Chỉ mục bài viết |
---|
Túp Lều Của Chị Tôi |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Túp Lều Của Chị Tôi
Tác giả:Tâm Thanh
Mẹ tôi nói sanh ra tôi là mẹ, nhưng nuôi tôi là chị Tuyết. Anh Hưng, con người lý sự nhất nhà, giải thích:
- Dễ hiểu mà: thằng Đạt sanh ra lúc chị Tuyết ở vào tuổi mê chơi búp bệ
Có thể. Khi mẹ mang ba người con lớn -anh Thịnh, chị Tuyết và anh Hưng- sang đoàn tụ với bố, chị Tuyết lên chín. Mẹ kể:
- Con búp bế làm bằng nhựa tái chế, đôi mắt xanh trợn trừng trông thấy khiếp, mà nó cứ đòi bồng lên máy baỵ
Gia đình đoàn tụ chưa đầy năm thì tôi ra đời và trở thành con búp bê cho chị. Hình ảnh đầu tiên còn lại trong ký ức non nớt của tôi là chị Tuyết, chứ không phải mẹ. Tôi khóc chị dỗ, đói chị bón cơm, đi cầu chị chùị Những hình ảnh về sau rõ nét hơn là tôi đi vườn trẻ, chị thay đồ, đưa đón, về nhà tắm rửa, đọc truyện cho tôi ngủ. Chị thường hát những bài lạ, khác hẳn những bài tôi học trong trường, chị gọi là “ru em”. Chị nói:
- Tiếng Na-uy gọi là “vuggesang”, tiếng Việt gọi là “ru em”.
Trong lòng thương hại mẹ, tôi đã cảm thấy sự xa cách - “cưng không được quấy mẹ, mẹ yếu lắm”, nhưng khi nói tới vuggesang tôi nghĩ tới tương quan mẹ con, tôi bèn hỏi:
- Tại sao không gọi là “ru con”, Tít?
Chị cười dịu dàng:
- Gọi là “ru con” cũng được. Nhưng ở Việt Nam, thường mẹ bận đi làm đồng, chị phải bồng em đi chơi, ru em ngủ...
Hai tiếng “ru em” trở thành hai tiếng êm dịu nhất trong tiếng Việt đối với tôi, cũng như sau này tôi nghe một bà tài tử Mỹ (không nhớ rõ Tina Turner hay Oprah Winfrey) nói “lullaby” là tiếng có âm điệu du dương nhất trong tiếng Anh. Những bài hát chị ngâm nga đi vào giấc ngủ và giấc mơ của tôị Lớn lên, tôi vẫn mang những giấc mơ đó. Không biết tôi bỏ phòng bố mẹ từ khi nào (chị Tuyết nói từ khi mẹ sanh thằng Út) và ngủ trong phòng chị cho tới khi phải dọn sang ngủ chung với anh Hưng. Tôi không quên được cái ngày đó. Đó là một ngày cuối mùa hè, trước khi tôi lên lớp sáu, tôi nhớ rõ vì tôi khóc nhiềụ Chị phải hứa mỗi tối sẽ sang đắp mền cho tôi ngủ. Nhưng sau này tôi thường tự động sang phòng chị, nghe kể một truyện cổ tích Việt Nam. Nghe xong truyện, tôi nhắm mắt làm bộ ngủ để chị bồng về giường. Tấm mền phủ lên là tôi ngủ thật.
Chị Tuyết bắt tôi đi học hè tiếng Việt do Trung tâm Mục vụ tổ chức. Hôm đầu dì phước cho thử trình độ để xếp lớp, tôi thấy mấy đứa cùng tuổi, đứa nào cũng võ vẽ đánh vần tiếng Việt sơ sợ Tới phiên bị hỏi, tôi đứng ngay cán cuốc ra, không biết lấy một chữ. Có đứa con gái ở khu tôi, nói toáng lên, tôi nghe chua như giấm:
- Thưa cô, bố trò Đạt là thày dạy tiếng Việt của con!
Cả lớp cùng “ồ” lên ngạc nhiên. Hôm sau tôi không chịu đi học, chị Tuyết hỏi gặng mãi tôi mới kể lại câu chuyện mắc cơ hôm quạ Tôi chỉ kể riêng với chị, vì việc học tiếng Việt là do sáng kiến của chị, một mình chị thu xếp và lấy tiền túi đóng học phí, mua thẻ xẹ Bố mẹ muốn chúng tôi dồn hết sức vào việc học tiếng Na-uy, tiếng Việt không cần thiết. Nhưng đối với chị Thuyết, tôi phải nói và viết giỏi tiếng Việt. Chị kéo tôi ra vườn, bồng ngồi trên xích đu, dỗ:
- Tít sẽ xóa nạn mù chữ cho cưng.
