Tôi lần mò khá lâu trong một cái ngõ ở phố Cát Dài. Ngõ gì mà sâu dễ sợ, lại ngoắt ngoéo, hai bên nhà cửa lô nhô, thòi ra thụt vào, những cái biển số nhà hoen rỉ mờ cả nét sơn; có nhà chẳng gắn biển nữa, số nhà cứ ghi tuỳ tiện lên tường, lên cửa. Bà cụ tôi mất chỉ để lại một tấm ảnh nhỏ cỡ 2 x 3. Tôi định thuê chụp lại phóng to lên để thờ, nhưng một anh bạn khuyên nên thuê vẽ, đẹp hơn và bền hơn. Anh còn mách tôi một nơi làm việc đó có thể tin cậy được, tuy hiện nay còn ít người biết đến. Do vậy, sáng chủ nhật này tôi cất công đi tìm cái "phòng vẽ khiêm tốn" - theo cách gọi của anh bạn. Có lẽ đây rồi chăng? Ừ, đúng số nhà! Nhưng sao chẳng có vẻ gì là một xưởng vẽ như tôi đã hình dung? Nó chỉ là một gian nhà cũ kĩ, thấp và cửa ra vào đang đóng kín. Nhưng tôi đã kịp nhìn thấy một hàng chữ màu xanh trên tường cạnh cửa: "Nhận vẽ truyền thần và truyền ảnh". Tôi gõ cửa không lấy gì làm sốt sắng lắm. Một cháu bé chừng tám tuổi hé cửa ngó ra. Cháu mở to mắt rồi mau miệng: - Cháu chào bác ạ. Bác hỏi mẹ cháu phải không ạ? Cháu mở rộng cửa. Tôi bước vào nhà, hơi lấy làm lạ vì cái vẻ thân tình của chú chủ nhà tí hon. Cháu bé quay về phía cửa sau có lẽ thông với bếp gọi to: - Mẹ ơi, bác gì đến mẹ ạ.
Cháu có vẻ biết tôi. Tôi nhìn kĩ cháu hơn. Cháu cũng đang ngước nhìn tôi hơi mủm mỉm cười. Đôi mắt to đen láy và đặc biệt cái lúm đồng tiền bên má gợi một khuôn mặt thân quen mà tôi chưa nhớ ra. Căn phòng nhỏ nhưng gọn và sạch. Một chiếc bàn con gỗ tạp và mấy chiếc ghế đẩu gỗ không sơn; một chiếc giường thông thường, một người nằm thì rộng, hai người thì chật; một chiếc tủ đứng gỗ thông sơn màu nâu sẫm, thoạt nhìn tôi tưởng bằng gỗ gụ. Trên tường là một số tranh tả thực để trần, một tranh áp phích cổ động sản xuất còn tươi màu vẽ. Và trên bàn là một chân dung vẽ dở. Một tay họa sĩ vườn, tôi nghĩ bụng. Nhưng là ai nhỉ? Mình có quen họa sĩ nào đâu. Chắc anh ta đi vắng, chỉ có vợ con ở nhà thôi. Mình không gặp may rồi. Có tiếng guốc đi vào cửa sau. Tôi chưa kịp nhìn rõ người, đã nghe tiếng nói trong trẻo, có pha âm vui thảng thốt trong đó. - Úi, anh Bát! Thế mà em ngỡ là ai. Sao anh biết em ở đây? Tôi trố mắt. Thùy! Thùy vợ Giáp, bạn tôi. Vợ chồng nhà này chuyển xuống Hải Phòng bao giờ nhỉ? Lẽ nào Giáp không cho mình biết? Tệ ra thì cũng phải đến thăm mình chứ! Giáp và tôi là bạn học từ cấp hai, đã có thời gian xa nhau lâu, đến khi gặp lại vẫn khá thân nhau. Song, chúng tôi vài năm mới gặp nhau một lần. Ấy là những lúc tôi lên Hà Nội công tác hoặc nghỉ phép, chứ Giáp họa hoằn mới xuống Hải Phòng.
