Nghe tiếng mưa đổ rào rào trên mái nhà, Kim giật mình thức dậy. Chợt nhớ ra là thứ bảy không phải đi làm, Kim muốn ngủ lại nữa, nhưng giấc ngủ tìm không đến. Tấm màn cửa màu ngà đã bắt đầu sáng dần lên. Mỗi ngày, giờ này Kim nằm chờ âm nhạc của đài phát thanh báo thức. Kim để máy tự động mở đúng vào lúc báo tin thời tiết nắng mưa,nóng, lạnh, để tiện chọn áo Thỉnh thoảng những hôm cảm thấy nhựa sống tràn đầy, Kim thích dậy sớm hơn đồng hồ reo để được nhìn mặt trời mọc. Nhà Kim không sát ngay cạnh bờ bể, nhưng ở trên đồi cao, nên chỉ bước ra hiên trước là cả một vùng biển rộng bao la hiện ra ngay trước tầm mắt. Những hôm trời tốt, không có nhiều sương mù, có thể thấy rõ từng cánh buồm trắng cũng như đủ màu sắc của những chiếc du thuyền lượn đi lượn lại. Những hôm ấy, mặt trời mọc thực đẹp: một vùng màu hồng phớt nằm dưới bể, cứ thêm dần từng tia sáng lóng lánh đủ màu, từ từ vượt khỏi mặt nước rồi vươn lên chân trời. Lắm hôm Kim say mê nhìn, đến nỗi trễ giờ, không ăn điểm tâm chỉ kịp chạy vội đến sở. Sáng nay, mưa đổ như thế này, may mà thứ bảy, nếu không, phải dậy sớm mang tơi đội nón đi làm thì phải tự an ủi nên vui mừng vì còn gắng dậy được.. Bên ngoài, cảnh vật mờ mịt. Đâu đâu cũng chỉ một màu xám mờ loãng, không có gì đáng ca tụng cả. Bể không xanh nữa mà bàng bạc trong màn mưa. Mặt đường, nước hai bên sườn dốc đổ xuống ào ào, mang theo vô số sỏi đá vụn, phiêu lưu xuống đường nhựa.
Kim xếp một đống gối cao để ngồi dựa lưng, rồi kéo màn cửa nhìn sang nhà bên cạnh. Bên ấy có một bà già Nhật sống một mình. Hôm Kim mới dọn đến, còn đang sơn quét túi bụi, bà cắt trong vườn một ít hoa cúc, mang sang cho Kim. Bà chống gậy đi từng bước, run rẩy nói: • Tôi thấy bà dọn đến, tôi mừng quá. Bà sơn nhà, làm vườn, trồng hoa, cái nhà, con đường sẽ thêm giá trị, nhà hàng xóm cũng giá trị lây, bà biết không? Chủ trước không bao giờ nhúng tay làm việc gì hết. Rác bên vườn này, họ chỉ tiện tay ném sang vườn tôi. Kim ngạc nhiên: • Bà làm thế nào để thủ tiêu những rác ấy? Bà già cười như tự phục mình lắm: • Tôi ném trả lại hết. Đồ lười, đồ lợn, đồ ở bẩn như lợn! Mỗi ngày, bà chống gậy ra vườn, nhổ những cây cỏ lẻ loi cô đơn, không biết thân phận, dám lén mọc cạnh các bông hoa xinh đẹp yêu quí của bà. Chủ nhật, con gái và rể ở một thành phố khác về thăm, họ mua đồ ăn cả tuần lễ và mang áo quần chăn màn đi giặt cho bà. Có hôm, Kim trông thấy anh chàng rể Mỹ ngoan ngoãn, cong lưng cắt sân cỏ mịn xanh mướt như một tấm thảm cho mẹ vợ, không hề ngẫng đầu nhìn ngang nhìn ngữa bao giờ. Bà già không có việc gì quan trọng, nhưng bao giờ cũng dậy sớm. Nếu thấy đèn nhà bà, thì Kim biết đúng 6 giờ 40, dù Kim đang bận việc gì khác cũng phải bỏ dở để thay áo đi làm. Thỉnh thoảng, bà mang bình rượu Sake sang thủ thỉ: • Tôi buồn quá, uống một mình không thích. Tôi mang Sake sang, hâm nóng uống với bà cho có bạn. Kim không hay uống rượu, nhưng nể bà cụ nên cũng nhấm nháp đôi chút cho bà vui cái vui được có bạn chia sớt. Bà cụ nói lõm bõm vài tiếng Mỹ giọng Nhật chắp nhặt được ở đâu đâu, lẫn với tiếng Nhật vùng quê bà nên rất khó nghe. May mà Kim là nguời Hàn quốc, số vốn tiếng Nhật ngày xưa của nàng rất phong phú, nên