watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:10:2628/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tình Yêu Đất
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Tình Yêu Đất

Tác giả: Võ Hồng

Lão Túc bổ liên tiếp năm sáu nhát cuốc thật mạnh. Lưỡi cuốc vạt từng mảng đất lớn, kéo ngã sấp xuống. Vết cắt láng nhẵn như có thoa mỡ. Mặt đất cỏ mọc dày, vết cuốc cắt đứt rễ cỏ chằng chịt nghe "rạo" một tiếng ngọt. Chốc chốc là một cây sục sạc, một bụi mắc cỡ, một cây găng bị ngã theo mảng đất. Ðất mới tỏa ra một hương thơm nồng, ấm, ngai ngái. Ðó là thứ mùi quen thuộc lão vẫn thường ngửi mùi khi vào tháng Năm, lưỡi cày của lão xốc từng mảng đất thổ, khi vào tháng Hai lưỡi cuốc của lão bổ xuống từng nhát mạnh để cuốc cỏ mía. Nơi vết thương của lòng đất vừa mở, hơi nóng tỏa nhẹ lên làm lão ngây ngất và khiến lão nghĩ rằng đất là thứ da thịt có cảm xúc.
Ở quanh rìa đám đất, những gốc duối, gốc móc, ó, móc mèo nằm ngổn ngang hoặc chồng chất lên nhau. Gốc nào cũng vặn vẹo, sù sì, mang từng dải, từng chùm, rễ dài. Chúng đợi khô để chui vào bếp lửa.
Lão Túc chống cán cuốc đứng nghỉ. Mồ hôi điểm giọt trên khuôn mặt, họp lại chảy thành dòng xuống má xuống râu. Da mặt đen xạm như một gốc tre bị hun khói. Nếp nhăn chằng chịt cày sâu trên khuôn mặt, bao quanh đôi hố mắt trũng xuống, bao quanh cái miệng móm. Lão không mặc áo mà chỉ đánh một cái quần đen bạc màu xắn lên đến đầu gối. Da ở ngực, ở lưng, ở đôi cánh tay ống chân cũng đều hừng hực một màu nâu cháy, màu của những choé rượu bằng đất nung già lửa chảy men.
Mặt trời đã đứng ở đỉnh đầu. Hai con chim bạc má đuổi nhau kêu chi chách ở bụi cò ke um tùm gần đó. Lão đi lại gần ấm nước, với tay cầm lên tu một hơi dài. Nước chảy từng dòng xuống ngực, xuống bụng. Lão đưa mắt nhìn một vòng khu đất vừa khai phá. Bờ ranh sát với đường cái đi, lão để chừa một hàng gai bàn chải làm hàng rào. Ðầu kia là cái ao nước mọc đầy rong đuôi chồn màu xanh già. Những chòm rau chóc đứng ven bờ đơm từng chùm hoa tím nhạt.
Khoảng đất này nguyên là đất bỏ hoang mọc đầy gai bàn chải. Bỏ hoang từ bao giờ; lão không hề biết vì hồi còn nhỏ lùa bò đi qua đây lão đã hồi hộp lo sợ khi nhìn rừng bàn chải âm u, vắng lạnh. Hồi ấy nơi đây còn có một cây đa to. Thân đa đầy hang hốc, rễ buông sù sì và hỏa lò vỡ, bình vôi bể chất ngổn ngang ở gốc cây. Một không khí ma quái rùng rợn phảng phất, nhất là khi nhìn lên chân núi đứng kề đó, lão thấy ngổn ngang những nấm mộ. Người sống đi lại, buôn bán nói chuyện, cãi vả ở đầu xóm và giữa xóm. Người chết nằm yên lặng ở cuối xóm nơi chân núi, dưới những ngôi mộ. Khu gò hoang này, người trong xóm gọi là Gò Ðình. Chắc hồi xưa nơi đây có cái đình. Bây giờ thì trong óc người dân xóm, Gò Ðình là tượng trưng cho một cõi, một miền xa xôi hoang vắng nhiều rắn rết, nhiều ma quái. Những lời truyền trong xóm không thiếu gì để tô điểm cho cái không khí âm u huyền bí nơi đây. Có người nói đã gặp, chỗ này; một đôi rắn thần to bằng cột nhà, dài bằng mười thước và trên đầu có mào đỏ. Có người nói hòa thượng chùa Ðồng Mạ đi qua đây giữa khuya đã gặp một con quỷ màu trắng toát cao đến đọt cây gạo. Hòa thượng bắt quyết, nạt to lên một tiếng và con quỷ tan đi. Biết bao nhiêu câu chuyện rùng rợn nữa làm cho lão, hồi nhỏ, ngồi chồm hổm bên bếp lửa mùa đông, mở to mắt say mê nghe và cứ xích dần vào gần đống lửa.