- Xóa nạn mù chữ là cái gì, Tít?
- Lớn rồi mà không biết đọc, biết viết tiếng Việt, bị coi như mù, mù chữ. Ngày xưa, ở quê mình người ta mở lớp ban đêm dạy cho họ biết đánh vần, gọi là “xóa nạn mù chữ”. Tít sẽ dạy cưng đánh vần ở nhà, hết mù chữ mới đi học.
- Học ở nhà thì em học. Em không đi lớp hè đâụ
Chị ừ hử, đỡ tôi nằm xuống, kê đầu lên đùi chị. Gió lùa rung rinh những bóng cây trong vườn ngập nắng làm tôi buồn ngủ, văng vẳng bên tai tiếng chị ngọt ngào:
“Ba cô đi chăn bò vàng
Để bò ăn lúa ba nàng hái hoa
Hái được cành bổng cành la
Cành nào tươi tốt cho ta một cành.”
Bài ca dao đó chị hát nhiều lần, tôi đã thuộc rồi, chị dùng những chữ “ba, la, ta, bò, cho, cô v.v.” làm bài học vần đầu tiên. Qua chừng 10 bài ca dao ngăn ngắn là tôi nhận ra hết các vần căn bản của tiếng Việt. Khi trở lại trường, dì phước định cho tôi học lớp ABC, nhưng chị Tuyết xin dì thử lại tôị Dì đưa cho tôi cuốn tập đọc, tôi méo miệng, chu mỏ một hồi rồi cũng đọc được nửa bàị Dì ngạc nhiên lắm, bảo:
- Thế mà bữa trước không thèm mở miệng. Cu này coi tướng lì mà biết mắc cỡ!
Chị Tuyết thường đi thư viện Deichmanske ở Oslo, có kệ sách tiếng Việt, bê về cả lô sách để đọc, và bao giờ cũng có một cuốn riêng cho tôị Buổi tối chị đọc truyện cổ tích cho tôi nghẹ Trong gia đình, ít người nói chuyện với chị Tuyết. “Không hợp”. Chỉ có tôi hay thủ thỉ với chị. Thỉnh thoảng anh Hưng “phân tích”:
- Người Na-uy có tục lệ đọc truyện cho con trước khi ngủ. Một tục lệ rất haỵ
- Theo em, Việt Nam mình có tục này không? Chị Tuyết hỏi lại anh Hưng.
- Làm gì có? Anh Hưng nóị Suốt ngày cha mẹ làm lụng quần quật, tối về mạnh ai nấy ngủ khò, con nít thì học bài, làm gì có cái vụ cha mẹ đọc truyện cho con, chờ con ngủ, hun “ngủ ngon”, rồi đắp mền?
- Em nói sai rồị ở Việt Nam, cha mẹ không cầm sách đọc truyện, nhưng kể truyện cổ tích gần như mọi nơi, mọi lúc, giã gạo, tát nước, làm đồng, đi đò dọc, đi bộ đường xa, ngồi chợ bán hàng, ngồi hóng mát dưới trăng, ngồi nghỉ chân dưới gốc đa v.v. lúc nào người lớn cũng có thể kể truyện cho con nít nghẹ
Tôi tự hỏi: chị bỏ Việt Nam lúc lên chín tuổi, tại sao chị biết nhiều như vậỷ Tôi có cảm tưởng chị là một cây bonsaị Sau này lớn lên tôi hiểu tại sao lúc đó tôi có sự so sánh ngộ nghĩnh đó - trong cái dáng nho nhỏ của chị đã tích tụ cả thời gian trăm năm, và một cõi rừng núi xa xăm. Anh Hưng nghiêng đầu như cố nhớ:
- Sao hồi nhỏ em không được nghẻ
- Hồi ở Việt Nam, bố vượt biên, mẹ chạy gạo, đời sống bất ổn, bao nhiêu điều lo lắng, không ngồi kể chuyện cho chị em mình được... Nhưng chị nhớ cũng được nghe bà ngoại kể chuyện dưới trăng ngoài thềm nhiều lần, và lần thích nhất là đêm canh nồi bánh chưng. Lúc đó em không bắt đom đóm thì cũng ngủ khò, không được nghe các truyện Tấm Cám, Thạch Sanh, Ăn khế trả vàng v.v.