Giáp là người hơi kì cục. Hồi còn là học sinh phổ thông, cậu là người hoạt bát, dí dỏm, đôi khi nói trạng một chút. Cậu ít khi cười to, nhưng hay tủm tỉm; những lúc ấy một bên má bầu bĩnh của cậu hiện lên một lúm đồng tiền nom có duyên như con gái. Đến năm Giáp vào đại học, gia đình anh có sự biến và sa sút hẳn đi. Giáp trở nên trầm lặng, hay bẳn gắt vô cớ. Để có thể tiếp tục theo học, Giáp nhận kèm cặp một số học sinh phổ thông, trong đó có hai cô gái là Thùy và Ninh. Thùy vốn là người Hải Phòng; mẹ mất sớm; bố là một công chức loại vừa. Năm 1955, Thùy lên chín. Trước ngày gia đình di cư vào Nam hai hôm, bà mẹ kế cho Thùy đi cùng một người quen lên Hà Nội thăm ông chú ruột để từ biệt. Tới thủ đô mới được giải phóng, Thùy vừa bỡ ngỡ, vừa vui thích. Thùy nghe lời các em con chú muốn ở lại miền Bắc. Chú Thùy đánh điện cho bố Thùy khuyên hãy nán lại. Nhưng có lẽ vì vé đã mua rồi và mọi đồ lề đã đóng hòm chuyển trước lên tàu, nên gia đình Thùy đành ra đi không có Thùy. Sau đó, bố Thùy, qua ủy ban quốc tế xin cho Thùy vào Nam. Chính phủ ta đã đồng ý, nhưng lúc ấy Thùy đang ốm, trận ốm kéo khá dài. Rồi chuyện cũng qua đi. Thế là Thùy sống với chú ở Hà Nội và học dần lên đến cấp 3 phổ thông. Thùy và Ninh đều học làng nhàng, tuy chịu khó học. Cả hai cô đều có tâm hồn nghệ sĩ. Ninh thích làm thơ và sau này đã trở thành nhà thơ. Còn Thùy thì ham vẽ. Một anh chàng cựu học sinh mĩ thuật giúp cô tập vẽ. Anh chàng này có vẻ thích tán tỉnh Thùy. Nhưng Thùy lại đang yêu một tay bác sĩ tập sự. Khi tôi hỏi chuyện đó, Giáp tặc lưỡi: "Thằng ấy cũng được. Miễn là không phải Thùy yêu hơi vội". Còn Ninh thì yêu Giáp, nói là mê thì đúng hơn. Thú thật, hồi ấy nếu tôi được Ninh để mắt tới thì hẳn tôi đã "mở rộng cửa lòng" ngay. Nhưng Giáp ta thì lừng khừng thế nào ấy. Tết năm đó, Giáp đã nhận lời Ninh sẽ cùng đi đón giao thừa ở Hồ Gươm rồi về nhà Ninh xông đất. Đùng một cái, chiều ba mươi, anh ta nhảy tàu về Vinh. Tôi nhắc Giáp lời hẹn thì anh thản nhiên bảo: "Cậu dẫn Ninh đi hộ mình tí". Tôi thật chẳng bụng dạ nào để mừng đón cái cơ hội bất ngờ ấy nữa. Phòng nội trú sinh viên đêm 30 tết đó chỉ còn mỗi mình tôi. Tôi những muốn ra phố để "lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang", nhưng sự ủy thác oái oăm của bạn buộc tôi phải nằm khàn để đợi. Khoảng mười giờ khuya thì Ninh đến. Tôi quýnh lên trước sắc đẹp lồ lộ của Ninh, chẳng biết do tình yêu, do khí xuân, hay do bộ cánh rất Hà Nội làm tôn thêm lên. Cũng may, vừa nghe tôi nói Giáp có việc gấp phải về quê, Ninh đã quay ngoắt đi ngay, - có lẽ là để khỏi khóc trước mặt tôi. - Nếu không, e tôi phải đóng vai một chàng hiệp sĩ thộn hoặc một anh dại gái lố bịch. Tôi quả không hiểu nổi Giáp. Tôi ngờ anh yêu Thùy. Đoán phỏng thế thôi, căn cứ vào thái độ dè dặt của anh mỗi khi nói đến Thùy.