Lớn lên, già đi, lão không còn sợ ma, sợ quỷ nữa. Ðã từng chứng kiến bao nhiêu cái chết, cái chết của cha mẹ, của họ hàng, của người quen, của người lạ, của người già và người trẻ, lão thấy nếu người chết có hóa ra ma thật thì lão sẽ không ngạc nhiên khi gặp. Lão tưởng tượng mình có thể đứng nói chuyện với ma được. Và nếu ma có rủ lão chết thì lão cũng sẽ chết theo, miễn chết sao cho nhẹ nhàng êm thấm, đừng đau đớn. Ðời lão có gì sung sướng đâu mà lão tiếc?. Lên sáu tuổi đã phải đi chăn bò cho người ta. Lên mười lăm tuổi thì cầm liềm cầm hái đi gặt. Rồi thì cày ruộng, tát nước, gánh mạ, cuốc cỏ... Có bao giờ lão được an nhàn ấm thân đâu? Hết thời Tây đến thời Nhật qua thời kháng chiến, lão mơ ước có một đám đất của mình để gieo hột giống của mình, cắt lên bó lúa của mình, nhưng không bao giờ lão có được. Sống gần hết đời người mà lúc nào cũng chỉ có trên tay một cái rựa, trên vai một cái cuốc, trên đầu một cái nón lá rách tả tơi. Nhìn người ta có đôi bò, đôi trâu, có đụn rơm đứng ngất nghểu ở góc sân, có bồ lúa nằm oai vệ ở giữa nhà, lão thèm thuồng một cách tuyệt vọng. Ông Xụ kêu người ta tới cân bông. Ông Lá nhắn người ta đến hốt đường. Ông Quyền bán lúa, ông Lâm bán bắp... Mọi người nhà nông đều có một món gì để bán ra. Ngày mùa, họ lo âu hoặc hớn hở. Còn lão; lão luôn luôn đóng vai người ngoài cuộc, lúc nào cũng chuẩn bị đổ mồ hôi ra dưới ánh nắng để làm lấy công. Lão không có dịp, lão không có quyền lo lắng và hy vọng. Bấc sớm hay nồm trễ, lúa nhe kịp trỗ hay lúa ba thóc mới đòng đòng, đó là câu chuyện của người ta, chỉ dính dáng đến người ta. Lão cũng muốn nói góp vào, nói cho đậm đà câu chuyện nhưng mà tủi thân biết bao khi câu chuyện chấm dứt. Vì khi về với thực tế, lão lại chua xót thấy mình không hề có một vạt lúa, một nắm bắp, một nương khoai.
Một hôm lão chợt nảy ra ý kiến khai phá Gò Ðình. Vợ lão e dè phản đối:
- Chỗ mồ mả rắn rít...
- Gặp mồ mả thì mình lấy cốt.
- Biết vậy nhưng mà...