Có lẽ không phải chị Tuyết chỉ mê chơi búp-bê, mà chị thích cả chơi chòị Chị chăm chút ngôi nhà của gia đình chúng tôi ở Bekkestua như một cái chòi, chị tự may những cái màn cửa sổ, lau chùi, quét dọn, lâu lâu chị kê lại bàn ghế, mùa hè chị cắt hoa ngoài vườn vào trưng trong phòng khách và phòng ngủ từng người, và chị làm bếp, nấu những món ăn Việt Nam mà chính mẹ không biết nấu, hoặc nấu không ngon bằng. Mẹ đau yếu quanh năm, sanh tôi và thằng Út xong càng yếu hơn. Năm người con trai (ấy là tôi coi bố cũng là... con trai) ai cũng có “quí tướng” cả, “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, mẹ nói với một vẻ hãnh diện nhiều hơn trách móc. Mẹ hãnh diện nhất về anh Thịnh, học hành chăm chỉ, để bốn năm tu thân tích điểm rồi cũng vô được y khoa, đang làm việc trong bệnh viện. Đương nhiên “bác sĩ của mẹ” không có quyền mó vào những việc dành cho đàn bà con gáị Anh Hưng giỏi máy móc, bận đi sửa xe, bắt điện, nâng cấp máy điện toán cho khắp thiên hạ, nhưng cái ống nước tưới vườn trong nhà bị bể, lại do chị Tuyết sửạ Chị phải sửa vì cuối mùa thu, sau khi một mình quét dọn lá khô trong vườn và dọn dẹp bàn ghế vào kho, chị quên không xả nước, mùa đông ống bị bể. Những việc đó không anh nào làm, tôi không biết làm, muốn làm chị cũng không cho “cưng” làm. Thằng Út bận đi đá banh; nó đã trở thành cầu thủ chính thức cho đội tuyển quận. Còn bố, ngoài việc làm phụ giáo (có lương) cho các trường đông học sinh Việt Nam, bận làm báo cho hội gì đó. Chị Tuyết bao biện mọi việc trong nhà như một bà nội trợ.
Chị cũng phải tới trường Na-uy như mọi người (chị học nữ điều dưỡng), tôi không biết thì giờ ở đâu mà chị học tất cả những điều ngộ nghĩnh kiạ Dường như từ trong máu chị đã sẵn có những câu ca dao, những công thức bánh, những cử chỉ, điệu bộ, những câu, những chữ làm mềm mại lời nói của chị. Riêng điều sau cùng này tôi ít thấy ở những người cùng tuổi với chị và với tôị Tôi sanh ra và lớn lên tại Na-uy, không biết gì về Việt Nam. Không biết gì về người con gái Việt Nam, ngoài hình ảnh người chị... ru em, hoặc đối với riêng tôi, chỉ phảng phất mà vương vấn lạ lùng là: hình ảnh chị rón rén cúi đầu khi miễn cưỡng phải đi qua mặt bố mẹ đang nói chuyện với khách. Hoặc hình ảnh chị chải tóc thật kỹ buổi sáng trước khi ra khỏi phòng. Tóc chị óng mượt như nhung. Có lúc tôi thấy chị như một đóa hoa xuân trong chiếc áo dàị Có lúc tôi thấy chị như một bà già khi chị ngồi giặt các bao ni-lông, hong khô, để dùng lại, hoặc đi chợ trời mua quần áo cũ sửa lại mặc.
Ngược lại có nhiều việc nhỏ mọn chị lại cẩn trọng, không chắp vá, không tùy tiện. Ví dụ như đối với chị, các món ăn phải thuần túy, đúng kiểu, đúng cách, không được “phăng” ẩụ Hồi còn nhỏ tôi thích việc so đũa cho cả nhà, chị dạy so đũa thật đều và thật thẳng. Đũa cong chị vất đi hết. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Tít hà tiện, sao vất đũa đỉ
- Không phí phạm không có nghĩa là không tiêu dùng. Phải dùng đũa cho đúng. So đũa đều bố mẹ sống lâu trăm tuổị So đũa thẳng ăn ngay nói thật.
Chị nấu nhiều thứ chè thật ngon, chè khoai môn sầu riêng, chè xôi nước, chè bột lọc, chè khoai lang, chè bí rợ, chè đậu đen, chè đậu xanh. Cả nhà đâm ghiền. Buổi tối ăn cơm xong, cả nhà ngồi chơi, coi TV, uống cà-phê, trong khi chị Tuyết lục đục rửa chén bát. Chị vừa ở trong bếp ra, anh Hưng nói trống:
- Bây giờ có chén chè ăn thì tuyệt hả
Anh Thịnh và thằng Út cùng phụ họa:
- Em cũng thèm chè.
