NHÀ CHIM Nơi tôi quen biết nhân vật trong câu chuyện này cách xa tỉnh lỵ địa đầu vùng Tây Bắc bằng khoảng cách bốn mươi cây số từ nhà anh ở quê hương đến thị xã tận cùng của đất mũi phía Nam Tổ quốc. Hạnh ngộ nơi tha hương - vô gia đình phiêu lưu như nhau - lại là kẻ có chuyện không vui đeo trong số phận - giữa chốn u linh thăm thẳm cây rừng tri âm với suối róc rách, tri kỷ với tiếng hót chim muông, eo óc gà rừng gáy - tình bạn của anh và tôi hi hữu... Trăm thứ nghề đều dính đến vật tư nhà nước chỉ có nghề nuôi ong, bắt loài sinh vật có cánh ấy phục vụ cho mình, tôi chọn cái nghề không phụ thuộc ai ngoài thiên nhiên ấy để mưu sinh khi lỡ bước. Con giống rất sẵn trong rừng nhưng khó tìm thấy. Tôi theo chân hai em bé người dân tộc Mường vào rừng. Bước chân đi tìm củ nâu khắp nẻo, hốc đá bọng cây nào có ong các em biết. Vào rừng theo suối đang lội bì bõm mải nghím nhìn đá cuội cam chịu mài mòn dưới dòng nước trong veo chảy mãi, tôi nghe em bé bảo : - Trong này có nhà một ông nói tiếng miền Nam như chú! - Đâu ? - Phải nhìn lên mới thấy ! Nhà ở trên cao cơ. Bốn thân cây rừng tự nhiên làm cột nhà, tre luồng làm rống đỡ sàn bằng phên nứa đan, mái lều lợp bằng nứa dập, treo lơ lửng trên đầu thang lên xuống trông như tổ chim nên trong truyện này gọi là "nhà chim", chúa sơn lâm kia có thèm thịt đến mấy không làm sao nhảy tới. Một mái đầu "người rừng" bù xù nhô ra nhìn. Thân hình đã nhả nắng tuột vội xuống ngay khi nghe theo giọng nói quê hương. - ở đâu hiện tới vậy ông nội ? - Cũng là ma lạc loài như anh thôi ! - Lên đây, lên đây thôi ! Vừa mới pha ấm trà, có sắn luộc. Mấy thằng nhỏ ăn hôn ? Lên làm mấy củ. Bếp quây bằng khúc gỗ, giữa đệm đất và tro chống cháy. Ba thân gỗ mục chụm đầu vào than làm lửa vĩnh cửu. Từ trên nóc thả xuống những cái móc treo nồi bằng cành tre. Nấu nướng tại chỗ, gắp ăn trong nồi, sưởi ấm luôn thể, nằm ngủ ngay cạnh bếp. Hai em bé nhặt vài mẩu sắn đi rồi, tôi ngà ngà vì ly rượu mời, nằm dài xuống sàn để nghe anh quay lại cuộn phim đời. - Anh có tin chuyện rồng rắn, vòng vòng trở lại quanh đuôi, là có thật không ? Mười hai thằng chúng tôi, võ trang đầy đủ, chủ trương vượt tuyến về Nam, tất nhiên là để chiến đấu - phần day dứt nhớ nhà nhớ quê, phần tin tức bà con bị o ép, tàn sát dưới gót sắt xâm lược cứ tiếp tục loan ra. Lệnh chưa cho đánh, mình đánh trước có sao đâu ? Vậy là trốn đi ! Đáp xe đò qua Nghệ An, ước tính rằng đơn vị có thể đã điện báo đến các trạm kiểm soát, đi nữa sẽ bị khám xét. Chúng tôi vọt lên đỉnh Trường Sơn mở đường rừng mà đi, tìm cách vượt qua vĩ tuyến 17. Đi suốt ba ngày ba đêm, hết lương khô, hết nước uống buộc phải mò xuống bản làng mới hay lại trở về chỗ cũ. Ai từng vào rừng, có thể hiểu cây rừng là thiên la địa võng, người đi khó lòng phân biệt Nam Bắc Tây Đông. Nơi