Lời giới thiệu của dịch giả: Thẩm Tòng Văn (Shen Congwen) sinh năm 1902, thuộc tộc người Miêu tại khu vực phía tây tỉnh Hồ Nam. Gia đình ông theo nghiệp võ, năm 13 tuổi ông vào học võ bị, ra trường phục vụ trong quân đội, rồi sau đó làm cảnh sát và nhân viên thuế vụ, và thường di chuyển nên có dịp tiếp xúc với đủ hạng người để sau này mang họ vào các tác phẩm của mình. Năm 20 tuổi ông đọc một tờ tạp chí Thượng Hải mới biết còn có một nước Trung Hoa không theo Khổng học, khác hẳn với xứ Hồ Nam và Tứ Xuyên của mình. Vì thế ông xin thôi việc để lên Bắc Kinh học và viết văn kiếm sống, được nhóm Hồ Thích, một học giả chịu ảnh hưởng Âu Mỹ, để ý đăng bài trên các báo của họ, và làm bạn với vợ chồng Đinh Linh, một nhà văn nữ khuynh tả. Dù ít học, ông tạo được chỗ đứng trên văn đàn, và sau này trở thành giáo sư đại học và học giả về phong tục của dân tộc miền núi. Khác với nhiều nhà văn cùng thời, tình yêu mến những con người giản dị đã giúp thể hiện trong các truyện của ông một lòng nhân đạo và trìu mến, không oán hận hay gay gắt. Sau 1949, ông thôi viết và chuyên tâm nghiên cứu lịch sử, nhưng vẫn bị chính quyền đả kích dữ dội. Đến năm 1957 ông lại được nhận vào hội nhà văn, và một số truyện của ông còn đuợc nhà xuất bản Văn học Nhân Dân in thành tuyển tập. Ông mất năm 1988. Tiêu Tiêu -1929, Eugene Chen Eoyang dịch sang Anh ngữ, trích trong The Columbia Anthology of Modern Chinese Literature, nhà xuất bản Columbia University Press ấn hành năm 1995 tại New York.
Hầu như ngày nào vào khoảng tháng Chạp dân quê dường như cũng thổi sáo trúc mừng đám cưới. Theo sau dàn sáo là chiếc kiệu cô dâu trang hoàng xán lạn, lướt đi trên vai hai phu cáng. Cô gái ngồi khóa chặt bên trong, và tuy mặc lễ phục xanh đỏ ít thấy thường ngày, cô vẫn không thể không thổn thức cho mình. Vì trong lòng thiếu nữ biết rằng trở thành cô dâu và rời mẹ để đến ngày thành mẹ một kẻ nào đó nghĩa là phải đối diện với một loạt những vấn đề mới không ngờ. Gần giống như bước vào mê hồn trận, ngủ chung giường với một kẻ mình chẳng rõ mấy để duy trì nòi giống. Tất nhiên nghĩ đến những điều này có phần đáng sợ, vì vậy nếu ai khóc trong hoàn cảnh như thế, như bao nhiêu người đi trước đã khóc, thì có gì ngạc nhiên? Dĩ nhiên có người không khóc. Tiêu Tiêu không khóc khi lấy chồng. Nó mồ côi và được người chú ở quê nuôi dưỡng. Suốt ngày đội nón lá nhỏ rộng vành, nó phải nhặt cứt chó bên vệ đường và dưới mương. Đối với nó, lấy chồng chỉ có nghĩa là chuyển từ gia đình này sang gia đình khác. Vì thế, đến hôm cưới, nó chỉ cười mà không có cảm giác ngượng ngùng hay sợ hãi. Nó chẳng biết mình sẽ gặp gì, chỉ biết mình sắp trở thành