Chỉ mục bài viết |
---|
Cái Bờ Đất |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
- Mày để tao tính lại coi.
- Mày tính đi, có gì điện cho tao. Tao về đây !
Ba Quới ra về rất lâu Năm Tính vẫn còn ngồi yên trầm ngâm suy nghĩ.
* *
*
Chị vợ Năm Tính từ trong nhà đi ra hỏi :
- Ông Ba Quới tới gặp ông có chuyện gì vậy ?
Năm Tính đáp :
- Không có chuyện gì đâu.
- Ông đừng giấu tôi - Chị vợ bắt đầu lớn tiếng - Coi điệu bộ nhỏ to của hai người tôi cũng đủ biết. Chà, ông tính đi làm công chuyện gì vậy ? Ông đi lo thằng cha Trần Sĩ, người ta có chức có quyền sung sướng đủ điều, còn coi thân ông kìa...
Chị vợ bắt đầu "bài ca" như thường lệ, nào nhà không còn hột gạo Năm Tính đi lo chuyện bá vơ gì đâu đâu, nào con cái lang thang đầu đường xó chợ... Năm Tính làm công chuyện gì, làm trời làm đất gì ? Năm Tính không làm gì cả, anh chỉ ngồi yên suy nghĩ. Trong nhà nổi lên tiếng hai cô con dâu : "Nó không trả tiền thì mày xé xác nó ra" - Nhà bên có đám thanh niên tụ tập nhậu nhẹt, ồn ào nhất là tiếng hai anh con trai của Năm Tính : "Đời là bể khổ... Vô đi tụi bây!"
Chị vợ nói nữa nhưng hôm nay khác với mọi hôm Năm Tính không nói lảng đi hoặc uống ực ly rượu để không nghe thấy gì nữa. Anh chăm chú nghe chị nói, ngẫm nghĩ, hồi tưởng lại những chuyện đã qua.
"Vợ mình nói gì vậy ? à, chuyện đói... Mình nhớ hồi trong rừng có một dạo bị đói dữ quá, ban đầu ăn gạo rang, rồi tới củ rừng, rồi tới lá cây, sáng ra cả đại đội túa ra rừng đào bới, leo hái trái, xuống suối bắt cá, chiều tối về vẫn tập họp điểm danh, cười đùa, đốt lửa đàn hát với nhau... Sao hồi đó sống dễ quá !"
Cô con gái từ trong nhà đi ra đến đứng sau lưng Năm Tính :
- Ba vô ăn cơm đi !
Năm Tính quay lại :
- Có gì ăn không con ?
- Con luộc cho ba dĩa rau chấm với chao.
- Con để đó ba. Con ngồi xuống đây đi.
Cô con gái ngồi xuống đưa tay kéo mái tóc dài ra phia sau :
- Hồi nãy ba tiếp khách nào vậy ?
- Một người bạn cũ của ba hồi trong rừng.
Ba tiếp khách mà mấy anh chị làm rùm quá - Cô gái nói, chạm khẽ vào tay Năm Quới - Nhà mình lúc nào cũng có chuyện rầy rà. Mà có chuyện gì đâu, toàn chuyện ăn uống không ra gì - Cô gái chợt ngưng nói, nhìn Năm Tính chăm chú - Ba ốm quá, con nghe ba ho hoài, sao ba không đi khám bệnh?
Năm Tính cười:
- Ba không bệnh gì đâu. Ba còn khỏe lắm, có thể đi bộ được cả ngày, ước gì ba có dịp đi bộ cho con coi.
Năm Tính nói âu yếm nhìn cô con gái. Cô mười tám tuổi, làm ở cửa hàng rau quả, gần như cả nhà sống nhờ vào cô. Tuy tiền lương không được bao nhiêu nhưng cô chịu khó lau lách mua được thịt cá rẻ, rau cỏ trong nhà lúc nào cũng đầy đủ. Mỗi buổi chiều đi làm về đều thấy cô mang về một món gì đó, tuy không đáng giá gì, một lít nước mắm, một cây chổi, có khi chỉ là mấy cái chai không để đựng dầu lửa. Bà mẹ với hai anh con trai và hai cô con dâu suốt ngày bàn chuyện mánh mung trên trời dưới đất nhưng đến chiều lại trông ngóng cô con gái với những món nho nhỏ như thế. Cô làm việc đầu tắt mặt tôỏi không than phiền gì cả, chỉ thỉnh thoảng bộc lộ niềm mơ ước của cô - chỉ riêng với Năm Tính thôi - là muốn được học ngành hàng không hoặc hàng hải để có dịp được đi đây đó, thậm chí ra nước ngoài. Nhà không có tivi, đi làm về cô tranh thủ thật mau để sang hàng xóm xem nhờ, rồi sau đó kể cho Năm Tính nghe những cảnh hay cảnh lạ của đất nước, những sân bay núi lửa, băng tuyết, cây trái, chim chóc, hoa thú lạ...
Hôm nay cô đã cơm nước giặt giũ xong rồi nhưng chưa đi xem tivi mà còn nấn ná bên Năm Tính, chắc có chuyện gì muốn nói. Năm Tính hỏi:
- Tối nay ti vi chiếu phim gì? Hay chương trình ca nhạc?