nào cũng cây, cũng lá. Mua được bắp khoai lại rút vội. Vừa qua khỏi bìa rừng đã nghe loa gọi vang vang mới hay bị bao vây các ngả. - Thuở đánh nhau với Tây - việc bị bao vây và thoát hiểm sá gì - nhưng giờ đây súng trong tay đầy nhóc đạn, đành trào nước mắt, quân mình đâu nỡ bắn quân ta, huống chi nghe tiếng loa đã biết chúng nó là bạn cùng sư đoàn đang thừa hành mệnh lệnh cùng bà con du kích người dân tộc đuổi bắt trở lại. Viện Kiểm sát chiếu cố vì đã không nỡ bắn lại đồng đội giảm khinh cho nửa quyển lịch vì tội vô kỷ luật nhốt chung với dân họ đào *. Trong trại giam khoai sắn phủ hết đất rồi, việc đổ chất thải của nhau làm vèo 15 phút là xong, để cải tạo lao động, giám thị có đống đá hộc, sáng cho vác từ trước cổng ra sau trại, chiều lại từ sau trại vác ra cổng, không có sản sinh ra của cải vật chất gì nhưng có đổ mồ hôi là có nhớ đời đẻ sửa chữa. Sáu tháng tù không đau, án tích không đau, 9 năm kháng chiến rũ sạch thành tích không đau bằng tước đi quyền cầm súng chiến đấu. Ra tù họ cho tôi về nông trường làm cái việc ghép mầm cam vào gốc bưởi. Tấm bảng treo trên cổng đề chữ "Vườn ương" theo cái nghĩa ươm giống, giao hạt nẩy mầm. Nhưng người buồn và cảnh cũng buồn, tôi lại suy diễn theo nghĩa ương vì cá không ăn muối. Làm được vài tháng, nản quá tôi chuồn luôn bỏ cái chức "công nhân phụ động" khỏi choán chỗ làm của người khác. - Nhưng một mình thăm thẳm sống giữa rừng sâu âm u thế này, buồn chịu sao thấu ? - Kể cũng hơi man rợ phải không ? Cười - Anh nghĩ rằng tôi buồn lắm ư ? Ra đây mà xem ! Anh bước ra, buông thõng hai chân xuống vỗ tay "bộp bộp" lập tức bao nhiêu bụi cỏ, lùm cây xao động, gà trống, gà mái, gà mẹ, gà con đông vô số kể chen chúc tranh nhau nắm gạo. - Anh thấy đã chưa ! Đến bây giờ tôi cũng chẳng biết có mấy trăm con tất cả, tiếng là nuôi nhưng không hề có lót ổ, chẳng bao giờ làm chuồng, đẻ trong lùm bụi, ngủ trên cành cây, bươi tìm giun mối mà ăn, ngoài sau tôi trồng một rẫy đu đủ trái chín không thèm hái để rụng xuống cho gà ăn cả hạt. Tôi học lóm mấy ông kỹ sư "thổ" của nông trường, trồng đu đủ không có cây đực, hạt đu đủ là loài lưỡng tính, ngoại cảnh tác động đến biến thái, cứ gieo hạt trong mùa lạnh, lâu mọc một chút nhưng nghịch cảnh mùa đông không hợp để ra đu đủ đực. - Vậy gà có bị chồn cáo bắt không ? - Có bí quyết chứ ? Cáo sợ ngỗng lắm, tôi nuôi bốn con ngỗng. Cáo mò tới, ngỗng "cà hóet" lên vài tiếng là cáo chạy cong đuôi. Ba Nhiều bước xuống thang, quơ tay tóm gọn một chú gà giò xách lên : - Anh thấy chưa ! Nó chỉ ngóc đầu ngoan ngoãn chờ lệnh không phản đối. ở đây không ai rầy tôi cả, giá trị của cô đơn là chỗ đó. Anh phải ở lại đây ! Sẵn mồi tội gì không say ! Lúc mới đến tôi có trông thấy một cỗ áo quan bảo thọ chưa tiện hỏi ngay : - Anh làm cả mộc để bán ? - Không đâu ! Của tôi đấy chứ - chỗ này trước đây là nơi cưa xẻ của những người buôn gỗ lậu - chưa kịp bán cho người chết, họ đã sốt rét rừng ngã nước chết trước. Sợ thần rừng trừng phạt, họ bỏ tất cả lại về xuôi, không dám lên nữa. Tôi thấy mấy cỗ ván tứ thiết bỏ lăn lóc nên tự bào đục đóng cho mình, nhỡ không về được bỏ xác nơi tha hương, người ta có cái để bỏ mình vào. Buồn cười lắm ! Sắp đặt cho nó vai trò áo quan, nó không bảo thọ trái lại bảo sinh, có một đàn ong mật chui vào sinh sôi nẩy nở ở trỏng. Ba Nhiều phụ với tôi nâng nắp quan tài lên. Tổ ong to chưa từng thấy treo dưới nắp. Hai mươi bánh sáp rộng bằng kích thước ngang của quan tài. Đàn ong chiếm một nửa quan tài đã trải qua nhiều thế hệ, những đàn ong xây trước đã cũ không dùng được nữa được thay thế bằng những bánh sáp xây mới lấn dần ra phía ngoài. Tôi cắt lấy cho anh 3 lít mật để ngâm rượu uống. Anh cho tôi đàn ong. Tôi định bắt tất cả về nuôi nhưng nghĩ - không nên triệt tiêu môi trường nuôi dưỡng thích ứng nhất của chiếc quan tài. Tôi bèn bắt ong chúa, một nửa số ong thợ và bốn bánh sáp đem về làm giống. Số ong còn lại mất ong chúa nghĩa là mất mẹ nhốn nháo một lúc lại tựu về chốn cũ chăm sóc ong non sơ sinh trong các bánh sáp và tạo ra ong chúa mới để bảo tồn nòi giống. Trứng ong thợ vốn lưỡng tính. Cũng trứng ấy nở ra ấu trùng đặt trong cái kén hẹp cho ăn "đại táo" nghĩa là tiêu chuẩn thấp ít chất bổ, được ong thợ mớm cho ăn sữa chúa 3 ngày từ ngày thứ 4 trở đi chỉ được cho ăn phấn hoa, nên các trứng ấy sau này nở ra ong thợ. Nhưng cũng cái trứng ấy nở ra ấu trùng, nếu đàn ong thợ xây một kén to tha ấu trùng đặt vào, mớm cho ăn chế độ đặc biệt bằng sữa chúa suốt 18 ngày, con ong non nở ra sẽ trở thành ong chúa, to hơn 1/3, sống lâu hơn mười lần và có chức năng đẻ được cả ba loại ong đực, ong thợ và ong chúa. Để dự phòng đàn ong mất chúa thường xây ba, bốn mụ chúa như vậy. Sau ngày các chúa nở ra, chúng sẽ chia đàn bay đi và để lại một con duy nhất quản lý đàn ong gốc. Tôi dự đoán đúng ngày đàn ong chia đàn lại mò vào hứng lấy đem về nuôi. Bằng phương pháp này, suốt năm tháng quen biết Ba Nhiều ở rừng núi đất Bắc tôi khai thác từ chiếc quan tài gần hai mươi đàn ong, ngày giải phóng còn mang con giống theo về Biên Hòa, Lâm Đồng làm trại ong ở phía Nam. Thấy tôi làm ăn coi được, Ba Nhiều nói với tôi : "Anh ra nghề tôi ham quá ! Vậy ngoéo tay với anh coi thằng nào giàu trước. Anh nuôi ong, tôi nuôi tôm thử xem !". Tôi ngoéo tay anh sau khi cạn chén : "Chơi luôn !". Anh dắt tôi ra cách nhà chim không hơn trăm mét. Chân núi ở đây lùi vào một đỗi. Dòng suối từ thuở hồng hoang khóet sâu vào đây một vụng nước rộng vài trăm mét. Nơi ăn thông ra suối lại hẹp, dây leo và lá rừng nhô ra nên ít ai để ý có một mặt hồ rộng : "Tôi lội khắp nơi xem chỗ nông tới