, kèn cựa, phân nhau hơn thiệt, lúc đó mọi người chỉ thấy Ba Quới miệt mài với công việc, vui vẻ, cởi mở, một lòng phục tùng tổ chức và sự yên ấm của gia đình.
Ba Quới có hai con, một trai một gái, đứa lớn đã vào đại học, đứa kế học cấp ba, chuẩn bị đi lao động nước ngoài. Chị vợ suốt những năm anh đi kháng chiến ở nhà nuôi con, thỉnh thoảng tom góp tiền bạồc đi thăm anh (đứa con sau là kết quả của một lần "đi thăm chồng" đó), từ sau ngày giải phóng anh về chị vẫn tần tảo buôn bán để nuôi sống gia đình, không than cực kể khổ lúc Ba Quới sống với đồng lương chết đói, cũng không khoe khoang khi anh ăn nên làm ra.

Trước kia chị gần như là người chủ gia đình, mọi lo toan tính toán đều ở chị, Ba Quới chỉ có đi làm việc ở cơ quan rồi đi chơi bời với bạn bè, về nhà chỉ làm có mỗi một việc là "kể chuyện vui kháng chiến" cho các con nghe. Từ ngày Ba Quới mở xí nghiệp đời sống về ở nhà chị giao quyền chủ nhà cho anh khiến Ba Quới vừa thấy tự hào vừa thấy vướng víu, và trên hết là trách nhiệm và gánh nặng gia đình khiến anh không còn muốn đi đâu, làm gì khác nữa.
Sau khi ông Hai Thân đi rồi Ba Quới đâm tư lự, bớt cười nói không hào hứng bàn chuyện làm ăn với đám thợ nữa. Ngồi thêm một lúc coi đám thợ làm việc Ba Quới bỗng bỏ ra ngoài quán cà phê kiếm cái ghế ở một góc ngồi hút thuốc ngắm xe cộ ngoài đường không nói chuyện với ai.
Hồi lâu chị vợ rảnh tay bán cà phê, kéo ghế ngồi với anh báo là lúc nãy đằng phòng thuế của quận đến hỏi mức thuế của xí nghiệp, nói có thể tăng thuế vào tháng sau.
Ba Quới lớn tiếng:
- Tăng là sao? Đáng lẽ giảm sao lại tăng? Đây là xí nghiệp đời sống cuả cơ quan, tôi làm là để lo đời sống anh em.
Chị vợ nói:
- Tôi cũng nói như vậy nhưng họ nói xí nghiệp nào cũng lo cho đời sống của mọi người, còn thuế thì phải đóng. Họ còn đòi dẹp quán này đi nữa, nói là chiếm lòng lề đường.

Ba Quới tức giận:
- Vậy thì dẹp hết, không buôn bán mần ăn gì nữa hết.
Chị vợ làm thinh, chờ Ba Quới hết nổi nóng mới bắt qua chuyện khác:
- Cái tủ lạnh mình hư rồi, mình tính sửa lại hay mua cái mới?
- Còn cái tivi nữa, đám trẻ muốn đổi cái tivi màu.
- Chuyện tủ lạnh tivi mình nói với tôi làm chi?
Chị vợ bỏ đi vào trong. Một chút tay quản đốc đi ra báo chiếc xe hôm rồi hư lại sao đó, người chủ xe đòi lấy tiền lại. Ba Quới nói:
- Không sửa lại được sao?
- Người ta nói không tin mình nữa.
- Được . Cứ nói tiền nộp vào cơ quan Nhà nước hết rồi.
- Nhưng mình có làm tờ bảo hành.
- Được rồi, cậu tính sao thì tính, đã đương ra làm cùng chịu với nhau, cùng lắm tháng này khất tiền cơ quan.

- Còn chuyện này nữa...
- Chuyện gì ?
- Tay thư ký công đoàn cơ quan vừa rà rê qua đây có ý dòm ngó công việc làm ăn của mình. Hắn nói: "Thằng cha Ba Quới làm ăn khá quá, mình xin ra đây làm ba lợi ích kiếm chút cháo coi".
Ba Quới đập bàn:
- Khá cái con khỉ! Sao hồi tao cực khổ gây dựng cái xí nghiệp này không thấy thằng nào ló mặt tới, giờ cơ ngơi đàng hoàng ai cũng nhào vô đòi ăn chia?
Người quản đốc làm thinh. Hồi lâu Ba Quới dịu giọng:
- Thôi muốn tính sao thì tính, có lỗ lã chút ít cũng không sao, mình cũng không làm giàu ở cái xí nghiệp cò con này đâu. Cậu cho anh em mình nghỉ đi, tôi đi đằng này một chút.
- Anh đi đâu?