Cô gái lắc đầu:
- Tối nay tivi chiếu phim cũ con đã xem mấy lần rồi. Thôi con kkhông xem tivi nữa, con định tranh thủ ban đêm học lớp kế toán, ba thấy sao?
- Tốt thôi, học thêm được cái gì hay cái đấy. Nhưng làm kế toán phải ngồi một chỗ, rồi chuyện đi du lịch của con thì sao?
- Con không đi nước ngoài được đâu. Con nói chơi với ba thôi chứ làm sao con đi được, nước mình nghèo quá mà.
- ờ nước mình nghèo quá!
Cô gái ngần ngừ một lúc rồi bỗng nói thật khẽ:
- Ba à, hôm rồi con gặp ba của con.
- ở đâu?
Năm Tính giật mình. Đúng ra là anh hơi bàng hoàng, tuy rằng Năm Tính đã biết chuyện này từ lâu. Tay chủ quán dan díu với vợ anh từ hồi trong rừng, hai người có nói với nhau là đứa con là cô gái này đây, sau đó anh ta biến mất, nghe nói có dính líu tới một mạng lưới tình báo của địch, đánh hơi bị lộ kịp thời trốn đi. Sau này không nghe vợ anh nhắc gì tới anh ta, chắc tình cảm hai người chỉ tới đó thôi, nhưng cô con gái thì khác. Năm Tính hiểu điều đó, cô không thể tìm cha đẻ của mình.
Cô gái kể:
- Con đã tìm gặp... Ông ấy ở Sài Gòn này nè, giàu lắm, có một cửa hàng bán đồ phụ tùng xe đạp. Nhà đông người đi ra đi vô nhưng con nhìn ra ông ấy... Ba làm sao vậy?
- Đâu có sao! Con có nói chuyện với ba con không?
- Không. Con chỉ đứng bên này đường nhìn qua. Con không muốn gặp ba con, con đã nói với ba rồi.
Cô gái chưa nói gì với Năm Tính cả. Anh thấy buồn, nhưng cũng thấy vui. Lại có thêm chuyện ràng buộc mọi người lại với nhau.
Trời khuya dần. Căn nhà trở nên im ắng. Hai cô con dâu đã im tiếng, chị vợ đi đâu đó, hai anh con trai nhậu say vào buồng ngủ với con. Năm Tính đi ra sau bếp lục cơm ăn rồi dọn dẹp bàn ghế lấy chỗ mắc võng nằm. Anh có lệ năõm võng trước khi đi ngủ để nhớ lại những ngày ngủ trong rừng.
Chị vợ về lục soạn cái gì đó sau bếp rồi trở ra ngồi xuống đầu võng nhai trầu lép bép. Cứ mỗi lần nghe tiếng vợ nhai trầu lòng anh dịu đi, đâm ra thương vợ, thương con, thương mình, nhớ lại dủ thứ chuyện trên đời. Gẫm ra ai cũng khổ cả, anh nghĩ bụng, vợ anh cũng vậy, cả hai đứa con trai anh nữa. Anh nói:
- Nè mình à, thằng Ba Quới hồi ở chung đại đội với tôi, mình không nhớ sao?
Chị vợ đáp:
- Sao lại không nhớ, cái ông tính hay cà rỡn. Nhưng mà lâu rồi sao tôi không gặp ông ấy. Nghe nói ông ấy mần ăn khá lắm phải không?
- Khá khỉ gì, cũng là chạy vạy kiếm bạc cắc bạc xu vậy thôi.
- Còn ông Trần Sĩ, ông ấy giàu thiệt chớ? Giàu cỡ nào, bằng mấy thằng chủ thời trước không?
- Tôi không biết, tôi đâu rành chuyện tiền bạc. Nhưng theo tôi biết cũng là kiểu phù du thôi, có đó rồi mất đó.
Chị vợ chép miệng:
- Nói chung là khổ cả. Chẳng bù với hồi trước..
Chị vợ bắt đầu kể chuyện cảnh sống của chị hồi nhỏ, nào sao hồi đó sướng vậy, cá đầy dưới sông, lúa đầy trên đồng, làng xóm thái bình cứ mặc sức mà rong chơi, dự hết cuộc lễ hội này tới cuộc đình đám khác. Thật ra chị nói chỉ đúng một phần, nói chung do chị tưởng tượng ra, hoặc do thời gian đã xóa đi phần nào những đau thương mất mát. Năm Tính biết hồi nhỏ chị cũng khổ nhưng anh không cãi. Anh cũng vậy thôi. Anh nhớ có lần hồi mười lăm mười sáu gì đó anh đi vô rừng đốn củi, bị rắn cắn, tưởng rắn độc anh khóc ngất lên quơ quào đủ thứ cỏ nhai nuốt, rồi vái trời vái phật hứa cúng kiếng đủ thứ. Sao lúc đó anh ham sống thế, thấy yêu đời thế. Nhưng rồi anh không chết, lại đi đốn củi, những ngày tháng cực khổ nối tiếp nhau khiến anh quên lời hứa cúng kiếng, cũng không thấy yêu đời. Rồi một lần khác - hồi trong chiến tranh - một lần anh đi dân công vác một trái đạn pháo tới giữa đường bị lạc mất đoàn, anh nằm lại giữa đồng đến hết đêm hôm đó, tới đêm hôm sau, rồi đêm sau nữa, cuối cùng đành phải chôn trái đạn pháo ra về một mình, tới bây giờ trái đạn pháo chắc cũng còn nằm ở đó. Những chuyện như vậy không hiểu sao Năm Tính nhớ hết, cứ nghĩ tới là thấy hiện rõ ra trước mắt, những chuyện không đáng gì, không cần thiết tới ai nhưng cứ nhớ tới là Năm Tính thấy đau thắt ruột gan. "Thật không ra làm sao chuyện bị rắn cắn, với chuyện vác trái đạn pháo - Năm Tính nghĩ - nhưng không lẽ không làm những chuyện đó? Không lẽ không đi đốn củ, vác đạn pháo, không giữ kho gạo giữa rừng để cho mưa dột, chuột ăn ?".