rốn, chỗ sâu đến ngực, nuôi thủy sản lý tưởng lắm, mò xuống thấy có tôm. Tôi sẽ vác đá lấp cửa miệng thành một bờ đê ngăn, có dặt ống bòng cho nước ra vào, gỗ có bộng trong rừng khối. - Vậy anh phải dọn hết gốc bên dưới hồ và mua một tay lưới ! - Khỏi ! Ai làm vậy ! Anh quên là tôi chỉ sống một mình, lấy ai để kéo bên kia đầu lưới. Tôi sẽ đan một cái đó hai miệng, phía nào cũng hứng được tôm. Kẻ đó vừa cho tôm nhỏ chui ra, tôm lớn vướng lại. Tre thiếu gì ở rừng khỏi mua, tôi sẽ bện đăng thật dài ngăn đôi cái hồ ra đặt đó vào giữa. Chặt gỗ rừng bắc cầu từ bờ ra, đứng trên cầu giở đó lên, đặt đó xuống, bắt tôm không phải nhúng chân xuống nước. Chỉ cần rải cám phía bên đây là từ bên kia tôm chui vào đó, tôm lớn vướng lại cho mình bắt, tôm nhỏ tiếp tục nuôi. Tôi nhủ thầm : "Ba Nhiều vẫn giữ y xì bản chất Nam Bộ "dân nhà đá" (đá theo nghĩa dùng chân), thích ở buồn đi, thích ứng nhanh với hoàn cảnh, đến đâu khai hoang lập nghiệp đến đó.
Ba Nhiều cắt tóc, nghe như chuyện đổi đời. Sắc diện như cây già thay lá, vẻ trầm uất xua tan đâu hết. - Ê ! Có gì coi bộ tươi tỉnh vậy. - Nói nhỏ cho nghe nhé ! Đôi khi tự ái cũng có lợi. - Tự ái với gà, với ngỗng hay với khỉ ở đây ? - Với người, người đẹp hẳn hoi. Tại ả tất cả ! Gánh đôi quang gánh đứng dưới kia, ngoài bờ suối ngước lên gọi ầm ĩ : "Ông Mìn Đù ơi ! ông Mìn Đù !". Ai đó mách cho ả đi mua tôm lại dùng cái tiếng ám chỉ đó. Tôi biết ả vô tình gọi vậy chứ không cố ý nhưng tôi nghe cứ ức đến tận cổ. "Mìn Đù", hai tiếng ấy anh lạ gì? Chỉ tại một số anh em chửi thề đầu lưỡi rồi mới nói. ở xứ mình nghe quen tai, nhưng đến địa phương khác người ta nghe lạ lắm, lại vốn có tính ví von người ta nói trại ra Miền là Mìn, và chữ sau thay bằng dấu huyền cho đỡ bẩn tai. Đời mà ! Mang màu cờ sắc áo khó lắm, dân tại chỗ họ có đánh nhau người ta bảo thằng Hồng, con Đào, thằng Mít, thằng Ôới coi như đứa cha căng chú kiết nào đó ở ngoài phố ẩu đả thôi, nhưng nếu anh mặc sắc phục, hoặc anh là thành viên một quần thể nào đó, dù người ta không cố ý, vô tình thôi, người ta cũng nói anh "Miền này miền nọ" hoặc anh Ba Tàu, anh Bảy Chà đánh nhau. - Cái đó nó động đến màu cờ sắc áo, động đến cao tằng cố tổ, ông bà tổ tiên, đến những đâu nữa ? Ai mà chẳng tự ái. Tôi mang cái cục tự ái to tướng ở trong cổ, ôm thang tụt xuống. Mụ Mễ này, trông sạch nước cản lắm. Mụ vất quang gánh xuống đất, xán lại gần như phải đứng nói chuyện giữa chợ đông, cái chỏm ngực thiếu điều xỉa vào vai tôi. - Ông Mìn Đù ! Ông bán tôm cho em đi ! Sẵn đà đang tức, vả lại gần quá tiện tay tôi véo vào đùi non ả một cái. Cô ả nhăn mặt vì đột ngột bị đau, tôi phòng bị chờ phản ứng nhưng trái lại ả nghiêng má cười "Ơỏi ! cái ông nỡm...". Mới hay chớ ! Mụ cười xởi lởi đến đỗi tre pheo trên rừng núi ngả nghiêng tất cả. Tôi nháy mắt