- Đi gặp một thằng bạn cũ, một thằng nghèo nhất, khổ nhất trong đám tụi này. Không phải tôi đi lo cho nó đâu mà lo cho một thằng giám đốc giàu có. Chuyện đời mà, như vậy mới tức cười.
Người quản đốc yên lặng lắng nghe. Anh là một thanh niên chưa ba mươi, đã tốt nghiệp kỹ sư cơ khí trường đại học bách khoa, không tìm được việc làm được Ba Quới giúp đỡ đưa về đây. Anh làm việc ban ngày, ban đêm cặm cụi soạn thảo một công trình gì đó với đám bạn học cũ của anh.
- Đời vậy đó - Ba Quới nói tiếp - Thằng được cứ được mãi, thằng khổ cứ khổ riết. Trên đời tôi chưa thấy ai khổ bằng thằng Năm Tính, từ nhỏ tới lớn toàn gặp chuyện không may, tới hồi đi kháng chiến cũng vậy. Nhớ có một chuyện như thế này: Lần đó chúng tôi dự trận, cả đại đội không ai bị sao cả, trên đường rút quân dừng lại ngủ, giữa đêm chợt nghe có tiếng la hét. Cái gì vậy? Biệt kích đánh chụp hay cháy rừng? Không có gì cả, chỉ có một nhánh cây khô từ trên cao rớt xuống, rớt nhằm thằng Năm Tính, trúng ngay giữa mặt máu me chảy tùm lum.
Anh đi gặp giám đốc có chuyện gì vậy?
- Chuyện bài báo bọn bây đọc hồi sáng đó. Nó đó, thằng giám đốc Trần Sĩ đó. Nó là thằng gặp may nhất trong đám tụi này. Chức tước cứ lên phơi phới, vợ đẹp con ngoan, nhà cao cửa rộng không thiếu thứ gì. Vậy mà bây giờ không biết sao bị vướng vô một chuyện gì đó. Chuyện gì tôi không biết và cũng không muốn biết, thằng Năm Tính thì lại càng ghét xía vô những chuyện như vậy. Chỉ có ông Hai Thân, ông già gặp cậu hồi nãy đó, ông ấy lại muốn moi móc cho tới cùng.

Tính ông ấy như vậy. Thật ra ông ấy cũng có lý của mình. Tụi này còn lại chỉ có bốn người, quan hệ tình cảm cứ ngày một lỏng lẻo dần, giờ chẳng lẽ lại bới tung ra hết? Tôi muốn được yên thân rút về làm cái xí nghiệp này vậy mà cũng không yên. Đời khó lắm, cậu cứ sống đi rồi biết, chuyện đời miếng cơm manh áo không ra gì nhưng như món nợ đời cứ thêm chồng chất, rồi đến lúc nào đó nó nhấn chìm mình hồi nào không hay. Tôi không muốn đi gặp thằng Trần Sĩ chút nào nhưng chắc cũng phải đi, coi như lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau.
Tay quản đốc đã bỏ đi từ hồi nào. Ba Quới ngồi lại một mình tiếp tục hút thuốc, cho tới lúc chị vợ đi ra nói:
- Ông vô ăn cơm rồi đi đâu thì đi.
Ba Quới đáp:
- Tôi không đi. Tôi mệt quá rồi. Từ rày về sau chuyện nhà cửa tôi cũng giao hết cho bà. Tôi ra ngoài uống li bia đây.
Ba Quới vô nhà thay đồ, phòng tối mờ mờ Ba Quới nhìn cái tivi, cái tủ lạnh, bộ sa lông... Đó là những món của chủ cũ để lại cũng đã cũ kỹ, hư hao hết rồi.
"Phải mất bao nhiêu lâu nữa ? - Ba Quới buồn rầu nghĩ bụng - Hai năm cho cái tivi, ba năm cho cái tủ lạnh, cứ thế mà sắm sanh chắt mót cái này mới, cái kia lại cũ, cứ thế bù đầu vào với tiền bạc, tính toán, chạy vạy, ganh đua hơn thiệt cho tới lúc tàn đời hồi nào không hay..."
Ba Quới đi ra đường, không ghé quán bia mà đi thẳng tới nhà Năm Tính.