Vợ lão không nói hơn. Ngoại trừ những chuyện cụ thể như nồi cơm trách mắm, con chó con mèo, cây rau cây chuối... còn thì mụ không nói lý luận được. Lão Túc cặm cụi phát một mớ bàn chải cho ngã xuống sau mười ngày phơi nắng, lão chất đống lại đốt. Từng nhát cuốc bổ xuống. Những đống bàn chải khác lại tiếp tục được phát xuống, được đốt đi. Từng nhát cuốc bổ xuống. Kiến càng, kiến lửa, kiến bù nhọt táo tác chạy loạn. Thằn lằn, rắn mối, kỳ nhông chạy "rẹt" vào bụi rậm khi nghe bước nhân thình thịch, nhát cuốc phầm phập. Cào cào, châu chấu, bọ ngựa, dế trũi, dế mèn nhảy tới tấp, bay rào rào về phía trước mặt, nơi gai góc và lá xanh chưa bị tàn phá. Tháng Bảy nền trời nặng những tảng mây vẩn đục. Cơn mưa dông đầu mùa ào xuống. Nơi khoảnh đất vừa khai phá, lão đánh vồng trồng khoai lang. Giữa hai vồng khoai, lão rắc bắp. Nơi bờ ranh, lão gieo hột mướp, bí ngô. Ven bờ cái bàu nước, lão trồng rau muống, rau húng, rau ngổ, cà dĩa, cà dái dê. Lão cắm những hom củ mì. Lão giăm những đọt mía. Lão muốn trồng đủ thứ, đủ thứ vào trong cái giang san bé nhỏ này của lão. Nhất định là không có một diện tích nào bỏ trống. Lão thương yêu từng mảng đất nhỏ. Nhổ một bụi cỏ dại nhưng trước khi vất đi vào bụi râm, lão phải cẩn thận đập chùm để cho bao nhiêu đất bám vào đó phải rụng xuống vào giang san của lão. Nhiều lần thuận tay chụp một hòn đất định ném theo một con dông đang đào hang bươi những rễ khoai, lão chợt ngừng tay lại bỏ hòn đất xuống rồi đảo mắt tìm một mảnh sành, một viên đá. Lão sợ hòn đất lọt ra ngoài bờ đường, làm gầy mòn đi cái giang san của lão. Lão thương đất như thương con, như thương chính da thịt của mình. Có những buổi chiều mùa Hạ, lão trải chiếu manh xuống đất rồi nằm ngửa mặt nhìn trời. Da trời xanh láng nhuyễn như thịt một con mực vừa cắt ra. Một tiếng sơn ca rung rinh trên từng cao. Lão cảm nghe ấm áp tựa nơi lưng mình là mảnh đất thân yêu, mảnh đất của mình, mảnh đất chắc chắn là của mình, nhẫn nại sinh ra khoai lúa là để cho riêng mình. Còn ai thương lão hơn mảnh đất này không? Con lão thì bỏ lão đi. Nó mê gái hơn cha. Lão nói với nó:
- Hết mùa cày, thằng Lợt, mày phụ tay với tao phá rộng thêm miếng đất Gò Ðình.
Thằng Lợt im lặng, lầm lì không trả lời.
- Chừng nào tao chết thì mày có miếng đất đó để trồng trọt làm ăn. Có một miếng đất đỡ hơn là suốt đời chỉ đi làm mướn.
- Giàu có gì, miếng đất đầy mồ mả đó.
Lão Túc quắc mắt nhìn con, chồm người tới trước trong một tư thế tự vệ. Câu nói của thằng Lợt mổ vào tự ái của lão, bất ngờ như lão vừa bị một con ong châm nọc. Nó xúc phạm tới mảnh đất của lão. Lão giận dữ quát lên:
- Mày nói sao? Ðất sao lại mồ mả? Ðất nào không mồ mả? Công tao khai phá, đổ mồ hôi cục, mồ hôi hòn xuống đó. Mày...
Giọng lão run lên. Thằng Lợt bỏ đi ra chuồng heo. Thực tình thì nó đâu có ghét đất? Nó sở dĩ chán hết cả cày, cuốc, trâu, bò là vì con Tỵ sắp đi Phan Thiết làm ăn.
Cô con Tỵ bỏ xứ đi hoang mười lăm năm trời, mới về thăm quê. Mụ mặc áo ni-lông và đeo đồng hồ tay. Mụ nói giọng Sài Gòn. Mụ bảo: "Ði ở đày tớ cho người ta ở thành phố còn sướng hơn có ruộng ở nhà quê. Mỗi tháng lãnh lương bốn, năm trăm đồng, để dành uốn tóc, mua đồng hồ và may áo ny-lông". Con Tỵ nghe nói mê mẩn quyết đi vào Phan Thiết nơi cô nó ở. Thằng Lợt nghe tin đau xót trong lòng. Nó như người mất hồn để cái gì đâu quên cái đó. Con Tỵ rủ nó cùng đi. Nó ngần ngại vì nhút nhát. Từ nhỏ đến giờ chỉ mới nghe đi xe ngựa tới Phú Tân. Tuy Hòa xinh đẹp làm sao. Quy Nhơn sang trọng như thế nào, nó chỉ mơ ước và sợ sệt mà không dám mong đi tới. Nó khuyên con Tỵ đừng đi. Nó bày chuyện đem ra dọa con Tỵ. Nhưng con Tỵ chỉ thò lò mắt ra nhìn, lông nheo dày đặc, lông mày rậm ri. Ðó không phải là loại đàn bà biết sợ. Nên thằng Lợt cuối cùng phải lén quấn mớ áo quần cũ trốn nhà đi theo nó.