Tốt nghiệp đại học xong, tôi về thành phố cảng công tác. Giáp thì dạy học ở thủ đô. Ít lâu sau, tôi được tin anh xung phong vào bộ đội. Cũng là do bạn bè nói lại, chứ anh chẳng báo cho tôi biết. Còn Thùy nghe đâu đã về ở với tay bác sĩ.
Bẵng đi sáu năm. Tôi về Hà Nội có công việc. Buổi chiều ngày họp cuối cùng, tôi di tản bộ trên những con đường phố đã có thời rất quen thuộc với tôi trong một tâm trạng vui vui pha chút hoài cổ. Chợt tôi nghe gọi: "Bát! bát đấy phỏng?" Một người mặc quần áo bộ đội cũ, tay ôm cặp, bước nhanh tới. Tôi nhận ra ngay là Giáp. Hai chúng tôi gần như là ôm chầm lấy nhau. Giáp không già đi mấy nhưng nom khắc khổ. - Mình chuyển ngành rồi. - Giáp nói nhỏ nhẹ - Bị thương mất sức chiến đấu và mất luôn khả năng đứng lâu trên bục giảng. Bây giờ mình làm công việc nghiên cứu. Về chỗ mình đi! Mình ở ngay gần đây. Ông dạo này thế nào? Tôi trả lời vắn tắt câu Giáp hỏi vừa xong thì cũng vừa đến nhà bạn. Đó là một gian phòng xây phụ vào một tòa nhà kiểu cũ hai tầng. Kiếm được chỗ ở này hẳn anh bạn tôi khá là vất vả. Giáp nói, trong khi loay hoay mở khóa cửa: - Mình vừa đi khảo sát thực địa mấy tuần, về đến đây thì gặp ông. - Giọng anh điềm đạm nhưng ẩn một niềm náo nức không phô trương. - Mình phải chuyển công tác cũng có cái hay. Trước đây, mình cảm thấy mắc nợ những miền đất mình đã từng đi qua trong đời lính. Nay thì mình cảm thấy có thể làm được một cái gì đó. Trong phòng hơi tối. Vừa bước vào, điều đập ngay vào mắt tôi là một bình hoa trên chiếc tủ đứng chếch góc tường phía trong. Tất cả các cánh hoa như bừng dậy đón luồng ánh sáng vừa ùa vào. Tôi trỏ bình hoa bảo Giáp: - Lạ nhỉ! Ông giam lọ hoa kia mấy tuần, thiếu ánh sáng và có thể là thiếu nước nữa, thế mà nó không lụi tàn, còn đợi ông về đón chào nữa kìa!
Giáp cười tủm tỉm, - đã lâu, tôi mới lại được nhìn thấy lúm đồng tiền trên má anh - không nói gì, đến mở rộng hai cánh cửa sổ xế bên chiếc tủ. Tôi "ồ" lên một tiếng: Bình hoa chỉ là một bức tranh màu nước. Sắc màu xung quanh lọ hoa, kể cả cái khung tranh, lẫn vào màu tường. Tôi chăm chú nhìn bức tranh, mặc dù tôi chẳng phải là người thích tranh, sành tranh lại càng không. Luồng ánh sáng mà tôi tưởng là từ cửa dọi vào những đóa hoa chính là toát ra từ ngay trong bức tranh đó. Mường tượng như những bông hoa sắp héo rũ vì bóng tối, bỗng ánh mặt trời ùa tới như có ai vừa mở một cái cửa đâu đó, và một sự bừng tỉnh, không! Một