*    *

*

Nhà Năm Tính ở trong một khu lao động nhà cửa chen chúc, xô bồ xô bộn đường ngang ngõ dọc, Ba Quới phải đi lòng vòng cả mấy tiếng đồng hồ mới tới được. Đó là một căn nhà nhỏ mái tôn vách ván, nằm nép sau một căn nhà khác cũng nhỏ như vậy, cửa trước nhà này nằm ngay sau nhà kia. Nhà thấy có đông người đi ra vô nhưng gọi mãi không thấy ai ra mở cửa, chỉ nghe văng vẳng tiếng quát tháo với tiếng trẻ nít kêu khóc. Ba Quới gọi nữa. Lâu lắm mới thấy Năm Tính đi ra, tóc rối bù, quần áo xốc xếch, trên tay bồng đứa nhỏ đang giãy khóc. Không chào hỏi cũng không nhìn lên, Năm Tính lặng lẽ mở cửa cho Ba Quới vào. Phía sau nhà có tiếng ồm ồm của người đàn bà - có lẽ là vợ Năm Tính - giọng đay nghiến: "Nhà không còn một hột gạo mà tụi bây cứ nhởn nhơ, tao cho nhịn đói hết". Tiếng một cô con gái đáp lại: "Vậy má biểu tụi con làm sao, đi làm đĩ đem tiền về cho má hả?".

Năm Tính như không nghe thấy gì, điềm nhiên kéo ghế cho Ba Quới ngồi, hỏi cụt ngủn:
- Có chuyện gì hả?
Ba Quới đáp:
- Chuyện bài báo về thằng Sĩ đó mà. Mày đọc rồi chớ gì ? Ông Hai Thân sai tao tới hỏi ý kiến mày ra sao, có cần gặp thằng Trần Sĩ để hỏi chuyện không.
Năm Tính làm thinh. Đứa nhỏ lại giãy khóc. Bỗng thấy từ trong nhà đi ra hai anh con trai từ trong nhà đi ra mình trần để lộ những vết xăm trên cánh tay, trên ngực. Hai thanh niên nhìn Năm Tính gườm gườm rồi nhìn Ba Quới cũng với vẻ gườm gườm như vậy. Ba Quới nghĩ một lúc mới nhớ ra đó là hai người con trai của Năm Tính, con ruột anh đẻ hồi trước khi đi cách mạng.

Gia đình Năm Tính là điển hình cho sự lục đục, xào xáo kéo dài. Hồi trong chiến tranh, một hôm ở đơn vị anh em thấy Năm Tính nhận được thư dưới quê gửi lên báo vợ anh đã lấy chồng khác. Lúc đó anh đã có hai con rồi, chính hai anh con trai này đây. Nghe tin Năm Tính không nói gì cả. Anh vốn ít nói. Vả lại nói gì bây giờ ? Hai năm sau, một hôm đang giữa đường hành quân bỗng thấy chị vợ xuất hiện, không biết bằng cách nào chị tìm được đơn vị anh giữa rừng sâu ở miền Đông, chị túm lấy Năm Tính tru tréo lên với anh rằng anh đã bỏ chị, anh đi bao nhiêu năm không thư từ gì hết, một lời nhắn tin cũng không, chính do vậy chị tưởng anh đã chết mới đi lấy chồng khác. Và cũng do vậy chị lấy nhằm thằng chồng không ra gì, nó bắt chị làm lụng cực nhọc, đánh đập chị, bắt chị đấm lưng cho mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Chị không chịu đấm lưng nó đuổi chị ra khỏi nhà, xua chị ra tới ngã tư đường, và từ ngã tư đường đó chị đi luôn lên tới đây. "Con đâu ?", Năm Tính hỏi. Chị vợ lại tru tréo lên : Hai đứa con bỏ nhà đi hoang từ lâu rồi, chúng giống tính Năm Tính bỏ nhà đi không nói một lời nào. Rồi chị lại khóc lóc, la hét nói Năm Tính là đồ phản bội, tàn nhẫn vô lương tâm, người chỉ nghĩ tới mình không nghĩ tới ai. Cuối cùng chị thôi khóc, nói chị không còn ai nữa, chỗ ở cũng không, chỉ còn có anh lên đây ở với anh thôi. Lúc đó đơn vị đang trên đường hành quân đánh một trận lớn. Rừng miền Đông cuối mùa mưa, đất rừng sũng nước, bốn bên không có xóm làng, nhà cửa chi cả. Chật vật lắm Năm Tính mới chạy gởi chị được vào một trạm giao liên gần đó, sau trận đánh trở về đem gởi chị vào một vùng dân trong một lõm căn cứ. Từ đó cho tới cuối chiến dịch rảnh rỗi lúc nào Năm Tính chạy ra với chị, lo chỗ ăn chỗ ở cho chị, lo việc làm cho chị. Ban đầu chị kêu khóc than cực kể khổ, sau không khóc chỉ than cực, sau nữa không than cực cũng không khóc. Xóm dân làm nghề buôn bán, sống bám theo các cơ quan, đơn vị bộ đội, như thường thấy trong chiến tranh. Cảnh sống đó có vẻ hợp với chị. Có một lần Năm Tính ra thăm chị, chị nói không cần anh nữa, tùy anh muốn hiểu sao thì hiểu. Năm Tính vốn chậm hiểu, phải một thời gian sau có người nói cho anh biết chuyện chị lăng nhăng với tay chủ quán nhà bên cạnh, anh mới vỡ lẽ ra. Nhưng anh vẫn không nói gì. Cho tới lúc chị dời qua ở hẳn với tay chủ quán, từ chối việc anh ghé thăm, rồi sau đó có với y ta đứa con gái anh vẫn không hé miệng nói một lời.