cô dâu mới của ai đó. Tiêu Tiêu lấy chồng năm mười một, và Tiểu Phu Quân chưa tới hai tuổi - nhỏ hơn gần mười tuổi và trước đó không lâu vẫn còn bú mẹ. Khi về gia đình chồng, nàng gọi nó là “Tiểu Tử” theo phong tục địa phương. Công việc hàng ngày là chơi với “Tiểu Tử” dưới cây liễu trước nhà hay bên dòng nước; cho nó ăn khi nó đói; dỗ nó khi nó quấy; hái hoa bí và cỏ gà làm mũ cho Tiểu Phu Quân, hay hôn hít dỗ dành nó: - Tiểu Tử, này này, nín đi, đây đây. Rồi nàng hôn khuôn mặt bụi bẩn của nó, thằng bé sẽ toét miệng cười. Khi vui vẻ trở lại, đứa bé sẽ quấy nữa, những ngón tay tí hon của nó cào tóc Tiêu Tiêu, mái tóc nâu gần như lúc nào cũng rối tung không chải. Đôi khi nó kéo mạnh bím tóc làm tuột nút len đỏ, Tiêu Tiêu phải tát nó mấy cái, thế là nó chửi. Tiêu Tiêu lúc này cũng gần khóc, chỉ vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của thằng bé: - Nào, nào, đồ hư, mày thôi chưa. Bằng mọi cách, mỗi ngày nàng bế “chồng” làm chuyện vặt vãnh quanh nhà mỗi khi cần. Thỉnh thoảng nàng xuống suối giặt áo quần, giũ tã lót, nhưng vẫn tìm lúc nhặt các con ốc vằn nhiều màu sắc để cho thằng bé thích khi nó ngồi cạnh. Lúc đi ngủ nàng mơ những giấc mơ một cô gái ở tuổi nàng mơ; nàng mơ thấy chỗ giấu xu đồng ở cổng sau hay đâu đó, và được ăn ngon; nàng mơ mình trèo cây; nàng mơ là cá trôi nổi tự do trong dòng nước; nàng mơ mình nhẹ nhàng uyển chuyển đến nỗi bay lên các vì sao, nơi không có ai, nhưng chỉ thấy một tia chớp trắng vàng, và nàng khóc lớn gọi mẹ - rồi thức dậy, tim vẫn còn đập. Người ở buồng bên la: - Đồ ngớ ngẩn! Nghĩ gì thế? Cả ngày chơi tễu rỗi nghề, Đến khi nằm ngủ đêm về sợ ma. Nghe thế Tiêu Tiêu không đáp mà chỉ khúc khích một mình, nhớ tới những giấc mơ đẹp mà tiếng khóc của chồng đôi khi làm gián đoạn. Nó ngủ cạnh mẹ nó để bà dễ cho bú, nhưng có khi nó bú nhiều quá và đau bụng. Rồi nửa đêm nó tỉnh dậy khóc, Tiêu Tiêu phải dậy mang nó đi cầu. Chuyện này xảy ra thường. Chồng nàng khóc nhiều, mẹ chồng không biết phải làm gì, vì thế Tiêu Tiêu bò ra khỏi giường, mắt nhắm mắt mở rón rén vào - dụi ghèn khỏi đôi mắt ngái ngủ - bế thằng bé lên tay và chỉ ngọn đèn hay các vì sao lấp lánh cho nó quên. Nếu không xong, nàng sẽ hôn vội và huýt sáo, làm bộ đóng tuồng cho đứa bé, nói tía lia như trẻ con “ê ê xem kìa, xem con mèo kìa” đến khi chồng nàng toét miệng cười. Cả hai chơi như thế một hồi, rồi đứa bé buồn ngủ nhắm mắt. Khi nó ngủ, nàng đặt nó vào lại giường, trông chừng một lúc, và nghe tiếng gà gáy lập đi lập lại xa xa nàng không thể không nghĩ đã mấy giờ rồi khi rúc vào chiếc giường nhỏ của mình. Đến lúc hừng đông, tuy cả đêm không ngủ, nàng sẽ chớp chớp mắt