"Toàn là chuyện tủn mủn, lặt vặt, nhưng khi nối kết nó lại, nó trở thành cuộc sống nó cũng có một ý nghĩa nào đó". Năm Tính lại buồn bã nghĩ tiếp.
Con hẻm đã ngủ yên. Chị vợ thôi kể lể, tiếp tục nhai trầu bỏm bẻm. Chị hỏi:
- Tôi đi ngủ đây. Ông ngủ luôn ở đó hả?
- Khoan đã... Mình nè, tôi phải đi gặp thằng Trần Sĩ.
- Chuyện của mấy ông tôi biết đâu.
- Để tôi nói mình nghe, là do hồi xưa chính tôi kêu nó chạy lên, vượt qua cái bờ đất. Tôi ở gần nên thấy cái bờ đất trước tiên nhưng tôi không chạy lên mà bảo thằng Trần Sĩ: "Mày chạy lên đi, mày chạy lên mọi người sẽ theo mày". Thằng Trần Sĩ giỏi giang, có uy tín, anh em trong đại đội đều nghe theo nó...
Chị vợ đã bỏ đi. Năm Tính nằm lại võng kẽo kẹt, tiếp tục suy nghĩ. Anh nhớ về cái bờ đất, anh kêu Trần Sĩ chạy lên, rồi anh cũng chạy lên, rồi những lần khác trong những cuộc họp, những buổi hành quân, những lần nằm dưới chiến hào chuẩn bị xuất kích, thỉnh thoảng anh góp nhiều ý kiến khiến anh em lấy làm ngạc nhiên khen ngợi, những lúc đó anh cũng thấy tự hào, và niềm tự hào của anh cũng lớn lao như của mọi người.
"Vậy tại sao mình không đi gặp thằng Trần Sĩ, biết đâu mình sẽ có ý kiến gì đó và nó sẽ nghe ra. Và như mình đã nói, cái hay cái dở của thằng Trần Sĩ hôm nay đều có mọi người góp vào, và chắc rằng cũng có phần mình trong đó...".
Đã quá nửa đêm, điếu thuốc của Năm Tính vẫn còn đỏ lập loè trong bóng tối.
* *
*
Ông Hai Thân về tới Thủ Đức trời đã tối từ lâu, cả khu trường Đảng đã yên ngủ, chỉ còn tốp thanh niên bảo vệ ở phòng trực còn thức uống trà, đánh bài chơi với nhau. Đáng lẽ lên phòng làm việc đến mười hai giời rồi đi ngủ, hôm nay ông Hai Thân lại ghé vào phòng trực với đám thanh niên, ngồi xuống một góc hỏi mượn tờ Sài Gòn giải phóng đọc chăm chú từ trang đầu tới trang cuối.
Đám thanh niên vui vẻ chào hỏi ông rồi tiếp tục đánh bài, thỉnh thoảng quay sang hỏi cho có chuyện:
- Ông Hai đi Sài Gòn chơi hả? Có chuyện gì vui không?
- Dưới đó đang chiếu phim Võ Tắc Thiên rần rần, ông Hai có coi được tập nào không?
Ông Hai Thân đáp:
- Tao đi công việc chớ chơi bời vui thú cái gì. Tao xem phim tư bản hồi nào mà tụi bây hỏi. ở nhà có chuyện gì không?
"Có chuyện" đối với ông Hai Thân là đám học viên trốn học đánh lộn, nhậu nhẹt, trai gái ve vãn nhau, hoặc đảng viên đem nhu yếu phẩm của mình ra bán ngoài chợ trời. Đám thanh niên nghe ông hỏi chỉ cười mà không trả lời. Họ vừa thương ông vừa thấy khó chịu, tựa như ông đối với họ cách nhau một tấm kiếng dày, họ nhìn thấy ông và không nghe ông nói gì.