xí nhan. Gọi là gì đó ? à ! Là "phản xạ tự nhiên"... rồi khẽ vừa đủ nghe "lên đây!". Chuyện gì trên chuồng chim miễn nói nhưng quá đã. Gái đoạn tang - chim ra ràng - gà mái ghẹ. Xong đâu đấy, tôi cân tôm. Mụ Mễ trả tiền sòng phẳng, gánh gánh về đem tôm ra chợ bán. Một thứ "nhục cảm không giao ước". Cả hai không ai ràng buộc ai, chỉ có thích. Rồi tiện thể cách nhật mụ lại gánh gánh vào, tiện thể mua cho tôi trà, rượu, dầu hôi, đường sữa, tính khấu vào tiền tôm chứ chẳng cho không... Lại kéo nhau lên chuồng chim... Cái bệnh "công thức" lại rọ ray trong đầu người viết truyện này : Hay là làm luôn đi ! Anh nên đặt vấn đề chính thức với chị ấy thành gia thất. - Làm gì có chuyện đó. Bà ấy chồng chết, con đã lớn. Bà ấy bảo kéo thằng đàn ông khác vào nhà, mệt lo lắm, biết có hợp không ? Hay việc gì sẽ xảy đến. Cứ ở vậy nuôi con mà hay, thà là nắng mưa với đôi quang gánh, ngủ gà ngủ gật ngoài chợ để làm tấm ván lát đường cho con cái ăn học trở thành kỹ sư, bác sĩ. Còn tôi, cái số phiêu bạt lãng tử làm sao dứt, chưa về đến quê hương xứ sở là chưa định được gì sất.
Một hôm anh rủ tôi : - Đi ra nhà bè chơi đi ! Chiều về... Anh buộc dây treo con dao rừng vào bụng, xách một cái giỏ bằng tre theo kiểu giỏ đi câu rê ở Cà Mau và không quên cái điếu thuốc lào bằng ống nứa. Chủ nhà bè bên sông Đà là một cụ già người dân tộc thiểu số, xưng hô với chúng tôi bằng tiếng Việt lơ lớ : "Chào cán bộ" - "Cán bộ uống đi... !". Ông thết khách cá khô nướng và chất cay. Ba Nhiều treo cái rộng nửa dưới nửa trên mặt nước. Mỗi khi ông lão từ trong mui lá bước ra, kéo sợi giây vó nghe kĩu kịt. Ba Nhiều bám đuôi theo. Khi vó cất lên rồi ông lão lấy cái rổ có cán tre dài đưa vào rốn vó, nắm lưới kéo hất tôm cá lên hứng, ông đưa rổ đến trước mặt Ba Nhiều. Anh chọn những con tôm nào có trứng bắt bỏ vào rộng của mình. Số còn lại, ông lão sẽ bán cho bạn hàng. Đến chiều, Ba Nhiều kéo cái rộng đầy tôm trứng lên, con nào con nấy tươi rói, bụng đầy trứng đỏ tươi bò lỏm ngỏm trông đến sướng mắt, móc cân, trừ bì, trả tiền cho ông lão cao hơn giá chợ. Anh có hai cái giỏ, một cái đem tôm về, một cái gửi lại, ngày nào anh không ra được, ông lão chọn tôm trứng giùm, rộng để đó cho anh. - Cái này tôi học kiểu làm ăn của tía tôi, ổng bảo tôi đi hớt cá rồng rộc đổ vào ruộng nhà để sau này tát đìa bắt cá lóc. Bao nhiêu trứng trong bụng tôm này tôi không đem về làm giống sẽ thả vào nồi vào chảo thôi. Có làm kiểu này mới đủ cho Mụ Mễ gánh mệt nghỉ ! Tôi theo sau nhìn anh khệ nệ đeo cái giỏ tôm đi trước, thỉnh thoảng cầm điếu ngửa cổ rít, phà khói lên trời. Chợt nghĩ giá có các nhà môi trường học ở đây họ sẽ ngả mũ gọi anh bằng cụ. Còn tôi lại nghĩ cái máu khai sơn phá thạch thời ông bà ta hướng về Nam đi mở nước phải chăng còn lưu lại trong con người lãng tử này.