nhìn những đóa hướng dương ngoài cửa dần dần nở ra ngay trước mắt mình thật thú vị. Khi Tiêu Tiêu lấy chồng, để trở thành “tiểu phụ” của đứa bé bằng cái kẹo, nàng cũng chẳng lớn gì hơn; cứ nhìn thân thể nàng thì biết. Nàng như cây non không đáng để ý trong vườn, đâm chồi ra những cành lá to sau những ngày mưa gió. Cô gái bé nhỏ - như thể không màng đến người chồng tí hon của mình – càng ngày càng lớn lên.
Nói đến những đêm hè là mơ mộng. Thiên hạ tìm buổi tối mát mẻ sau cơn nóng hè. Họ ngồi giữa sân phe phẩy quạt cói nhìn lên những vì sao trên trời hay bầy đom đóm trong các ngóc ngách, lắng nghe lũ dế “Trinh nữ thợ dệt” trên mái lán bí ngô đập “khung cửi” của chúng không ngừng. Tiếng xa gần chan lẫn vào nhau như tiếng mưa, và khi gió mùi cỏ khô phả đầy lên mặt là lúc người ta thích kể chuyện khôi hài. Tiêu Tiêu trổ mã rất cao, và nàng thường leo lên mép dốc đụn cỏ khô, bế chồng đã ngủ trên tay, dịu dàng hát những khúc dân ca tự ứng khẩu. Càng hát càng buồn ngủ - đến khi nàng cũng gần ngủ theo. Ở giữa sân, cả nhà chồng, ông bà nội, và hai tá điền tùy tiện ngồi trên những cái ghế đẩu nhỏ. Khoanh thuốc cỏ đặt cạnh ông nội quấn quanh chân ông như một con rắn đen, đốm hồng ửng lên trong bóng đêm để đuổi lũ muỗi chân dài. Thỉnh thoảng ông nội nhặt khoanh thuốc lên phe phẩy. Nghĩ về bữa ngoài đồng, ông nội nói: - À, hôm kia tôi nghe Già Tần nói có mấy đứa nữ sinh ghé qua huyện. Mọi người cười ồ. Chuyện gì mà cười thế? Mọi người có ấn tượng rằng bọn nữ sinh không thắt bím, để tóc kiểu đuôi chim sẻ làm chúng trông giống mấy bà đi tu, nhưng chả hiểu sao lại không như đi tu. Chúng mặc áo quần kiểu ngoại nhân, nhưng trông chả giống ngoại nhân. Chúng ăn uống, cư xử trong một phong cách… ôi dào, nói vắn tắt, mọi thứ hình như chả đâu vào đâu, và chỉ hơi nhắc đến bọn nữ sinh là đủ gây trận cười. Tiêu Tiêu không hiểu nhiều mấy chuyện đó, vì thế nàng không cười. Ông nội lại kể tiếp: - Tiêu Tiêu, chừng nào lớn lên cháu cũng sẽ là nữ sinh. Nghe thế mọi người lại cười. Lúc này Tiêu Tiêu chẳng dại với người ta, và biết đây không phải là lời khen, vì thế nàng nói: - Ông nội, cháu sẽ không làm nữ sinh đâu. - Nhưng cháu giống nữ sinh. Không làm đâu có được. - Không đâu, cháu nhất định không. Người ngoài cuộc khai thác làm trò cười và bẫy nàng: - Tiêu Tiêu, ông nội nói đúng đấy. Không làm nữ sinh đâu có được. Tiêu Tiêu bối rối không biết chuyện gì: - Được rồi, nếu phải làm thì làm. Thật ra, Tiêu Tiêu không biết làm nữ sinh có gì sai quấy. Toàn bộ khái niệm về nữ sinh luôn luôn được xem như kỳ quặc trong cái vùng này. Mỗi năm cứ đến tháng Sáu, khi cái gọi là đầu mùa “nghỉ hè” rốt cuộc lại đến, từng