Cuộc đời của ông Hai Thân là một con đường thẳng, không có gãy khúc chỗ nào hết. Ông người thành phố, thành phần lao động, cả nhà đều là công nhân, là cơ sở cách mạng, bản thân ông là thợ sắp chữ nhà in, ngay từ nhỏ ông đã được các chú các anh giáo dục, dìu dắt, hướng dẫn đưa vào tổ chức. Từ mười ba tuổi ông đã làm liên lạc, có lần bị địch bắt bị đánh nhưng kiên quyết không khai. Từ ngày đi bộ đội, sau đó chuyển ngành ông đều công tác ở cơ quan Đảng, chuyên lo tổ chức. Do công việc, và cũng do tính ông, ông thích sự rõ ràng, rạch ròi, đâu là địch đâu là ta, cái nào tốt cái nào xấu, phần nào là tập thể phần nào là cá nhân, tất cả đều phải có tôn ti trật tự, có trên có dưới, trong Đảng ngoài Đảng. Ông coi sự tôn trọng tổ chức là phẩm chất hàng đầu của một con người, thí dụ như khi giảng bài, cụ thể là giảng nghị quyết bao giờ ông cũng tuyệt đối trung thành với những điều đã được truyền đạt, ông giảng một cách hùng hồn với một lòng tin chắc nịch vào những điều mình giảng. Sau đó nghị quyết tiếp theo có khác với nghị quyết trước ông cũng giảng với giọng hùng hồn chắc nịch như vậy, chuyện sai trái thế nào, cái trước cái sau đúng sai ra làm sao ông không cần biết và thấy mình không có quyền được biết. Ngày ngày ông lên hội trường đúng giờ giấc, khi nghe truyền đạt ông làm người học trò chăm chỉ ghi chép, về phòng giở sách ra tra cứu, trích dẫn rồi hôm sau làm thầy truyền đạt lại cho học viên để học ghi chép, về phòng tra cứu trích dẫn y như vậy. Cái "chu kỳ khép kín" của một ngày, một tháng, một năm làm việc của ông cực kì đơn giản và chính xác, ông không quan tâm lắm tới việc học viên nhận xét đánh giá những bài giảng của ông thế nào, cũng như ông không hề đánh giá những người giảng bài cho ông. Khi giảng bài ông bắt học viên tuyệt đối im lặng, còn chuyện họ nghĩ gì, lo chuyện trời mưa trời nắng gì ông không cần biết.
Ông sống một mình trên tầng thượng chung cư phía sau trường, không vợ con, ăn cơm dưới bếp chung, người ông gày gò, cao lòng khòng, khô xác, với những tiện nghi đến mức gần như không có gì. Chưa khi nào nghe ông nói tới chuyện tiền nong, mua sắm này nọ. Ông không đòi hỏi điều gì và không có nhu cầu đòi hỏi, mọi khoản chi tiêu dồn vào tiền lương, ông chỉ cần có cơm ăn ngày ba bữa, đủ xà bông để tắm giặt, quần áo một năm vài bộ và một ít trà để uống thức khuya làm việc. Ngay tới kem đánh răng ông cũng không cần vì có thể súc miệng bằng nước muối pha loãng.
Đám thanh niên để mặc ông đọc báo, đánh xong ván bài chúng quay sang uống trà nói chuyện với ông:
- Ông Hai không đi Sài Gòn coi phim, vậy chắc ông đi giảng bài ?
Ông đáp:
- Tao không đi giảng bài, tao đi gặp mấy thằng bạn cũ.
- Bạn hồi trong rừng ?
- Đúng. Bây giờ tụi tao chỉ còn bốn thằng nhưng gắn bó với nhau lắm. Vừa tồi có một thằng tên là Trần Sĩ làm lớn lắm, tới chức giám đốc chẳng may bị tai tiếng sao đó, tụi tao định kéo tới hỏi chuyện coi ra sao.
Đám thanh niên cười:
- Thôi đi ông Hai ơi, khéo không ông lại chết chùm luôn. Mấy cha giám đốc bây giờ đều làm hạm hết, cứ đọc báo là thấy có chuyện.
Ông Hai Thân lúng túng. Ông đã đọc báo và ông cũng đã thấy, không chỉ riêng Trần Sĩ mà còn nhiều người khác. Hầu như mỗi ngày đều có những bài báo như vậy. nhưng ngay bản thân những bài báo cũng làm ông bối rối, là do ông không rành về chuyện kinh tế hay các bài báo viết lập lờ, chưa đến nơi đến chốn? Họ viết rằng "Trần Sĩ liên đới chịu trách nhiệm", vậy là Trần Sĩ có tội hay không có tội? Họ cũng viết rằng Trần Sĩ có "dấu hiệu" tham ô, rằng do Trần Sĩ "trình độ có hạn" và cuối cùng "cái chính là do sơ hở trong cơ chế quản lý". Vậy cuối cùng chính nhà nước là người có tội hay sao? Không, điều đó ông không thể chấp nhận được.
Ông đáp:
- Tao chỉ đọc báo và chỉ biết được những điều do báo viết thôi. nhưng dù gì ở đó cũng có tổ chức, có Đảng, tao không hơn tập thể ở đó được.
Đám thanh niên lại cười:
- Vậy ông đi gặp ông Trần Sĩ làm chi?
Ông Hai Thân càng lúng túng hơn:
- Đây là chuyện khác... Tụi tao chỉ còn bốn người... hễ một thằng gặp khó khăn là những thằng kia phải đi gặp để giúp đỡ. Tao phải thấy tận mắt coi thằng Trần Sĩ ra sao đã.