sự hồi sinh… Tôi hỏi: - Họa sĩ nào đấy? Hay chính ông? - Ông đã thấy tôi cầm bút vẽ bao giờ chưa? Còn người vẽ tranh này thì chưa thể gọi là họa sĩ. Gian phòng của Giáp khá ngăn nắp. Đã từng phải hứng chịu cái tính luộm thuộm của Giáp hồi còn ở kí túc xá sinh viên, thoạt tiên tôi cười thầm: "Chà! Đời bộ đội rèn anh chàng cũng ra trò đấy chứ". Nhưng ngắm kĩ, tôi cảm thấy ở đây có bàn tay phụ nữ. Giáp xách phích đi mua nước sôi về pha chè mời tôi, rồi thủng thẳng nói: - Ông đang ngạc nhiên phải không? Mình lấy vợ rồi. Tôi rướn lông mày lên thay cho câu hỏi, và chờ đợi. Giáp nhắc chén nước nhưng không uống mà ấp trong lòng bàn tay: - Mình lấy Thùy. Thằng cha bác sĩ bỏ rơi Thùy khi họ ở với nhau chưa đầy năm. Nếu hắn không bỏ thì Thùy cũng khó mà kham được hắn lâu. Hai bên đều vỡ mộng về nhau: Thùy quá nhiều chất "mơ" còn tay bác sĩ thì quá nhiều chất thực dụng. Nếu mỗi bên đều chừng mực thì có khi họ hợp nhau cũng nên. Qui luật bù trừ mà. Thùy xin đi thanh niên xung phong, bị sốt rét ác tính suýt chết. Giáp rời quân đội về lại Hà Nội thì gặp Thùy đang ngồi vẽ tranh thuê và bán tranh bên hồ Gươm, loại tranh phong cảnh vẽ trên bìa cho những người chơi tranh dễ tính. Cô chưa từ bỏ giấc mơ nghệ thuật. Những kí họa tuyến lửa mà cô đang gìn giữ luôn luôn nhắc nhở và thôi thúc cô. Tôi hỏi hơi bỗ bã: - Ông định làm như một nhân vật của Nam Cao ra tay tế độ chăng? Giáp nín lặng giây lâu rồi nói khẽ: - Mình yêu Thùy từ hồi kèm cô ta học. Tôi suýt "à" lên. Có thế chứ! Mình quả đã nhận xét không tồi. Nhưng … Giáp nhìn tôi: - Tôi biết ông đang nghĩ gì. Không đơn giản đâu. Thùy không còn chú thím. Giáp cậy cục thuê được gian nhà này cho Thùy, còn thì vẫn ở một phòng gầm cầu thang của cơ quan. Anh cố lo cho Thùy vào trường mĩ thuật. Mười ba tháng sau họ cưới nhau. - Ông biết không? Thùy cứ giục mình lấy vợ, và cô ấy đã làm mối cho mình mấy đám, đều còn rất trẻ, thợ có, trí thức có, cả một cô mậu dịch viên rất xinh và khá giàu. Nhưng hễ cô dàn dựng gần đâu vào đấy là mình lại nhỡ hẹn - Giọng Giáp như đang kể chuyện ai. Tôi nhớ lại lần anh "nhỡ hẹn" với Ninh đêm giao thừa năm ấy. Mắt Giáp dừng nơi bức tranh "Bình hoa". Anh nói, đón trước câu hỏi của tôi - Tranh kia là một trong những bài thi của Thùy. Tôi ngắm kĩ lại bức tranh. Chẳng phải là đề tài ngẫu nhiên, mình đã ngờ ngợ. Một chút tự hào trẻ con trỗi dậy: Vậy mà mình cứ buồn vì nỗi dốt hội họa!