Mẹ mắt nhìn chị Tuyết ái ngại, miệng rầy các anh:
- Bay làm như hô thần chú thèm là chè hiện ra cho mà ăn!
Người “hô” chè đầu tiên là anh Thịnh, nên cái nhìn ái ngại của mẹ, đối với chị Tuyết có nghĩa là một lời nhắn khéo “thôi con chịu khó một chút”. Những người khác chỉ chờ “ăn có”. Còn tôi cũng muốn ăn chè, nhưng không muốn chị Tuyết mất công, nhìn chị ra dấu “đừng”. Thế mà chị hiểu thế nào không biết, đứng lên đi nấu chè.
Tài nấu ăn và tính chăm việc của chị cũng có hạị Cả nhà ăn không ngồi rồi cứ béo lăn rạ Một hôm đầu mùa hè mà đã nắng ấm ran da, chúng tôi chẳng ai bảo ai, mình trần quần đùi nằm lủ khủ phơi nắng trên bãi cỏ ngoài vườn. Chị Tuyết đi làm rồi đi chợ về, vai đeo xắc, hai tay kệ nệ hai bịch ny-lông to bự, thở mệt nhọc, chị nhìn một cách quái dị vào chúng tôi, nói:
- Y như một bày heo cạo!
Tôi ngổm dậy coi, thấy mấy người con trai béo nần béo nũ, bụng phệ, trắng hếu, y như bày heo đã cạo lông sạch sẽ. Nhưng con heo phệ nhất, hếu nhất lại là... bố. Tôi không nhịn được cười, trỏ tay vào bố:
- Con heo này mập nhất!
Cả mấy “con heo” kia cùng cười hô hố. Lúc đó chị Tuyết mới nhận ra bố, hoảng hồn, tròn xoe mắt, há hốc mồm, chạy vào nhà.
Chị Tuyết chăm lo cho mọi người và nhà cửa từng ly từng tí, nhưng chính chị thường bị quên lãng. Một buổi chiều mùa đông cả nhà ngồi trong phòng khách bàn về việc sửa nhà. Nhà hiện có bốn phòng ngủ, bố mẹ chiếm phòng lớn ở nhà dưới bên cạnh phòng khách, trên lầu có ba phòng, anh Thịnh và thằng Út ngủ chung một phòng, tôi và anh Hưng chung một phòng, chị Tuyết một mình một phòng. Thằng Út với anh Thịnh cứ hục hặc hoài về chuyện mở nhạc và tắt đèn. Bố mẹ muốn cho mỗi người con một phòng riêng và thêm một phòng kiếng để bố trồng lan và bonsaị
Mẹ thấy hết củi sưởi, nói:
- Đứa nào ra lấy củi đị
“Bày heo” nằm ngồi nghiêng ngả, im thin thít như bị dí điện a-ba-toạ Chị Tuyết im lặng đứng dậy ra sân lấy củị Tôi theo ra tiếp chị. Tôi banh bao gạo ra cho chị nhét củi vàọ Mặc dầu chị Tuyết đã ra trường, và tôi đã học xong trung học, tôi vẫn gọi chị bằng “Tít” (tiếng nói ngọng của tôi hồi nhỏ):
- Tít ơi! Bộ người con gái Việt Nam phải làm hết mọi việc saỏ
- Việc trong nhà, gần như hết việc trong nhà.
- Thế là bất công.
- Không bất công đâụ Khi nào cưng có gia đình riêng cưng sẽ thấỵ Người đàn ông lo việc bên ngoàị Người đàn bà lo mọi việc trong nhà.
- Nhưng Tít vừa lo việc trong nhà vừa phải đi làm.
Chị không trả lờị Trăng chiếu trên tuyết trắng đẹp quá. Tôi thấy chị Tuyết cũng đẹp. Tôi bưng bao củi lên, hỏi đột ngột:
- Bên Việt Nam không có tuyết, sao bố mẹ đặt tên Tít là Tuyết?
Chị cười:
- Tít không biết. Cưng hỏi bố mẹ ấỵ
- Nhưng Tít thích tên đó không?
- Thích lắm.
Trong lúc xếp củi vào hộc bên cạnh lò sưởi, tôi hỏi bố mẹ:
- Bố mẹ! Tại sao bố mẹ đặt tên chị ba là Tuyết?
Bố đặt tờ báo chiều xuống, gỡ kính một cách chậm chạp để có thời giờ suy nghĩ, nói gọn:
- Tuyết đẹp.
- ở Việt Nam đâu có tuyết mà thấy đẹp, bố?
- Không có tuyết, nhưng người ta mơ vẻ đẹp của nó. Hay đặt cho con gáị