vừa nghe vừa đoán, vừa dựng dậy mớ ký ức Nhật ngữ đã hai mươi năm không dùng đến, Kim nói chuyện với bà rất tương đắc, có gì không hiểu thì cứ việc cười xòa cũng xong. • “Rượu Sake của chúng tôi ngon tuyệt. Tôi chỉ hy vọng một ngày nào đó, có dịp được về thăm lại chốn cũ . Gian nhà gỗ ngày xưa của chúng tôi ở cạnh bãi bể. Chồng tôi hay mua rượu Sake ở cái quán đầu làng, hâm nóng uống với tôi những hôm trời tuyết . . .” • Câu chuyện cứ thế không ngừng . . . Nhà bên trái của một ông giáo dạy dương cầm. Ông bán đàn cho một hãng nhạc khí. Có lẽ ông đã già lắm rồi, nhưng khi người ta già đến một độ nào đó, không ai đoán được tuổi nữa. Ông cao lớn, hai ba cằm, bụng xệ như những ông già đẫy đà khác. Ông dạy học tận tâm và có đôi khi hơi lẩn thẩn, nhưng bao giờ cũng dạy quá giờ đã hạn định. Ông có ba cái kính mà ông gọi là “Bảo bối của cuộc sống”, cái để nhìn gần, cái để nhìn xa và một cái kính lão để nhìn chung chung tất cả mọi thứ. Vì không biết sẽ cần dùng cái nào vào lúc nào, nên ông luôn luôn phải có cả ba “bảo bối” bên mình. Ngồi xuống đánh đàn, ông đeo một cái có tầm nhìn trung bình. Đứng lên ông phải đổi cái khác để nhìn xa. Kính lúc đọc sách và lúc lái xe cũng không giống nhau. Những người quen ông, thấy ông lúc nào cũng luẩn quẩn loanh quanh với mấy cái kính để góc này góc nọ, túi trong, túi ngoài, rồi tha hồ mà tìm. Mỗi sáng, khi Kim nghe tiếng dương cầm thì Kim cũng đã trang điểm xong, bắt đầu vào bếp tìm thức ăn. Đúng 7 giờ sáng, trước khi đi làm, ông Hà hay “chào” đàn như thế, và chiều tối, lúc ở tiệm về, ông cũng “ thăm” đàn một lúc. Nếu không có cây đàn làm bạn thì biết “nói chuyện” với ai đây? Tùy theo tiếng đàn, Kim biết là hôm ấy ông buôn bán được, hay có chuyện gì trái ý lo buồn. Sống một mình, vợ chết, con cái khôn lớn đã ở riêng rất xa, ông phải đi làm, phải chiều chuộng mọi người, lắm lúc ông còn phải hứng chịu những bực mình của chủ, của khách hàng, của đồng sự , những cái vạ vịt không đâu từ trên trời rơi xuống. Không có nơi phát tiết , ông đập đàn dữ dội ở nhà, cho đến khi cơn cuồng nhiệt dịu bớt, mọi người lại được nghe tiếng đàn dìu dặt, du dương. Một hôm, ông mời Kim sang nghe nhạc. Ông lấy một tập bản đàn chép tay ra đưa cho Kim xem: • Những bản này tôi soạn cho ban hợp ca của nhà thờ tôi. Tôi làm trưởng ban nhạc. Tuần nào chúng tôi cũng hát. Có thính giả, ông bắt đầu dạo đàn một cách say mê. Bản nhạc tôn giáo, âm hưởng u trầm, thanh thoát, lâng lâng như các bài hát thường nghe trong nhà thờ. Ông dở ra một trang khác bảo: • Đây là một bài rất đặc biệt. Có lẽ một ngày kia tôi sẽ xuất bản. Hai bàn tay gân gốc lại nhanh nhẹn lướt trên phím ngà một bản nhạc khá hay nhưng buồn thê thảm. Đàn xong, ông lấy một đĩa hát không có nhãn hiệu, đưa cho Kim xem: • Bài “ Maria “ này, tôi đã thử thu vào dĩa. Hôm lễ Giáng Sinh, con trai tôi ở Washington về thăm, nó hát vào đĩa cho tôi vì nó là ca sĩ giọng cao. Tôi tự đàn lấy. Ông nâng niu cẩn thận, đặt đĩa hát vào máy. Cái tủ máy hát âm thanh nổi rất đẹp làm sang trọng hẳn phòng khách trang hoàng đơn sơ, chỉ có một bộ bàn ghế và một cái dương cầm thật lớn. Gian phòng thoáng đạt, không có đầy những đồ vật trang hoàng lủng củng