Tôi hỏi Thùy: - Các bạn chuyển công tác về Hải Phòng từ bao giờ thế? Vậy mà lại lờ bạn bè. Một thoáng tối trên gương mặt Thùy: - Chỉ hai mẹ con em thôi, anh ạ. Tôi sửng sốt: - Sao? - Chẳng biết nói với anh thế nào. Anh còn nhớ cái hôm anh ngồi uống rượu với anh Giáp và anh Quĩ không? Sao tôi lại chẳng nhớ! Có thể nói đó là một buổi tối "rùng rợn" sẽ còn ám ảnh tôi lâu. Ngày ấy cách đây đã gần hai năm…
Nhân dịp về thủ đô, tôi đến tìm Giáp, thấy cửa phòng khóa ngoài. Tôi ghé vào một quán nước gần kề hỏi thăm bà hàng chừng nào Giáp về. Một người đàn ông đang ngồi trong quán trả lời thay: - Ông bạn đến ông Giáp đấy à? Chẳng hiểu sao hôm nay tay này về muộn. Tôi cũng đang chờ hắn đây. Tôi nhìn người nọ. Một người chẳng rõ là đã đến độ trung niên chưa. Tóc anh ta lút gáy, chờm ra ngoài cổ áo; râu lâu ngày chưa cạo; quần "bò" áo "bay" vẻ phong trần cường điệu. "Loại người thích làm nghệ sĩ đây. Chỉ còn thiếu hơi rượu". Anh ta rõ ràng là kém tuổi Giáp nhưng cứ xưng hô văng mạng khi "ông", khi "hắn", "khi thằng", khi "tay ấy"… bất kể trước mặt bà quán, bất chấp tôi là người lạ. - Ông là bạn Giáp phải không? Tôi cũng là bạn hắn ta. Tôi là Quĩ. Cái tên nghe quen quen. Để trôi thì giờ, tôi hỏi thăm anh ta về vợ chồng Giáp. Anh ta tặc lưỡi: - Thằng Giáp mang cái chất "đồ Nghệ" điển hình, lại pha cái chất lính chiến nên cứ va côm cốp. Hắn mấy lần sắp được đi Tây làm thực tập sinh hay nghiên cứu sinh quái quỉ gì đấy mà cứ hụt hoài. Các bạn tôi có kể cho tôi nghe ít nhiều về Giáp. Đề tài nghiên cứu đầu tiên của anh đang có triển vọng thì cấp trên của anh gạ anh cho cộng tác. Giáp sẵn sàng ngay vì tính anh không hay ki cóp một mình. Nhưng vị cấp trên sau khi tham gia "điều chỉnh đề cương" và "bổ sung chủ đề tư tưởng", thường tạ cớ bận họp nên chỉ "góp ý" vào các phác thảo của Giáp thôi. Song đến khi công trình hoàn thành và được chấp nhận nhanh chóng thì tên vị ấy lại gắn với từ "chủ biên". Từ đó, Giáp cạch chuyện cộng tác. Và cũng từ đó, các công trình nghiên cứu của anh khó được ra mắt, cứ đầy dần trong ngăn kéo. Biết vậy, tôi vẫn cảm thấy khó chịu trước lời bình phẩm của cái người tên là Quĩ kia. Lát sau, Thùy lai con về trên chiếc xe đạp Thống Nhất đã cũ. Cháu Trung đã lên sáu, và cũng có một lúm đồng tiền bên má mỗi khi cười như bố. Thùy giới thiệu Quĩ là cán bộ giáo vụ ở trường Mĩ thuật "vẫn giúp em thực hành vẽ". Tôi chợt nhớ ra anh chàng cựu học sinh mĩ thuật ngày xưa từng giúp Thùy tập vẽ và cũng đã từng theo đuổi Thùy. Lạ thật! Quĩ trở thành bạn của Giáp rồi ư? Ngày trước Giáp khinh Quĩ "một thằng cha lêu têu, nghệ sĩ gì nó!". Chẳng bao giờ Giáp nói chuyện với Quĩ, dẫu có dàn mặt nhau. Thùy mời hai chúng tôi vào nhà, nhưng khi sờ túi xách mới biết là lúc đi đã quên mang chìa khóa theo. Đành lại phải ngồi ghé chờ quán nước. Tôi vừa nói chuyện với Thùy được đôi câu thì Quĩ đã bô bô: - Nào! Trung lại đây với bố nào! Thằng bé cứ đứng ngó Quĩ trân trân chẳng tỏ thái độ gì cả. Quĩ giở lọ kẹo của bà quán lấy ra một cái kẹo Hải Châu chìa cho Trung. Cháu bé đưa tay ra đón nhưng Quĩ đã nhấc cao chiếc kẹo: - Nói đi đã: "Bố cho con xin". Nói đi! Cháu bé mím môi, nắm chặt bàn tay và rụt lại. Quĩ lúc lắc đầu ra vẻ buồn phiền: - Con cái thế đấy! Mày là con tao chứ có phải con lão Giáp đâu. Nói rồi anh ta lại moi ra một thanh kẹo lạc bọc giấy bóng giơ ra trước mặt đứa bé: - Thôi được. Cái này ngon hơn. Nào, cầm lấy! Đứa bé không nhúc nhích. Người mẹ thấy cần phải lên tiếng: - Con cầm lấy đi kẻo mỏi tay bác. Cháu bé không đưa tay ra, chỉ mở bàn tay, mắt không nhìn cái kẹo mà nhìn vào mặt người cho kẹo. Quĩ đặt cái kẹo vào tay nó, nó chỉ cầm bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ. Quĩ cười đắc chí: - Có thế chứ! Con của bố ngoan lắm. Đứa bé đặt nhanh chiếc kẹo xuống chõng hàng, rồi vẫn đứng nguyên như cũ. Quĩ cười to hơn: - Còn chê hở? Được rồi! Bà hàng bán cho tôi cái trong hộp kính kia! Anh ta đón cái bánh nướng khá to, quay lại đứa bé, lần này nâng trên bàn tay chứ không dứ dứ như lúc nãy. - Bánh nướng này thì cực kì. Nhân trứng, thịt, dừa đủ cả, phải không bà hàng? Nào! Thắng bé nhìn cái bánh một giây hơi chớp mắt, rồi lại nhìn thẳng vào mặt Quĩ. Anh ta ra vẻ dễ dãi: - Được rồi! Cứ cầm lấy ăn đi, rồi lúc nào thích gọi "bố" thì gọi cũng được. Cháu bé vụt quay đi. Thùy mắng con, nhưng không nghiêm giọng: - Trung! Không được hỗn! Bác đùa đấy. Con cảm ơn bác đi! Cháu Trung làm như không nghe mẹ nói gì. Cơn "đùa" đã đến lúc không chịu nổi, ngay với kẻ xướng xuất ra. May sao, vừa lúc Giáp về. Quĩ reo to biểu lộ sự mừng quá mức cần thiết: - A! Gớm! Chờ ông anh mãi. Có chất cay không bà quán? Giáp chào tôi rồi vội xua tay: - Khỏi cần! Mình có chai rượu chanh chưa bóc tem. Mà ngồi đây uống thì ô trọc quá. Quĩ đứng ngay dậy, quên phứt những chiếc kẹo và cái bánh nướng. - Ấy, định mua đưa vào nhà ông anh đấy chứ. Lúc này tôi mới biết nãy giờ Quĩ ôm khư khư một cái túi hơi phồng phồng. Mọi người vừa vào nhà. Quĩ đã lôi từ chiếc túi ra một gói to bọc giấy báo đặt lên bàn, rồi kéo cái đĩa sắt tráng men đựng chén uống nước lại gần, xếp chén ra bàn, lấy mùi xoa lau qua cái đĩa, và dốc từ trong cái gói ra những con tôm he cỡ ngón chân cái đã chiên mỡ chu tất. Trong khi Giáp loay hoay mở nút chai rượu thì Quĩ đi đóng các cửa lại. Tôi hơi khó chịu: làm gì như ăn vụng thế này? Nhưng vợ chồng Giáp chẳng nói gì. Thùy lẳng lặng bật đèn lên. Quĩ vẫn chưa chịu ngồi xuống. Anh ta lại lôi từ trong cái túi ra bốn cây nến trắng và một bao diêm. Anh ta xòe diêm châm nến rồi cắm ra bốn góc bàn. Xong xuôi, anh ta sốt sắng mời: "Nào! Các vị ngồi vào cho!". Cứ như thể anh ta là chủ nhà vậy. Chưa hết. Anh ta còn xếp chỗ cho từng người. Thùy đối diện Quĩ. Cháu Trung được đặt ngồi vào chiếc ghế đẩu đầu bàn, giữa hai người. Cháu muốn cưỡng lại nhưng thấy bố nhìn mình hơi gật đầu, cháu đành ghé ngồi lên ghế. Hai chỗ còn lại dành cho tôi và Giáp, tôi cạnh Thuỳ, đối diện