Thằng con bội bạc! Bây giờ nó ở đâu lão đâu có biết. Mê gái bỏ cha bỏ mẹ, bỏ quê hương làng xóm. Ðó, nuôi con cầy cục từ nhỏ chí lớn, thế là lớn lên có nhờ nó được gì không? Mảnh đất trung thành với lão hơn. Và hiền lành nữa. Hơn cả vợ lão.. Vợ lão ăn hiếp lão thường xuyên, nói một tiếng thì mụ trả lời lại mười. Mụ xô vào giằng co với lão, đập thùm thụp vào lưng lão. Lão nhịn. Hôm nào vô phúc lão nổi hăng lên cãi lại mụ thì chiều hôm đó lão phải nhịn đói. Mụ nằm dài trên giường đắp chiếu rên hừ hừ, nhất định không xuống bếp. Thằng Lợt bỏ nhà ra đi theo con Tỵ, cả xóm đều biết nhưng mụ cũng nhất định đổ tội cho lão, bảo rằng tại lão mà ra. Láng giềng của lão thì cũng chẳng ai hiền lành hơn. Họ nhìn xéo và liếc trộm. Ðó là những người cũng nghèo như lão. Những người giàu, những ông hương ông xã thì gọi lão bằng "thằng cha Túc". Khi lão để râu dài, người ta gọi là "lão Túc". Mấy cán bộ trẻ tuổi có người gọi lão bằng "cụ", nhưng lão phải trả lại bằng rất nhiều tiếng "dạ", "dạ" trước câu nói và "dạ" sau câu nói. Rốt cuộc chỉ có mảnh đất này là để cho lão an lòng, để cho lão nương tựa. Nó không phản bội lão. Ðất không phản bội người, chỉ có người mới phản bội đất. Người dậm chân thề nguyền rủa sả rồi bỏ đi. Ðất vẫn ở lại nhẫn nại trung thành. Khi người về, người cứ tưới mồ hôi xuống là đất lại nảy ra lá xanh, đơm hoa, kết trái. Lão dang tay đặt xuống mặt đất. Lão duỗi chân cho chân kề sát đất. Lão lăn qua nằm úp mặt xưống đất. Khối đất vững chắc nặng trình trịch nằm câm nín như khuyến khích lão an tâm. Ðất không vồn vập đón mừng, nên đất cũng không lạnh nhạt xua đuổi.
Qua tháng Mười bí ngô bò chằng chịt lên bụi bờ gai gốc nở những nụ hoa vàng lớn. Lá bí lá mướp xanh rờn rợn che kín những thân gai xương xẩu, như truyền cho lão sức sống dồi dào tươi mát. Thân bắp vươn lên căng ứ nhựa, lá óng ánh chao đi chao lại thêm gió phe phẩy. Rồi bắp trỗ cờ, hoa vàng rung rinh thả từng trận mưa phấn nhẹ mỏng như sương. Rồi bắp răng chàng nhu nhú trong bẹ. Trái bắp lớn dần, no tròn thêm, căng những hột non dưới lần bao. Những con ong vò vẽ, ong bầu, ong mật bay vù vù rộn rã suốt ngày, chui vào hoa này, bám lên hoa kia làm nhộn nhịp cả một khu không khí. Vành khuyên chích choè gọi nhau, trả lời nhau, đuổi nhau từ cành này sang cành khác. Một cặp chìa vôi bay đến đậu, nói chuyện liến thoắng. Ðúng là những đứa lắm miệng lắm mồm. Tiếng con chim gáy đổ hồi ở nơi xa hơn, chầm chậm, buồn buồn như tiếng đếm nhịp của một ông giáo già dạy học ở nhà thờ. Chào mào nghe ồn àn cũng rủ nhau tìm tới, cất tiếng chuyện trò. Tiếng chim ở trước mặt, ở sau lưng, ở bên trái, bên phải chen chúc lẫn lộn vào nhau. Sau một hồi làm náo loạn khoảnh đất yên tĩnh này, chúng vội bay đi mất hết để lại một mình lão với tiếng cuốc phạt từng nhát xuống đất, chầm chậm đều đặn, tiếng một cành cây bị bẻ gẫy, tiếng một chùm lá cọ xát vào nhau. Có khác gì cuộc đời của lão đâu? Hội hè, đình đám, Tết nhất giỗ chạp, giọng cười bên ấm trà, câu chuyện vui trong khói thuốc... Tất cả chỉ là những món trang điểm nhất thời. Lầm lì, chịu đựng, cán cuốc bóng nhẵn trong gan bàn tay, ánh nắng rung rinh đốt nóng tròng mắt, đó mới là cuộc đời thực của lão. Những buổi chiều đi về nhà, tay cầm trái mướp mới hái, đầu đội thúng khoai mới dỡ hay một xâu trái bắp tròng vào cán cuốc vác lên vai, lão thấy lâng lâng vui sướng, chân bước nhẹ nhàng. "Mảnh đất của mình! Niềm thương và hy vọng của mình!" Từng chặp lão bắt gặp ý tưởng ấy nó cứ len lõi, như lấp kín trong óc lão, không chịu rời.