Đám thanh niên nhìn ông Hai Thân ngạc nhiên tỏ vẻ không hiểu, rồi quay sang nói chuyện với nhau:
- Chà, đọc báo thấy người ta mần ăn rần rần, còn mình chỉ ngồi đây gác cổng, chán quá !
Ông Hai Thân cũng ngạc nhiên nhìn đám thanh niên. Bọn họ tuổi chỉ từ hai mươi đến ba mươi, có đứa đi thanh niên xung phong về, có đứa vừa mãn hạn nghĩa vụ quân sự, lại có đứa tốt nghiệp đại học hẳn hoi nhưng không có việc làm. Công việc gác cổng không phải là không cần thiết, nhất là đối với một trường Đảng như vầy, nhưng cứ nhìn đám thanh niên trẻ khoẻ như thế này mà ngồi gác cổng ông Hai Thân cũng thấy xốn xang thế nào. Nếu như hồi xưa chắc rằng ông sẽ an ủi họ: "Lao động nào cũng vinh quang", còn giờ đây ông không thể mở miệng được.
Đám thanh niên tiếp tục nói chuyện với nhau, các câu chuyện càng lúc càng xa lạ, khó hiểu.
Tự dưng có một thế hệ khác hẳn, ông Hai Thân buồn rầu nghĩ bụng, cả đời ông cùng đồng đội đi làm cách mạng, thắng lợi cả hai cuộc kháng chiến, bây giờ đây thế hệ kế tiếp như không ăn nhập gì với các ông cả, như vậy là sao?
Ông uống thêm ly trà rồi lom khom đi về chung cư, leo lên tám bực thang lầu về phòng, bật đèn ở bàn viết vào ngồi trước chồng bài giảng.
Nhưng hôm nay ông không soạn bài mà ngồi yên trầm ngâm suy nghĩ.
"Mình sẽ nói gì với thằng Trần Sĩ? Mình sẽ nhắc lại chuyện cũ từ hồi ở trong rừng? Chuyện ấy thì dễ quá, thằng nào cũng có cả kho để kể, nhưng có ích gì? Có liên hệ gì với chuyện làm của thằng Trần Sĩ hiện giờ ?".
"Thằng Trần Sĩ là thằng sáng giá nhất trong bọn mình, lại được anh em nuôi dưỡng, vun quén thêm, vậy mà bây giờ nó là thằng bị mang tiếng nhiều nhứt. Như vậy rồi sự nghiệp của đất nước sẽ như thế nào đây?".
Ông cứ thế nghiên cứu, phân tích, diễn giải, tổng hợp, nhưng cứ càng suy ngẫm ông càng thấy rối mù. Không như hồi xưa cái gì cũng rõ ràng cả: thằng Trần Sĩ vượt qua cái bờ đất, mọi người chạy theo, tập thể ghi công, tán thưởng.
Ông cố lục tung trí óc nhớ lại hết mọi chuyện, nhớ Trần Sĩ từ lúc anh mới vào đơn vị, lúc hành quân đi chiến đấu, lúc họp hành xây cứ, những lần bịnh phải nằm bịnh viện. Rồi ông nghĩ tiếp sang Ba Quới, Năm Tính cũng với những chuyện y như vậy. Đây là lần đầu tiên ông nghĩ về bạn bè với những việc cụ thể, thường tình như vậy. Lâu nay ông vẫn nhận xét đánh giá con người trong mối quan hệ với tập thể, với những công việc chung có tính chất quan điểm, đường lối. Giờ đây cuộc đời của những người bạn ông hiện lên rõ ràng riêng biệt, không người nào giống người nào và cũng không giống bất cứ ai. Trần Sĩ giỏi giang không ai sánh bằng, cuộc đời Năm Tính tưởng chừng như tập trung tất cả những bất hạnh trên đời vào đó. Ba Quới sống làng nhàng, yên phận, không sáng chói cũng không kém cỏi, có vẻ không gắn bó gì với cách mạng nhưng đố tìm được điều gì trách cứ anh ta. Vậy ông có thể nói một câu chung chung như thế nào về tất cả những người bạn đó?
Ông Hai Thân thấy rã rời, mệt mỏi, nhưng không hề thấy buồn ngủ. Và rồi ông chợt nhìn xuống chồng bài giảng trước mặt.
"Mình giảng cái gì đây? Lâu nay mình nói cũng đủ bài bản hết, nào từ thực tế tới lý luận, lý luận trả về thực tế, vậy sao bỗng dưng mọi sự rối beng lên hết như thế này? Có sai lệch ở chỗ nào, thiếu khâu nào? Hay giữa những khâu những đoạn, giữa những lý thuyết và những luận lý đó còn có cái gì khác nữa mà mình chưa nhìn thấy?".
"Mình sống cũng đã gần hết đời rồi, từng trải cũng đã nhiều, những điều tai nghe mắt thấy không phải là ít, vậy mà trước mắt mình như là một khoảng không trống rỗng, như là mình đang trong giấc mơ... Nhưng như vậy thì đâu là cuộc đời thực?".