Rồi tới chuyện Năm Tính bị thương. Vết thương không nặng, không phải do chiến đấu mà do một lần đi tải gạo anh bị té lăn xuống vực. Lúc đó đơn vị đang trên đường hành quân, bịnh viện dã chiến thiếu thốn đủ thứ, vết thương lành anh gần như bị liệt, chỉ hoạt động được một cách yếu ớt. Nhưng vết thương của Năm Tính không phải ở chỗ đó.
Sau khi bị thương Năm Tính được đưa về phía sau, được giao giữ một kho gạo không rõ ở đâu, không biết của ai, chỉ được dặn "có ai cầm tờ giấy đóng dấu ký tên như thế này, thế này... thì được lãnh". Không có ai tới lãnh cả. Dạo đó đang bắt đầu chiến dịch lớn giải phóng miền Nam, các đơn vị bộ đội tiến hết về đồng bằng, cái kho gạo nằm sâu trong rừng không còn ai nhớ tới. Tổ giữ kho gạo có ba người, Năm Tính là tổ trường. Sau khi cắt đặt xong mọi chuyện ăn ở, canh gác, Năm Tính bòng bị lên vai ra đi tìm đường dọ coi địa hình kho gạo nằm chỗ nào trong bản đồ. Hôm người dẫn đường đưa họ tới đây do cập rập anh ta chỉ nói sơ qua năm ba câu giới thiệu, nấu một nồi cơm lớn ăn rồi ra đi ngay, và sáng ra tổ Năm Tính chỉ thấy cái kho gạo và bốn bên là rừng. Năm Tính lặn lội suốt cả tuần trong rừng, ăn hết ruột tượng gạo với vô số măng le, cuối cùng chỉ được biết có mỗi một chuyện là kho gạo của họ nằm cạnh một kho gạo khác cũng bị bỏ quên như thế. Nhiều tháng trôi qua vẫn không thấy có ai cầm tờ giấy đóng dấu ký tên tới lãnh gạo cả. Mặt trận đã áp sát vào Sài Gòn, rừng vắng tanh, ngay tiếng bom pháo vọng đến cũng không thấy có. Năm Tính sốt ruột lại bòng bị ra đi, anh đến nhiều nơi, gặp nhiều cơ quan đơn vị nhưng không ai nhận kho gạo đó là của mình. Người ta đáp vòng vo, lập lờ, đôi chỗ còn tỏ ra tức giận vì bị làm phiền. Năm Tính vẫn kiên trì đi mãi, suốt mấy tháng trời anh lặn lội không còn sót chỗ nào trong vùng rừng đó. Có một lần anh gặp được một cơ quan cấp cao, hình như một cục một ban nào đó nhưng người ta chỉ nói: Chúng tôi không biết, nó không có trong sổ sách. Người ta chỉ tin vào sổ sách, còn kho gạo thật sự nằm trong rừng không ai biết tới. Kho gạo bị mục ẩm dần, bị chuột ăn, coi như hư hao mất một nửa. Rồi tới một đêm bị một cơn giông, kho gạo bị tốc mái, gạo bị ướt hầu hết. Đêm đó ba người ra sức vật lộn trong cơn mưa tầm tã, cuối cùng nằm vật ra nhìn kho gạo chảy lênh láng ra rừng. Tới đó không còn gì để giữ nhưng họ vẫn cứ phải ở đó gần cả năm nữa, cho tới ngày giải phóng.