Mỗi ngày cái khoảnh đất của lão mỗi nới rộng ra. Những bụi duối to được chặt đi và lão hì hục dùng xà beng nạy cho bật rễ, kéo đặt nằm trên mặt đất trông như những thân người quằn quại đau đớn.
Một buổi chièu trên đường về nhà, lão Túc gặp ông chủ tịch xã. Lão đưa tay trái lên gãi đầu, miệng lí nhí một lời chào:
- Dạ thưa thầy...
Ông chủ tịch tươi cười:
- Thầy bà cái gì. Thời đại bây giờ. Ở dưới đất về đó hả?
- Dạ.
"Ở dưới đất về", bốn tiếng đó làm mát một nơi nào trong bụng lão, trong tâm can của lão. "Ở dưới đất về", bốn tiếng lão thường nghe ông Phó Hai, bà Hương Năm hay nói mỗi khi gặp ai hỏi "đi đâu về?". Ðất đây là đất trồng mía, trồng bông, trồng mè, trồng đậu. Họ xuống đất để trông coi công cày, công gieo mạ hoặc công cuốc cỏ. Khi hoa vụ lên, họ xuống dưới đất để ngó chừng ăn trộm ăn đạo. Tới ngày hái bông đạp mía, họ xuống dưới đất để thu hoạch hoa lợi. "Ở dưới đất về" là tiếng dành riêng cho nguời có của. Ở dưới đất về, ông Phó Hai đi chậm rãi, khua guốc lốc cốc trên đường xóm và tay cầm cái rựa cán dài. Tha hồ chặt cây dọn bờ với một lưỡi rựa bén ngọt như vậy. Bờ dậu bao quanh đám đất bao giờ cũng um tùm cây cối. Chúng mọc lấn ra, vươn chồi, trỗ lá choán cả lối mọc của mía đậu, che tàn rợp giành giật ánh sáng và không khí của mía của đậu. Lão tưởng tượng lưỡi rựa phát xuống, dứt lìa những cành cây ươn ngạnh và gian trá. Thật sung sướng là tấm lòng người chủ miếng đất nâng niu bảo vệ cây trái của mình và chinh phạt tàn nhẫn lũ cỏ cây dại. Ở dưới đất về, bà Hương Năm quằn vai dưới sức nặng của đôi giỏ đựng đầy tai bông trắng xóa. Ở dưới đất về! ... Ðó là điệp khúc của một bài ca làm say sưa tâm hồn lão như mới ngày nào đây, lúc còn thanh xuân, lòng lão rung động theo câu hò điệu hát huê tình:
Tình thương quán cũng như nhà,
Lều tranh có nghĩa hơn tòa lẫm cao
Giờ đây lão đã có một miếng đất để mà đi về, đã có từng đám cây trái để mà bảo vệ, có bờ bụi phản loạn để mà chinh phạt. Lão không còn là thứ người "hai tay đấm hai cùi" thứ người chỉ có đôi dép cao su và cái rựa, thứ người chỉ sống nhờ vào sự thuê mướn của kẻ khác. Niềm vui đó theo chân lão mà về đến nhà.