* *
*
Trần Sĩ về tới nhà trời đã tối, chị vợ ra tận cổng đón vẻ lo lắng:
- Sao mình về trễ vậy? Hai con ăn cơm trước rồi, con Liễu có chương trình biểu diễn piano ở trường nhạc, thằng Tuấn đi dự tiệc sinh nhật cô bạn gái. Mình ăn cơm chưa để em kêu người dọn? Không thấy cậu tài xế về lấy vợt cho mình đánh ten-nít em đoán là mình bận việc. Việc gì vậy ?
Trần Sĩ mệt mỏi đáp:
- Không có việc gì đâu, có mấy ông bạn cũ điện thoại hẹn ngày mai tới chơi.
- Vậy mà em tưởng...
- Mình tưởng gì ?
- à, chuyện bài báo ấy mà. Từ ngày có bài báo em cứ hồi hộp lo đủ thứ chuyện... Vậy để em chuẩn bị đồ ăn thức uống cho mình tiếp khách. Anh tính uống bia hay rượu mạnh ?
- Không cần gì đâu, đây là những người bạn cũ trong kháng chiến, họ giản dị, xuề xoà lắm. Mình ăn cơm trước đi để anh nghỉ một chút.
- Mình mệt hả ?
- Không... ờ mà cũng mệt... Cứ thấy nóng cả ruột.
- Vậy là mình đau bao tử rồi. Hay mình xin đi nghỉ mát vài ngày ?
- Có nghỉ thì nghỉ luôn thôi.
Trần Sĩ thay quần áo ra ngồi ở phòng khách, chút sau chị vợ bưng ra một mâm gồm có bia lon ướp lạnh, dĩa thịt nguội, mấy miếng bánh lạt. Chị kéo chiếc bàn con đặt bên cạnh Trần Sĩ, đứng lại một chút coi anh có sai gì thêm rồi đi vào trong. Trong quan hệ với chồng, chị vừa làm người vợ vừa làm người phục vụ. Ti vi bật từ hồi nào, đang chiếu một phim truyện tình báo đã chiếu nhiều lần rồi. Trần Sĩ uống bia từng ngụm nhỏ, không ăn thịt hoặc bánh, xem tivi mà không thấy gì hết. Nhưng anh cũng không suy nghĩ gì. Dạo gần đây anh thường có tâm trạng như vậy: dứt ra khỏi công việc ở cơ quan nào tiếp khách, đi tham quan, họp hành, duyệt hợp đồng, đọc báo cáo, đi ăn uống tiệc tùng bận rộn không hở một phút đến tối về ngồi một mình anh thấy trống trải, cô đơn, không biết làm gì nghĩ gì. Chương trình ti vi bắt qua tiết mục quảng cáo. Trần Sĩ tắt tivi đứng dậy bước ra hàng hiên nhìn ra ngoài vườn kiểng rồi lại quay trở vào ngồi xuống chiếc ghế vừa ngồi. Chị vợ đã thay đồ ngủ trong nhà đi ra ngồi xuống cạnh Trần Sĩ:
- Mấy người bạn cũ của mình đó, họ ở chung với mình ở trong chiến khu hả ?
- ừ, trong chiến khu.
- Họ định gặp mình nói chuyện gì ?
- Mình lo cái gì ?
- Em không lo gì đâu. Em biết tụi báo chí tìm chuyện moi móc giựt gân để bán báo chớ chẳng có gì đâu. Họ lấy cớ gì để buộc tội mình ?
- Không có cớ gì hết. Anh cũng không lo gì chuyện đó, anh chỉ thấy mệt thôi.
- Vậy mình nghỉ đi, để em lo mọi chuyện cho mình tiếp khách. Nhớ bảo họ nói chuyện vui thôi nghen?
- Chẳng có chuyện gì vui đâu. Già hết rồi mà. Anh biết thế nào họ cũng nói chuyện cái bờ đất.
- Cái bờ đất nào ?