Tin giải phóng Sài Gòn đến với họ thật chậm, cả tháng sau đó, do một đoàn người đi lạc trong rừng báo cho họ biết. Nghe tin họ thu xếp đồ đạc lần tìm đường đi về thành phố. Năm Tính đi hớn hở, nhưng khi đến thành phố anh mới ngỡ ngàng không biết mình tìm về đâu, ở đơn vị nào. Từ lâu anh không còn ở trong biên chế đơn vị cũ nữa, còn kho gạo anh giữ thật sự thuộc đơn vị nào anh không biết. Anh bắt đầu rà tìm khắp mọi nơi, những đơn vị cơ quan anh nghĩ có "gần gũi, quen biết" với kho gạo để họ có thể tìm cách "giải quyết" cho anh. Nhưng lại cũng như lần trước, ở đâu người ta cũng chỉ nói vòng vo, lập lờ, hỏi đủ thứ giấy tờ, chữ kí, hồ sơ lý lịch, còn bản thân Năm Tính thì không ai hỏi tới. Năm Tính cãi cọ, năn nỉ, viết hết tờ lý lịch này đến tờ lý lịch khác, rốt rồi người ta cũng thương tình đem anh về một cơ quan nào đó bảo "nằm chờ". Năm Tính "chờ" đúng một năm, thấy không ai hỏi tới bèn viết một tờ lý lịch khác nữa, tờ lý lịch cuối cùng với nguyện vọng "được nghỉ hưu vì lý đo sức khỏe". Lần này Năm Tính không phải đợi lâu, người ta chấp nhận dễ dàng, chỉ tuần sau Năm Tính đã có đủ giấy tờ về sinh hoạt ở phường và ăn cơm ở nhà vợ.

Không biết ngẫu nhiên hay đã tính trước, ngay khi anh cầm tờ giấy về hưu trong tay, chị vợ đến đón anh. Trước đó, từ ngày mới về thành phố anh đã ra sức tìm chị - không phải vì chị mà vì hai đứa con - nhưng mãi không gặp. Giờ đây bỗng chị xuất hiện nói : "Má con tôi đang chờ ông ở nhà, ông về đi". Năm Tính không nói gì cả. lẳng lặng vác ba lô theo chị vợ về nhà. Rốt rồi anh cũng có đủ cả : nhà cửa, vợ con. Nhưng mà như thế đó : Hai đứa con trai một lính ngụy, một buôn chợ trời trước ngày giải phóng không biết lang bạt nơi đâu giờ về nằm nhà suốt ngày đi ra đi vô hút thuốc phả khói mù mịt, chửi đổng, tổ chức nhậu nhẹt, gây sự đánh lộn từ đầu hẻm tới cuối hẻm. Rồi lại thấy đem về hai cô con gái nói là con dâu, móng tay móng chân sơn đỏ chót, ăn nói hỗn hào, ban đêm đi đâu mất, ban ngày nằm dài trên giường hát ong ỏng những bài hát nghe như rên như khóc. Chị vợ từ hồi cặp với tay chủ quán mần ăn phát đạt, rồi về chợ tỉnh, rồi lên thành phố, nghe nói một dạo làm chủ cả một nhà hàng "mát xa", nhưng rồi không hiểu sao bị tán gia bại sản, bị tù. Ngày ba mươi tháng tư chị ra khỏi tù, của cải không có gì nhưng có một cái mác mới : ở tù ngụy, có chồng cách mạng. Chị hay khoe điều đó với chòm xóm nhưng tối về chị lại mè nheo anh : "Ông đi cách mạng bao nhiêu năm có công trạng ông làm gì cho mẹ con tôi nở mày nở mặt coi". Năm Tính không biết làm gì cả, tìm cách nói lảng đi hoặc uống ực ly rượu để không nghe thấy gì nữa. Chưa bao giờ Năm Tính cãi lại chị vợ, anh không muốn cãi và cũng không có lí gì để cãi. Anh chỉ là người ăn nhờ ở đậu, không có công ăn việc làm và cũng không biết làm gì. Thật ra chị vợ cũng chỉ tới mức mè nheo với anh vậy thôi. Năm Tính thật sự thấy tủi cực, thậm chí còn lo sợ nữa là đối với hai đứa con trai. Chúng khinh bỉ anh, căm thù anh, lúc nào cũng nhìn anh gườm gườm tới mức anh có ý nghĩ phải thủ con dao dưới gối khi đi ngủ. Cùng hùa với chúng là hai cô con dâu, chúng đem anh ra làm trò đùa, anh nói gì chúng cũng cười, chúng thêu dệt chuyện kháng chiến của anh làm chuyện tiếu lâm để giỡn hớt với nhau.