Mụ Túc đang lục đục trong bếp. Có tiếng một cái cối tiêu bị hất văng lông lốc trên nền đất. Có tiếng nồi cơm đặt nặng một cái "thịch" lên trên mặt rế. Mụ làm lụng bao giờ cũng nặng tay. Chẳng cái chén, cái dĩa nào được nguyên vẹn với mụ. Không mẻ miệng thì cũng nứt ngang nứt dọc. Lắm hôm phải lật cái khu chén lên để đựng nước mắm. Lão vừa đi ngang qua cửa bếp định cất cái cuốc xuống khỏi vai thì có tiếng đũa bếp quật mạnh đánh bịch một cái và tiếp theo, tiếng con Mực la oẳng oẳng vừa tháo chạy ra sân. Thân mình nó oằn oại. Nó ngã lăn xuống đất, kéo lết đôi chân sau vừa nhe trắng cả hai hàm răng. Tiếng oăng oẳng phát ra từ cái mõm lởm chởm đó như cũng có góc nhọn. Chúng kéo dài, đuối dần, rời rạc dần. Trong bếp, tiếng mụ lầm bầm:
- Ðồ quỷ sứ, ăn hỗn hào. Ðụng chỗ nào cũng thọc mỏ...
Lão bước trở vào bếp. Mụ chụp ngay:
- Con mẹ Cốc đó hả? Mồ tổ cha mày, sao mày không đem cái chày lại trả cho tao? Nói mượn một chút mà giữ chết ở đằng đó. Nhà tao có ai đâu mà sai. Ôn hoàng dịch tể hại mày.
Không nghe có tiếng trả lời, mụ ngước lên nhìn và thấy lão:
- Thằng già này nữa. Không phải sao không lên tiếng? Ði qua nhà mụ Cốc đòi cái chày về.
- Ðòi chày làm gì? -Lão ôn tồn hỏi.
- Ðòi chày làm gì không biết hả? Ðể về tế cha tui phải không? Không thấy cái cối ớt kia sao?
Lão nhìn xuống cái cối nằm nghiêng ở gần ổ gà. Một con gà mái đen nằm trố mắt nhìn lại lão. Hai trái ớt vàng ra xa ở dưới chân rổ bát. Lão nói:
- Ðòi hỏi cái gì. Không có chày thì lấy đũa mà giằm cũng được.
Lão cười hì hì một tiếng nhẹ tiếp theo. Tức thì mụ ném vung đôi đũa bếp:
- Còn cười nữa? Tức chết người ta đi. Hết nước mắm, hết củi, cơm sống. Nấu một nồi cơm mà thổi lửa hết hơi.
Lão đi lại lượm từng chiếc đũa bếp, gõ vào nhau cho sạch đất. Lão tiến tới gần mụ. Mụ tránh ra, thủ thế, nhưng lão chỉ đặt nhẹ một bàn tay lên vai mụ.
Mụ hất tay lão ra:
- Dẹp! Dẹp!
Lão cười hề hề. Niềm vui của lão khiến lão thấy thương hại cho mụ vợ lùng khùng vùng vằng. Giá gặp một buổi nào khác thì lão đã tiếp tay cho mụ xáng luôn cái bát xuống đất. Tiếp chân mụ đá luôn cái cối cho lăn tuốt ra sân. Không, một người có đất, đất mịn màng và màu mỡ như vậy, có đám lúa gục đầu ngậm sữa, có vạt bắp đang chao những cánh lá trong gió, một người sung sướng như thế không thể dễ dàng nóng giận. Màu xanh của lá, màu vàng của hoa, gió mát và hương thơm đang phảng phất trong tâm hồn lão khiến lão bình tĩnh và kiên nhẫn. Lão khom lưng ngồi xuống cầm cái ống thổi lửa thổi phù phù vào đám củi chà. Ðốm lửa sáng lên, đỏ rực, nới rộng ra, liếm vào cành củi, bật lên ngọn.