- Cái bờ đất hồi trong chiến tranh - Trần Sĩ quay lại nhìn vợ. Chị còn trẻ quá, chắc không hiểu anh nói gì đâu. Đây là vợ sau của anh, người vợ trước đã chết trong chiến tranh. Tuy vậy anh cũng nói tiếp như là nói cho mình nghe mà thôi - Đó là cái bờ đất anh đã từng vượt qua... Đúng ra là như vầy nè: thường trong một trận địa đang nổ súng có một mô đất, một bờ ruộng, một đường hào, một khóm cây hoặc có khi không có gì cả nhưng ở đó như có một lằn ranh vô hình giữa sự sống và cái chết, muốn sống ta phải vượt qua nó. Hôm đó đại đội tụi anh gài lưới lửa với bọn giặc suốt cả mấy tiếng đồng hồ, khói lửa mù trời rồi tất cả bỗng im bặt. Anh biết chuyện gì xảy ra rồi. Anh ngó lên trước thấy có một bờ đất nằm vắt ngang. bên kia là bọn giặc. Anh đếm thầm trong bụng: hai phút, ba phút... Không thể để lâu hơn nữa, thời gian sẽ ủng hộ bọn địch. Anh ngó hai bên thấy mọi người đang ghìm chắc súng, chắc ai cũng nghĩ như anh. Phải gấp rút vượt qua cái bờ đất, dù có phải hy sinh đến bao nhiêu đi nữa... Đây là điều thường xảy ra trong bất cứ trận đánh nào, nhưng cũng là điều căng thẳng nhất, khó xử nhất. Ai sẽ chạy lên trước? Bỗng anh nghe có tiếng thì thầm bên tai: "Chạy lên đi Trần Sĩ, mày chạy lên trước đi !". Anh liền bật dậy chạy lên. Tới bây giờ anh vẫn không biết ai nói lời đó, có khi do anh tưởng vậy thôi, như là tiếng nói của chính anh. Chuyện chỉ có như vậy. Sau trận đánh bọn anh bù đầu vào công việc kiểm điểm, bổ sung quân số, đạn dược, đi tải gạo, học sa bàn để chuẩn bị cho trận đánh tới, anh quên mất chuyện đó. Cũng không ai nhắc tới. Chuyện thường quá mà, cũng như mọi trận đánh khác thôi. Bỗng một hôm có một cán bộ chính trị trên sư đoàn xuống đề nghị anh kể lại chuyện đó, ghi chép cẩn thận rồi ra về. Mấy hôm sau, lại có một nhà báo đến gặp anh cũng bắt kể y như vậy, hỏi cặn kẽ thêm một số chi tiết, không chỉ chuyện lúc vượt qua cái bờ đất mà trước đó nữa, những lúc đó anh nghĩ gì, mơ ước gì, thậm chí cả chuyện gia đình vợ con, cả chuyện hồi nhỏ sống khổ cực, bị áp bức ra sao. Anh kể hết, kể những chuyện còn nhớ rõ lẫn những chuyện chỉ còn nhớ lờ mờ, thậm chí có chuyện không còn nhớ gì nữa nhưng cứ thêm thắt vào cho nó tròn trịa. Tiếp theo các nhà báo khác nữa, đài phát thanh, các ban ngành thi đua, Trung ương Đoàn... Người ta cứ hỏi, gợi ý, sắp xếp để anh có thể kể mạch lạc, nhắc nhở những điều họ nghĩ là anh có thể quên.
Sau đó anh được sư đoàn rút về không cho đi chiến đấu nữa, được bố trí nằm ở một cơ quan không rõ là cơ quan gì, thỉnh thoảng đi nơi này nơi nọ để "báo cáo điển hình", thực sự là kể lại chuyện anh vượt qua cái bờ đất. Anh làm chuyện đó hơn cả năm trời, ban đầu thấy thích, sau thấy chán, sau nữa cũng quen đi. Lâu lắm, cho tới lúc thấy anh không còn gì để kể nữa người ta mới trả anh về đơn vị, làm người chiến sĩ như cũ. Nhưng không hẳn là "như cũ", do xa đơn vị lâu, và cũng do hào quang từ những bài báo và các buổi báo cáo điển hình khiến anh em ngại nói chuyện với anh, sự tiếp xúc rõ ràng là không bình thường, khi thì vồ vập lúc lại né tránh. Đã có một khoảng cách giữa anh với mọi người bắt đầu từ chuyện cái bờ đất đó, và khoảng cách cứ tăng dần lên với năm tháng. Cho đến hết cuộc chiến tranh, về thành phố, cùng với việc thăng quan tiến chức của anh, với công việc và nhiều chuyện khác nữa anh gần như không gặp bạn bè cũ. Còn bạn mới thực sự không phải là bạn bè, chỉ là những người làm ăn cần phải tính toán, trả giá, nhiều khi còn phải giở thủ đoạn ra với nhau nữa. Anh nhớ có ai đã nói: Trong tất cả các mối quan hệ như vợ chồng, thầy trò, đồng đội... tình cảm có những cái riêng nhưng phải có cái chung là tình bạn bè, nếu không nó sẽ không có cơ sở vững chắc để tồn tại. Anh thấm thía điều đó lắm, bởi bây giờ anh thấy không còn ai là bạn bè quen thân hết... Kìa em có nghe anh nói không?
Chị vợ đã ngủ. Trần Sĩ đứng dậy đi ra ngoài hàng hiên ngồi xuống bực thềm nhà nhìn ra ngoài vườn. Đêm đã khuya, bốn bề im ắng Trần Sĩ mặc tình suy nghĩ.
Trần Sĩ nghĩ đủ thứ chuyện, từ chuyện hồi còn trong rừng tới chuyện về thành phố lao vào chuyện kinh doanh, chuyển hết công ty này tới công ty khác, công ty sau lớn hơn công ty trước, không học hành nghề nghiệp nào cả nhưng do "có quá trình" nên có thể lãnh đạo được tất cả, cho tới giờ đây về làm giám đốc một công ty xuất nhập khẩu lớn ai cũng biết tiếng để rồi "lãnh" một bài báo cho thiên hạ được dịp làm rùm lên.