Trong nhà chỉ có cô con gái, tuy không phải con đẻ của anh nhưng còn có chút tình thương đối với anh. Thỉnh thoảng cô vá cho anh chiếc áo, mua cho anh xị rượu, ngồi chuyện vãn, thăm hỏi anh chuyện này chuyện nọ.
Năm Tính ngồi tiếp Ba Quới trong im lặng, đầu cúi xuống, người nghiêng một bên vì cánh tay bị tật, tay còn lại vừa châm trà vừa vuốt ve đứa cháu nội. Đứa nhỏ đã ngủ.
Ba Quới nói :
- Hồi xưa thằng Trần Sĩ vượt qua cái bờ đất mày là đứa chạy theo sau nó phải không ?
Năm Tính cười buồn ;
- Hồi xưa tao vượt qua cái bờ đất, còn bây giờ tao đang mắc cạn đây.
Ba Quới an ủi :
- Đừng buồn quá cực thân, mày à.
- Tao nói vậy thôi.
- Mày cần anh em giúp đỡ gì không ?
- Giúp đỡ gì bây giờ ?

Im lặng một lúc rồi Ba Quới kể :
- Hồi sáng ông Hai Thân có tới tìm tao, mày biết tính ông ấy rồi, đọc thấy bài báo ông ấy nhảy dựng lên. Ông ấy nói : "Thằng Trần Sĩ có chức có quyền, nó làm sai hại đất nước nhiều lắm". Rồi ông ấy kêu tụi mình đi gặp thằng Trần Sĩ, cùng nhau giúp đỡ thằng Trần Sĩ ! Bấy lâu nay nó sống cảnh vua chúa ăn trên ngồi trốc nó có nghĩ tới tụi mình không ? Thật ra tao chỉ thương ông Hai Thân, tao tới đây cũng vì ông ấy, còn có ông ấy tụi mình mới còn gặp nhau... Mày thấy sao ?
Năm Tính làm thinh một lúc rồi bỗng thò tay dưới gầm bàn lôi ra chai rượu, lấy chiếc tách uống trà rót đầy ngửa cổ uống ực một cái rồi rót tách khác đẩy về phía Ba Quới. Ba Quới nhìn tách rượu không uống, rồi nhìn lên Năm Tính. Năm Tính ngó ra chỗ khác.
Hai anh con trai từ trong nhà đi ra, một anh có ria mép và anh kia không hiểu sao chỉ có râu cằm. Anh râu cằm ngồi sà xuống bàn khách rót trà uống nhìn lên Ba Quới bắt chuyện :
- Bác là bạn ba cháu ?

Ba Quới gật đầu. Anh ta tiếp :
-Là bộ đội ?
- ừ, bộ đội.
Năm Tính đầu cúi thấp :
- Hai đứa con mình không có việc làm... không biết tính sao.
Ba Quới nói :
- Lo cho mày trước đã. Hay mày đi làm lại đi, Năm Tính?
- Làm gì ?
- Làm gì cũng được. Làm cho vui, cho đỡ quẩn trí.
- Rồi cũng vậy thôi. Rồi làm, rồi lại nghỉ, rồi cũng đến nước này thôi. Chẳng qua là do cái số.
- Mày nói vậy vì mày không tính gì cả - Ba Quới nói, ngạc nhiên vì giọng khác lạ của mình - Hồi nãy ông Hai Thân gặp tao bàn chuyện thằng Trần Sĩ, nhưng tao thấy đây là dịp tính lại cho tất cả tụi mình. Như tao đây nè, tao nói yên thân nhưng có được yên đâu. Làm cái ga-ra với cái quán cà phê, chẳng lẽ đời tao rốt rồi cũng chỉ có như vậy thôi sao ? Còn mày nữa, cực thật đó, cứ gặp cảnh không may nhưng chẳng lẽ không có cách nào gỡ ra hay sao ? Mày thử tính lại coi !
- Thôi nói chuyện tao làm gì, có còn gì nữa đâu. Tao chán hết mọi thứ rồi. Tao thấy bài báo viết về thằng Trần Sĩ đó nhưng không đọc. Cũng tại tụi mình hết thôi.

Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 122
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com