Tôi lại vào rừng sâu. Vừa bán được cho mậu dịch một xe trâu mật ong gần một tấn, tôi định uống rượu mừng với anh. Nhưng anh biệt đi đâu không thấy. Chờ đến xế đành vác chiếc nón lá để ngửa đựng đầy tiền trở ra, đói đến mờ mắt. Bìa rừng có một ngọn đồi thấp bỏ hoang vu, lau sậy cao hơn đầu. Đất này trước đây người Mường đốt rừng tỉa lúa, sau vài năm trồng sắn, đất bạc màu chưa hồi sức, sao nay ở lưng chừng có một mái nứa ? Lại thấy bà Mễ từ trên cắp nón đi xuống. - Nhà mới của anh Ba Nhiều đấy, ảnh nhờ em mua hai con bê, em dắt vô cho ảnh, anh vào với ảnh đi, em xin phép về kẻo các cháu mong, mai em lên gánh tôm lại gặp. Tôi vào nhà khi anh đang mài phảng : - Tính chuyện gì dời nhà ra đây ? - Âồy !... Thấy đất bỏ uổng mình mở miệng xin, không ngờ ông Chủ nhiệm Hợp tác xã người Mường gật đầu ngay, rộng lắm... Lập vườn, lập rẫy xưa nay phải phát hoang trước, đốt xong mới dọn đất cày bừa, xuống giống. Ba Nhiều phá lệ. Anh luồn vào trong lau sậy, cứ khoảng cách sáu thước khóet một lõm rộng hơn một thước tròn, dọn cỏ đến tận rễ, đào hốc, mỗi lõm đặt xuống một cành cam. Anh bảo: - Ông Chủ nhiệm chỉ gật đầu không có giấy tờ gì, thời buổi này đất đai hoàn toàn do Hợp tác xã quản lý, ai dám ký giấy cho không. Để cỏ lau um tùm không trông thấy gì, chẳng ai ngó ngàng tới. Nhưng nếu mình phát trống ra chưa chắc được yên đâu. Phải chờ cây cối lớn lên ra hoa kết quả, mặc nhiên hoa lợi là của mình. Vả lại đồi cao thế này, phát trống ngay, nắng tháng năm, nước đâu tưới cho xuể. Để lau sậy xung quanh che cho nó giữ ẩm. Cây con phát tán tới đâu mình dọn cỏ rộng ra tới đó. Còn phân bón anh đừng lo, tôi có hai con bò, mỗi ngày hai bãi đủ cho một cây, mai đây bò mẹ đẻ ra bò con lủ khủ. Cây giống càng dễ, có tay trong ở vườn ương nông trường rồi. Cây kém kích thước loại bỏ họ sẵn lòng cho, không lấy tiền, nhưng tôi không đồng ý. Cam của họ xuất cho Liên Xô, bên ấy yêu cầu vitamin C thích cam chua, dân Hà Nội mình ưa cam ngọt, cam chua bán nội địa ai mua. Nên tôi nhờ tụi nó giúp khi về Thái Bình lấy mầm ghép, nó chọn cho mầm cam ngọt, trả tiền sòng phẳng, lấy tôm đổi cam khó gì. Trăm phần trăm gốc bưởi cành cam, ghép như vậy trồng đất đồi này mới chịu hạn nổi. Tôi hỏi : - Tất cả được mấy trăm cây ? Anh đưa tay lên phất qua : - Hướng này một hàng hai mươi lăm cây, hướng này một hàng hai mươi, nhân đi, hai mươi nhân hai lăm - nhưng vẫn chưa hết đất. Hai năm có trái lứa đầu vặt bỏ để dưỡng cây. Năm thứ ba anh yên chí đến đây phụ tôi đếm tiền. Tiếng là tập kết ra Bắc, nhưng Ba Nhiều chưa hề biết thủ đô Hà Nội, thật ra là có nhưng là ngồi trên xe chạy qua khi được áp tải đi nhận kỷ luật. Khi cam đã khép tán, đã đến lúc dám cho ngọn đồi xuất đầu lộ diện, nghĩa là phát sạch cỏ để lộ ra một căn lều nuôi bảy con bò và một sở trồng cam trái quả trĩu cành, nhìn mát con mắt. Ba Nhiều nhắn gội tôi đến bàn việc tiêu thụ : - Làm sao đây, ông nuôi ong ? Trình độ buôn bán của bà Mễ cao lắm là đôi quang gánh, không lẽ để cam treo cành đến rục quả. Hà Nội có anh chàng làm Công ty Rau quả chính gốc dân Trà Ôn, Cần Thơ biệt danh là Gôrigôri 0, nhiều bồ lắm nhưng chỉ thích chiều chiều khi phố xá lên đèn, thắng complet "Hàng Trống tailleur", đưa cánh cho người đẹp xỏ tay vào đi dạo phố, gặp bạn bè tập kết nào nháy mắt khoe mẽ cho vui chứ không thích lên giường phải chịu trách nhiệm. Tôi kéo Gôrigôri0 và cả cô bồ vào Thủy Tạ Bà Hồ tả cảnh vườn cam và thuyết về con người Ba Nhiều. Gôrigôri trầm ngâm có vẻ ngậm ngùi, trịnh trọng nói: - Vậy là vua cam rồi, tôi phải lên xem trước. Mai em có rảnh đi chơi với anh không ? - Mai chúa nhật, em cũng thèm cam lắm. Một chiếc com-măng-ca bon hết đường cái, rẽ vào rừng nhảy sòn sòn trên con đường mòn. Tôi coi nhà cho Ba Nhiều theo Gôrigôri về thủ đô ký hợp đồng bán cam cho Nhà nước. Hôm sau Công ty Rau quả điều lên một xe năm tấn chất đầy thùng gỗ để đóng gói cam tại chỗ, còn chở lên cho 10 bao urê, chứng tỏ cơ quan có ý định làm ăn dài dài nhiều năm với Ba Nhiều.
Tiếng lành đồn xa, chuyện anh Nam Bộ tập kết một mình trồng cam bán cho Nhà nước chở bằng xe tải thấu đến tai Ban Thống nhất. Hồi ấy có chủ trương rất trách nhiệm của lãnh đạo là : Đảng, quân đội nhận ủy thác của bà con miền Nam đưa anh em đi tập kết. Không thể phụ lòng đồng bào ruột thịt ngày đêm mong mỏi con em mình trở về cứu lấy quê hương. Phải đi khắp nẻo thu dụng tất cả số anh em lưu lạc bất kỳ ở đâu để tổ chức đưa về. Là mệnh lệnh của trái tim, tất nhiên phải mềm dẻo chứ không được ra lệnh.