Bóng tối xuống êm đềm ngoài sân. Mùi thơm của hoa mù u nồng nồng. Sau bữa cơm lão bắc chõng ra nằm ở dưới hiên. Mụ ngồi se sợi đan võng ở cây cột gần đó. Bầy muỗi đói bay va vào chân lão khiến lão phải đập chan chát từng hồi. Nhìn vẩn vơ nền trời lấm tấm sao, lão dịu dàng thả tâm hồn đi lảng vảng về những chặng đời niên thiếu, trưởng thành của mình. Cũng dưới một nền trời sao nở lấm tấm như đêm nay, hồi lên chín tuổi, lão đã phải băng đồng một mình trong canh khuya đi lùng tìm con bê chạy lạc. Dân nhà nông ở hai làng Bình Hòa, Phú Mỹ cứ sáng phải lùa từng bầy bò đi hàng ba hàng bốn cây số xuống cánh đồng Hòa Mai, Hà Yến để có cỏ thả cho bò ăn. Buổi chiều lùa về, bầy này đi lẫn lộn với bầy kia vì con đường xóm hẹp. Ði cạnh những con bò cái hiền lành vô tư lự là những con bê con ngây thơ.Những chàng bò đực khác bầy khi gặp nhau thường chẳng mấy khi chịu yên. Chúng gầm đầu xuống khịt mũi, quào hai chân trước xuống mặt đất rồi xông vào nhau mà húc. Sừng đập chan chát. Bụi tung mịt mù. Bò cái bò con chạy tán loạn. Người đi chợ cũng chạy tán loạn theo. Chính trong một cuộc bò đực giao đấu đó mà con bê của lão chăn chạy lạc sang bầy bò khác. Lùng kiếm không ra. Phải lùa bầy bò còn lại về chuồng. Chịu năm quất roi mây có lằn ngang lưng. Chịu nhịn đói bữa tối đó và cời quần áo lội qua sông Cây Dừa đến từng chuồng bò ở hai làng Bình Hòa, Phú Mỹ mà kiếm. Bóng tối cũng dày đặc, êm và mềm như đêm nay. Sao cũng nở chi chít và hớn hở như đêm nay. Mỏi chân và đói, và lạnh, lão ngồi ở bờ sông mà bật khóc òa lên. Lão sợ cây roi mây dài của chủ. Mỗi lần vụt tới, làn roi xé gió nghe vút một tiếng dài và thân roi quấn tròn theo thân mình gầy nhom của lão. Nhức nhối như có lửa trong thân roi. Ri rỉ như có máu ứa ngay theo lằn roi.
Lão thở dài lăn mình trên chõng. Tiếng vạt tre cọt kẹt ở duới lưng. Lão đưa một ngón tay lên chấm ở khóe mắt, ngạc nhiên thấy đã có nước mắt đọng ở đó tự lúc nào. Lão quay sang bảo vợ:
- Hổm rày bà chưa xuống dưới đất thăm. Bắp đã trổ cờ dưới đó.
Tiếng ồm ồm của lão làm mụ Túc giật mình. Mụ đang xe sợi trên bắp đùi để trần mà mắt thì lờ đờ ngủ gục, mụ hỏi lại:
- Cái gì? Nói cái gì?
- Bắp trổ cờ ở dưới đất mình.
- Tưởng cái gi. Làm người ta giật mình.
- Mai bà xuống vun gốc với tôi.
- Mệt! Tưởng năm sở bảy sở gì. Có một vạt đất bằng bàn tay mà cũng làm rộn.
Lão lại cười hề hề:
- Một bàn tay cũng là đất, năm sở bảy sở cũng là đất. Tao có một bàn tay thì tao rộn theo một bàn tay.
Mụ ngáp dài tỏ ý không muốn nghe nữa nên lão cũng chẳng thèm nói thêm. Nói với đầu gối còn hơn nói với con mẹ này. Lão nằm lắng nghe tiếng gió thổi xào xạc trong lùm cây sung, tiếng dầm chèo gõ lộp cộp trên be thuyền đang bủa lưới ở mé sông. Bao nhiêu tiếng đó đều quen thuộc với lão, ghé lại chặng nào trong Quá Khứ lão cũng đều gặp nhưng mà riêng đêm nay lão đã thấy thiết tha thân mật. Quả tình niềm vui của ban chiều đã theo lão không rời và trong giấc ngủ chập chờn dường như lão chiêm bao thấy toàn những giạ lúa đổ thành đống, thành đống cao, rộng mãi ra cao vút lên, vô biên, tràn ngập khắp cả. Chỉ toàn những lúa là lúa.