"Ngày mai mấy bạn tới đây gặp tôi - Trần Sĩ tiếp tục dòng suy nghĩ như nói với mấy người bạn trước mặt. Mấy bạn đã đọc bài báo trong đó đã nói hết: nào tôi đã mua bán lòng vòng, lập quỹ đen, sử dụng tư thương, mua vật tư bên ngoài... Thử hỏi tôi không làm thế sao được, ai cho tôi vật tư mà tôi không chạy bên ngoài? Tôi lấy kinh nghiệm đâu mà không sử dụng tư thương? Còn nói tôi mua bán lòng vòng... vậy hãy chỉ con đường thẳng tôi đi coi?
"Mấy bạn cứ ngồi lên ghế của tôi đây, dù chỉ một ngày tôi cũng sẽ thấy hết: suốt ngày tôi bị dưới thúc lên, trên đánh xuống, đâu đâu cũng đòi tiền, tiền... Rồi thì hết chỉ thị này tới chỉ thị nọ, cái sau khác cái trước lại bắt tôi phải làm cho đúng, vừa làm ra được tiền vừa hợp với quy luật xã hội chủ nghĩa".
"Có một chuyện như thế này: Có một lần nọ một ông cán bộ cấp trên của tôi đến rỉ tai tôi nói: "Có một dịch vụ như thế này, như thế này... Cậu làm không?". Đúng là ông cấp trên của tôi nói với tôi như là ra chỉ thị nhưng lại ở ngoài sân ten-nít. Tôi nghĩ bụng: "Thằng này không dại, ông nói với tôi ngoài sân ten-nít nhưng tới chừng "có gì" ông đánh tôi trong cuộc họp". Tôi bèn ừ hử cho qua chuyện rồi làm bộ quên luôn. Ông nhắc lại nữa. Tôi cũng chỉ đáp lập lờ. Ông thôi không nhắc, nhưng bắt đầu có tiếng xì xào trong công ty từ dưới lên, từ nhân viên, rồi tới cán bộ, các trưởng phó phòng rồi tới các phó giám đốc. Người ta nói tôi nhát, không năng động, sợ trách nhiệm, không mạnh dạn "dám nghĩ dám làm"... Tôi vẫn làm thinh. Tôi có nhiều kinh nghiệm trong những chuyện như thế này rồi, khôn quá cũng chết, dại quá cũng chết, chỉ có thằng bình chân như vại, làng nhàng ở giữa là sống thôi. Nhưng người ta đâu chịu để tôi làng nhàng ở giữa, người ta đưa tôi lên ghế này để tôi hoặc sống hoặc chết thôi. Một bữa các phó giám đốc của tôi đề nghị có cuộc họp để họ có ý kiến. Tôi có năm phó giám đốc, họ thường xuyên chia đủ năm phe để đánh nhau nhưng có một điểm chung là bao giờ cũng hợp lực nhau để chống lại tôi. Tôi biết họ sẽ nói gì rồi nên vào cuộc họp tôi nói ngay: "Các đồng chí muốn ta làm cái dịch vụ đó thì ta làm, nhưng tất cả phải ký vào đây". Họ không chịu ký, viện lẽ rằng tôi là giám đốc phải chịu trách nhiệm, vả lại cái dịch vụ đó ông cấp trên chỉ nói riêng với tôi, họ không biết gì cả. Bình thường họ chỉ huy tôi tới chừng phải chịu trách nhiệm họ né tránh hết. Được, đã vậy thì tôi sẽ chơi "ván bài lật ngửa". Tôi nói: "Các đồng chí biết đây là một "dịch vụ khó, loại "bán chính thức" muốn khen chê gì cũng được, khen thì nói dám nghĩ dám làm, mạnh dạn đổi mới, chê thì nói xa rời đường lối xã hội chủ nghĩa. Nhưng thôi ta cứ làm, và tôi sẽ ký một mình, nhưng ta phải làm như thế này...". Và tôi đã đi một nước cờ mà họ không thể nào nghĩ ra được: tôi ký cho công ty chúng tôi làm dịch vụ đó, đứng trên danh nghĩa là thế, nhưng thực chất là tôi làm giùm cho cơ quan ông cấp trên của tôi, nghĩa là tiền lời tôi giao hết về cho trên ấy. Tôi đã lấy ông thủ trưởng cấp trên ấy "đóng mộc" vào cái dịch vụ, có bị chìm xuồng thì cùng lội chung tất cả".
"Công việc làm ăn của tôi bấy lâu là như vậy, chính cái cơ chế này đẻ ra tôi, tôi làm như thế để ông Hai Thân yên tâm giảng bài, thằng Ba Quới lo sống với cái xí nghiệp đời sống của nó, và thằng Năm Tính ôm cái bất hạnh của mình, mặc sức than vãn không bị lương tâm cắn rứt".
"Nhưng tôi đã mệt mỏi lắm rồi ! Hồi xưa tôi đã vượt qua cái bờ đất, nhưng đó là cái khoảnh khắc còn cuộc sống bây giờ là cái lâu dài. Bây giờ hàng ngày hàng giờ tôi phải vượt qua hàng trăm hàng ngàn những cái bờ đất nhỏ li ti, và tôi đã không đủ sức, đó là điều tôi và các bạn đều biết nhưng chưa lần nào dám nói".
"Vậy các bạn hãy tới mau ta sẽ nói một lần cho tất cả".
10.89