va chạm, tiếng âm nhạc phát ra như thanh thoát hơn. Từng tiếng ngân nhẹ như hơi thở phảng phất trong không gian, bồi hồi mãi tưởng không bao giờ dứt. Trong khi giọng hát lên cao “ Maria, Maria . . . “, Kim bắt chợt thấy ông quay mặt đi chặm hai giọt nước mắt. Maria là ai ? Niềm tâm sự u uất gởi trong bài hát ấy, hẳn là một chuyện tình rồi. Người có tâm sự thì đôi khi có phẫn chí, làm những chuyện ngược đời cũng không đáng ghét lắm. Từ đấy, Kim không thấy khó chịu khi thỉnh thoảng nghe ông cáu kỉnh đập đàn một cách gay gắt, uất ức vào những giờ không nhất định nữa. Thỉnh thoảng gặp ông, Kim lại nhắc nhở: • Ông Hà, ông liệu mau mau cho in những bản nhạc của ông đi, để còn làm triệu phú. Nếu chậm quá, ông biến thành một nghệ sĩ thì khổ lắm đấy. Nghệ sĩ hay triệu phú, ông phải chọn lấy một, và nhanh lên. Ông Hà chỉ lắc đầu mỉm cười, không bao giờ trả lời. Trước mặt nhà Kim là nhà của một kỹ sư người Đức. Ông ta có một cái tên rất dài dòng, khó đọc, nên Kim gọi là ông Đức cho tiện. Ông Đức độ bốn mươi tuổi, nhưng trông còn trẻ như vào khoảng ba mươi. Người ông thấp nhỏ, gầy gò xương xẩu. Mỗi sáng, đúng 7 giờ rưởi, ông lái chiếc xe Thunderbird sập trần đi làm ở một hãng kiến trúc. Khi thấy xe của ông ra cửa, Kim biết là nàng phải ăn xong điểm tâm, và chỉ còn 10 phút nữa để đi ra đi vào, quên cái này, nhầm cái kia, tô lại son, hay thay đôi giầy, đổi cái áo khoác màu khác . . .
Hôm Kim mới dọn đến, thấy con đường xi măng đi vào nhà xe lở loang lỗ tững mảng, nước mưa chảy tràn cứ xoáy dần, mang bớt đất đi, Kim mua một bao xi măng đã trộn lẫn cát và sỏi để sửa. Chỉ cần pha nước vừa phải, không đặc không lỏng là dùng được. Kim lấy chiếc xoong cũ dùng để trộn xi măng và chiếc thìa cũ thay chiếc bay của thợ nề. Kim múc từng thìa nhỏ, đổ lên các lỗ nứt để vá một cách vụng về nhưng có vẻ thích thú lắm. Trong khi mải mê công việc, Kim nghe tiếng nói sau lưng: • Chào bà, trông bà làm bánh xi măng khéo quá! Kim cười trả lời: • Chào ông. Trong trường hợp này, tiếng nước tôi gọi là “ Không có trâu, bắt bò cày . . . “ • Sao bà không nhờ ai làm hộ? • Ý kiến của ông hay lắm. Hay là ông làm hộ đi! Ông Đức vội vàng xua tay: • Không, không. Xin bà cứ tự nhiên. Tôi không bao giờ tranh công việc của bạn cả! Tôi thề từ nay không bao giờ dại mồm dại miệng xui ai gì nữa! Sau đó, Kim còn gặp ông vài lần trong các tiệc trà của hàng xóm và biết thêm về gia đình . Ông ly dị, vợ giữ hai con. Ông nhớ chúng nó lắm, nhưng vợ ông đem chúng sang ở tiểu bang khác, nên không thăm được. Kim hỏi ông: • Tôi thấy ông có vẻ rất yêu quí vợ con, thế tại sao lại ly dị? Ông Đức thở dài: • Tôi không muốn, nhưng bị tình thế bắt buộc. Ông im lặng rất lâu, ngập ngừng mãi mới nói: • Tôi đau khổ lắm bà ạ. Lòng tự ái của thằng con trai, của phái mạnh, của bậc đại trượng phu, của người quân tử ; nói theo văn hóa Á đông, tất cả đều có nghĩa là người chồng, bị xúc phạm một cách kinh khủng. Tôi kể chuyện tâm tình quá khứ, bà đừng cười nhé: Kim thấy ông sắp tâm sự, vội dọn nét mặt nghiêm trang để nghe. • Nhà tôi là người Mỹ. Chúng tôi sống chung hơn mười năm. Vì công việc, tôi thường phải đi các tiểu bang hay thành phố khác, mỗi lần một vài ngày để kiểm soát. Một hôm, tôi ở xa về, lúc ấy đã 12 giờ đêm. Tôi trông thấy một người lạ ở trong nhà. Bà có thể đoán được là ai không? • Bạn của bà chứ gì? Ông Đức cắn chặt môi: • Phải, bạn! . . . Bồ thì đúng hơn. Nhưng bà không thể tưởng tượng được đâu. • Tôi nghĩ chuyện không lạ đến như thế. • Không, bà không thể ngờ được. Và không ai ngờ được cả. Vì đó là một người đàn bà. Kim ngạc nhiên nhưng biết nói gì để diễn tả. • Tôi thấy hai người âu yếm ngồi cạnh nhau khuya quá, tôi giục nhà tôi đi ngủ, vì tôi mệt lắm. Nhà tôi dùng dằng mãi rồi nhất định bỏ tôi ngủ một mình, vì bà ấy phải ngủ chung với “cô bạn”. Hôm sau, con tôi mách rằng suốt thời kỳ tôi đi vắng, hôm nào cô kia cũng đến ngủ chung với mẹ nó. Nhà tôi cũng thú thật với tôi và yêu cầu được ly dị. Chúng tôi đã gặp Bác sĩ tâm lý, các Cố vấn hòa giải gia đình, các Mục sư . . . đủ cả. Những người ấy cố tìm cách “ giáo huấn” chúng tôi nhưng vẫn không thể nào cứu vãn. Nhà tôi cũng rất đau khổ thú nhận là không thể yêu tôi và sống chung với tôi được nữa. • Bây giờ bà ở đâu? • Nhà tôi ở tiểu bang khác với “ cô bạn” ấy. Tôi chỉ lo các con tôi trông thấy mẹ như thế, sẽ bị ảnh hưởng đến cả một đời. • Tại sao ông không xin nuôi con? • Pháp luật cho phép con được ưu tiên ở với mẹ, trừ một vài trường hợp, nhưng tôi không ở trong trường hợp ấy. Tôi mong một ngày kia sẽ về Đức, cưới một cô gái làng tôi mang sang. Một cô không uống rượu, không hút thuốc, yêu chồng và nhất là có tình cảm bình thường để yêu người khác giống. • Ông không tìm được một người con gái như thế ở Mỹ sao? • Có thể có lắm, nhưng tôi mất hết lòng tin rồi. Đàn bà Mỹ đòi hỏi nhiều quyền lợi quá. Họ luôn luôn tính toán xem lấy chồng họ sẽ được hưởng những gì, mà quên xét phần họ sẽ đem lại những gì cho chồng. Trong sở tôi cũng có nhiều cô rất ngoan và sẵn sàng vui lòng mắc bẫy nếu tôi giăng, nhưng tôi không muốn. Nhục lắm bà ạ. Chuyện tình của tôi ai cũng biết. Nếu vợ tôi theo trai, thì cả bầu trời này tôi có rất nhiều đồng chí, nhưng vợ tôi lại . . . theo gái thì trời ơi ! còn đất nào cho tôi dung thân . . . Những mẫu chuyện tâm tình như thế này, người ta chỉ thông cảm mà không thể an ủi được, vì bất cứ một lời nào cũng chỉ làm cho câu chuyện thêm vô duyên. Kim chỉ im lặng nghe. Ở trên dốc là nhà của Bình, một nhân viên Hải quân. Bình uống rượu suốt ngày và học rất chậm. Là một nhân viên thợ máy, Bình phải theo tàu nay đây mai đó. Sống quen cuộc đời sóng gió, rượu và gái lẫn lộn, Bình đâm ra chỉ biết rượu là bạn thân độc nhất trên đời. Lần này là lần đầu tiên Bình được lên bờ ở khá lâu, hắn ta bỡ ngỡ với tất cả. Có những người sinh ra để sống với sách đèn, thì người ấy không phải là hắn. Hắn được phái đi học ngoại ngữ một năm, nhưng mỗi khi cầm cuốn sách nhìn vào chữ, hắn thấy mình không có bà con dòng họ gì với thứ chữ ấy cả, mà cũng không thể tạm làm quen với ngoại ngữ ấy một thời gian cho vui.. Đêm đêm, hắn ngồi học đến khuya với chai rượu Whisky. Cuộc sống nay bờ này mai bến khác đã luyện dạ dày hắn thành một cái thùng chứa rượu. Không còn cảm giác gì khi đổ rượu vào, chỉ còn một ít vị giác ở đầu lưỡi, hắn thấy phải uống một cái gì cay cay cho mồm đỡ nhạt nhẽo vô duyên.