Ngày thu mát lạnh tiếp theo ngày hè nóng nực. Cái ao con ở góc mảnh đất mỗi ngày một hẹp chu vi. Ðất lấn ra ở ven bờ, đất chụm lên rơm khô cỏ khô, đất bò đến đâu là cây cà dây muống tiếp chân đi theo, châm rễ xuống để giữ cho đất khỏi lở. Lâu lâu giữa lúc đang cuốc đất lão chợt nghe tiếng con cá vẫy đuôi một cái mạnh dưới lòng ao. Lão dừng cuốc quay lại nhìn vừa mỉm cười lẩm bẩm nói: -À! vẫy mạnh đi con. Ðợi hôm nào ông bắt về um một chảo.
Lời hăm dọa có đượm vẻ thân tình. Nếu một ngày nào lão thả lờ hay úp nơm mà bắt được cá thì chắc lão sẽ ôm cá lên tay mà nhìn như ôm một người bạn. Và lão sẽ ăm thịt người bạn đó, ngon lành, âu yếm. Khi mặt trời lên cao nước ao ấm áp thì rồng rồng bơi lội từng đàn. Cá sặc, cá rô thi nhau đớp móng làm rung rinh mặt nước. Hoa súng vươn mình lên cao xòe nở từng cánh trắng. Mặt ao trông giống cái khăn trải bàn có thêu thùa lá hoa rậm rạp.
Một ngày tháng Mười năm đó, ông thư ký địa bạ của xã đi ngang qua đám đất, lấy chân gạt tấm cửa ngõ bện bằng chà gai tre, lững thững bước vào. Lão đang cởi trần cuốc cỏ đám mì, vội vã quay lại. Lão mời ông thư ký vào ngồi ở cái chòi nhỏ. Vừa đặt đít ngồi lên vạt liếp tre, ông thư ký chép miệng:
- Chà! Ở đây gió mát quá. Ngủ trưa thì sướng tuyệt.
Lão "dạ" một tiếng rụt rè.
- Chòi này cụ làm để giữ dưa?
- Dạ giữ dưa giữ bắp luôn thể.
Lão móc túi đựng thuốc ra mời. Thuốc xắt mỏng như sợi râu mày xanh úa. Lão nói:
- Mời ông thư ký hút thử. Thuốc này là giống Vân Hòa tôi xin được vài chục cây đem trồng ở góc kia.
Lão đưa ngón tay chỉ về phía đám thuốc đang ra hoa. Những cành lá dày, rộng, mọc ở dưới chân đã bị tướt hết. Khói thuốc phì phà đầy nghẹt cái chòi nhỏ. Chợt ông thư ký đằng hắng một tiếng lớn rồi trịnh trọng nói:
- Mấy bữa nay xã phát động công tác kiến điền. Ai có ruộng đất đều phải làm tờ khai. Cụ...
- Dạ, thưa ông thư ký, đất này là đất bỏ hoang tôi mới phá vỡ.
- Tôi biết... tôi biết... -ông thư ký vội ngắt lời- Cụ khai để đứng tên làm nghiệp chủ kẻo sợ sau này có người tranh đoạt.
- Dạ.
- Ðất khai hoang thì cụ được ăn hoa lợi năm năm khỏi phải đóng thuế.
- Dạ.
Thấy ông thư ký ngồi im lặng không nói tiếp, lão lúng túng hỏi:
- Nhưng mà cách thức khai báo...
- À, cụ cứ ra trụ sở xã rồi anh em làm giùm cho. Cốt là cụ phải đo đạc miếng đất theo chiều dài, chiều ngang rồi tính diện tích.
Những tiếng "chiều dài, chiều ngang, diện tích" khó hiểu khó nhớ làm cho mặt lão nhăn nhó lại.
- Ðược rồi. Ðể tôi bày cho cụ. Biết chưa? Cụ đo một bề này, -ông thư ký giơ ngón tay chỉ- coi nó được mấy thước. Biết chưa?
- Dạ.
- Rồi cụ đo bề này, - ngón tay lại chỉ về một phía khác,- Biết chưa?
- Dạ.
- Xong đâu đó, cụ ra trụ sở xã, chúng tôi tính toán giùm cho.
- Dạ.

HOMECHAT
1 | 1 | 128
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com