với Giáp, tất nhiên. Khi bốn chúng tôi đã yên vị, Quĩ bèn tắt ngọn đèn điện. Gian phòng trở nên chập chờn theo ánh nến. Quĩ ngồi vào chỗ của mình đưa tay trỏ đĩa tôm, trịnh trọng: - Thứ này thì phải ăn dưới ánh nến. Mùi nến làm dậy mùi tôm chiên, làm cho vị giác cảm nhận được cái ngon nguyên sơ. Ánh nến khiến con tôm trở nên sống động và khiến ta thấy hình như nó trong mờ tựa khi còn bơi dưới nước. Tôi suýt phì cười, nhưng nhìn lại con tôm quả thấy có gì khác với những con tôm he chiên mà tôi đã ăn. Do vậy, cái ác cảm dồn nén từ nãy cũng qua đi. Vả chăng, các chủ nhà vẫn thản nhiên như không. Bữa rượu thế là bắt đầu vui vẻ và không ồn ào. Thuỳ không uống được rượu, bị ép, mới nhấp một tí mặt đã đỏ dậy lên. Còn tôi thì chỉ dám hớp từng ngụm nhỏ, kéo lai rai mãi vẫn không hết chén rượu. Quĩ rót đưa cháu Trung một ít. Thuỳ chau mày, nhưng Giáp lại cười khà khà. Cháu mạnh dạn dốc cạn cốc. Vì thế, chưa ăn hết con tôm cháu đã phải đi nằm. Còn lại bốn người lớn. Thật ra, chỉ có Quĩ và Giáp đọ chén với nhau. Cuộc rượu kéo dài, trời tối lúc nào không biết. Câu chuyện ban đầu cũng phải chăng, và cả tôi, cả Thuỳ đều có thể góp lời. Dần dần chỉ hai người nói, mà người giữ vai chính là Quĩ. Giáp thì rõ là đã ngật ngưỡng. Còn Quĩ thì chẳng rõ là còn tỉnh hay đã say. Duy, giọng anh ta lè nhè thật: - Cậu là người có tài, Giáp ạ. - Anh ta đã quẳng cái từ khách khí "ông anh" tự bao giờ - Nhưng mà cậu gàn. Ngày xưa anh gàn cũng có bị chế giễu, nhưng còn được khen. Ai không khen công khai thì cũng phục ngầm. Còn ngày nay ấy à, gàn là dại, là thiệt. Vạ gì cậu bỏ công, bỏ sức ra mà nghiên cứu! Để làm gì và cho ai? Chẳng ai cần cái nghiên cứu của cậu. Vạ gì mà cậu hay đấu tranh với góp ý! Kệ xác chúng nó! Chúng nó cần sự tâng bốc và dối trá. Thì cứ việc! Trước đây, lương tháng cậu mấy chục đồng cậu vẫn sống ung dung. Bây giờ, cả hai vợ chồng kiếm được ngót nghìn, kể cả làm thêm, mà các cậu "rách" quá. Vợ cậu thế kia đáng được sống lươm tươm một chút chứ. Nếu chưa muốn về mất sức hoặc hưu non thì làm cầm chừng công việc cơ quan thôi. Bôi bác được thì cứ bôi bác. Lỉnh được thì cứ lỉnh. Còn thì dành sức lực và trí tuệ đi với tớ. Cam đoan là sẽ sống đàng hoàng mà vẫn sạch sẽ trước pháp luật. Lúc bấy giờ, cậu có muốn đi Tây thì sẽ có khối thằng sẵn sàng "lo giúp", chỉ cần cậu nhẹn mấy động tác ngón tay. - Anh ta đưa tay làm hiệu đếm tiền - Bây giờ thì hãy chịu khó quị lụy một để rồi bắt thiên hạ quị lụy mười. Tội gì không tự tạo thời cơ? Giáp khi thì ậm ừ, khi thì hăng lên cũng hùa theo Quĩ mà chửi bới những chuyện tiêu cực, có lúc quá lời. Vẻ mặt anh lầm lì; khi thì cười to và dừng đột ngột. Từ lúc gặp lại anh, tôi chưa thấy Giáp cười tủm lần nào, cả khi tôi cố nói một câu ba lơn chọc anh. Nể lắm thì anh cười ruồi. Dưới ánh nến lắt lay, khuôn mặt đỏ gắt hơn cả vỏ tôm, cái thì lừ lừ, cái thì ngất ngư. Tưởng đâu vũ trụ chỉ có hai người; ngồi kề nhau đấy, song mỗi người vẫn ôm riêng một thế giới.