Người nhận công việc này lên tìm Ba Nhiều là ông Ba Đắc. Ông có miệng nhưng không có cằm, đạn đum đum hồi chín năm đã cướp mất bộ xương quai hàm - vết thương sát tử ấy tăng sức thuyết phục của lời nói phải kề tai mới nghe rõ của ông gấp bao nhiêu lần. - Sao đây anh bạn ? ở đây nuôi tôm, trồng cam hay về. - Giỡn chơi sao ông ? Đừng quên tôi là dân vượt tuyến. - Bởi vậy "dục tốc bất đạt" nóng mũi đi ẩu nên bây giờ mới còn đây, anh em người ta về gần hết rồi. - Tội nghiệp thằng em, nói móc nữa làm chi anh Ba ! Thấy anh lên là thằng em mừng hết lớn. Ban Thống nhất hú một tiếng là có mặt em ngay. - Vậy ngoéo tay nghe ! Chuẩn bị đi. - Có gì phải chuẩn bị, phủi tay là xong ngay... Nói vậy thôi, vật chất phủi được, nhưng còn nghĩa tình? Ba Nhiều vào tuốt trong nhà chim chờ chị hàng gánh. Thị Mễ giẫy nẩy khi Ba Nhiều bảo giao lại cho thị vườn cam để kỷ niệm. - Nghìn lần em chả nhận đâu. Sao anh lại giao cho em. Làm thế khác chi lạy ông em ở bụi này. Thiên hạ sẽ tò mò, có quan hệ gì mà cho với nhận ? Em đã nói với anh lâu rồi, mình quen nhau là chỉ để thích. - Nhưng không có quen với em hồi đó anh xin đất làm vườn cam này để làm gì. Không lẽ anh có thể chở cả vườn cam này đem về xứ. Ao tôm và đàn gà đã thừa sức cho anh nhậu "mệt nghỉ" không hết. Xe Ban Thống nhất sắp lên rước anh rồi, người ta đánh nhau ầm ầm ở trong ấy bấy lâu nay; được về cứu khổ cho đồng bào là thỏa hết chí bình sinh của anh rồi. Đâu thể ung dung ngồi đây mà nuôi gà trồng cam... Anh cũng chẳng đã nói với em sao, cốt của anh là "dân nhà đá". Đi! Đi ! Rồi lại đi nữa đến tận cùng Tổ quốc. Em không nhận, anh biết giao vườn cam cho ai, bỏ héo khô chết uổng lắm. - Không ! Chết em cũng không nhận, công em ở vậy thờ chồng nuôi con bấy lâu nay... Nhãi ranh ! Anh cười cái gì ? Quen với anh chẳng qua là buộc phải mạo hiểm để giữ được tiếng thơm ấy. Bao nhiêu đứa thiếu điều quỳ mọp dưới chân bà xin cưới hỏi hẳn hoi... Đố đấy ! Bước được một bước vào nhà em ! Nghe em đi ! Anh giao vườn cam cho Hợp tác xã. Vậy là công đức vẹn toàn, còn cái ao tôm anh cho hai đứa nhỏ hay ra vô lấy củ nâu đó, chúng nó biết vót tre bện đăng đan đó với điều kiện là phải bán tôm cho em để em mỗi lần ra vô em nhớ anh. - Xem ra em cũng giác ngộ rất phết. - Đừng tưởng ! Gái này không kém ai đâu ! - Vậy thì phải thưởng ! Lên đây ! Lên đây đi ! Gà ngỗng, chim rừng, đàn ong trong cỗ quan tài bảo thọ lắng nghe. Tiếng người đàn ông : - Thông cảm cho anh ! Ta có duyên nhưng không có phận... Tiếng người đàn bà : - Thôi ! Đừng nghĩ ngợi lung tung nữa, chớ có phân tâm ! Để mà hưởng. Biết bao giờ có nữa ? Gió nô đùa với lá, tre pheo nghiêng ngả rừng núi bồng bềnh... Lại nghe tha thiết : - ối ! Ông Mìn ! ối ông Mìn ! ối ông Mìn !... ối ông Đìn! Mình ơi...
Chú thích
0 Tiếng lóng chỉ đảo ngũ 0 Nhân vật chính trong tiểu thuyết "Sông Đông êm đềm" của Sôlôkhốp"