toán nhỏ nữ sinh từ các châu thành xa xôi tới tìm chỗ nghỉ ngơi hẻo lánh, chúng sẽ ghé qua làng. Dưới mắt dân địa phương, hầu như bọn này rơi từ một thế giới hoàn toàn khác xuống, ăn mặc những kiểu kỳ lạ nhất, phong cách còn đâu đâu hơn nữa. Vào những ngày bọn nữ sinh này ghé qua, cả làng đặt hết chuyện cười này tới chuyện cười khác. Ông nội là bô lão trong vùng, ông nghĩ giục Tiêu Tiêu làm nữ sinh là khôi hài, vì ông nghĩ về tính nhẹ dạ của bọn nữ sinh ông biết ngoài châu thành. Ngay sau câu nói đùa, ông không thể nhịn cười, nhưng ông cũng để ý xem Tiêu Tiêu nghĩ sao, vì thế câu nói đùa không hẳn là hoàn toàn vô thưởng vô phạt. Bọn nữ sinh ông nội biết thuộc một loại: chúng mặc áo quần mà không để ý đến thời tiết, ăn không biết đói hay no, ngủ trễ, ban ngày không làm chút gì ngoại trừ ca hát và chơi banh hay đọc sách nước ngoài. Chúng biết tiêu tiền, số tiền chúng xài một năm có thể mua ít nhất mười sáu con trâu. Ở thủ phủ của tỉnh, mỗi khi muốn đi đâu chúng chẳng bao giờ nghĩ tới đi bộ, thay vào đó leo vào cái “thùng” lớn đưa chúng đi khắp nơi. Trong các thành phố có đủ loại “thùng” lớn nhỏ, tất cả đều có máy. Ở trường, con trai con gái học chung lớp, và khi quen nhau, tụi con gái ngủ qua đêm với con trai mà không nghĩ tới một người trung gian hay mai mối, hay ngay cả của hồi môn. Chúng gọi đó là “tự do”. Đôi khi chúng làm công chức quận hạt và mang gia đình vào; người ta vẫn gọi chồng chúng là “Ông chủ” và con cái chúng là “Tiểu chủ”. Chúng không nuôi trâu bò, nhưng uống sữa bò và sữa cừu như nghé và cừu non; sữa chúng uống đóng hộp. Khi rảnh rỗi, chúng đi rạp hát, rạp xây như cái đình khổng lồ, và móc túi lấy một tờ bạc (một tờ bạc của chúng có thể mua năm con gà mái đẻ ở đây). Với tờ bạc chúng mua một mẩu giấy hình cái vé đem vào trong để ngồi xuống xem ngoại nhân trình diễn chiếu bóng. Khi bị bực tức, chúng sẽ không chửi hay khóc lóc. Có đứa hai mươi bốn vẫn chưa lấy chồng, trong khi mấy đứa khác ba bốn mươi tuổi vẫn ngắm nghía hôn nhân. Chúng không sợ đàn ông, nghĩ đàn ông không thể xử tệ với chúng, vì nếu không, chúng sẽ đưa bọn đàn ông ra tòa đòi quan tòa phạt họ. Đôi khi chúng tiêu hết tiền phạt, đôi khi chia với quan tòa. Dĩ nhiên, chúng không giặt giũ áo quần hay nấu nướng bữa ăn, và chắc chắn chúng không nuôi heo gà. Khi có con, chúng mượn người làm trông con chỉ năm sáu đồng một tháng để cả ngày đi rạp hát và đánh bài, hay đọc mấy thứ sách vô bổ đó. Tóm lại, mọi thứ về chúng đều kỳ quái, hoàn toàn khác với đời sống nhà nông, và một số hành vi của chúng không tin nổi. Khi Tiêu Tiêu nghe ông nội kể tất cả những chuyện này, giải thích hết mọi thứ, nàng mơ hồ cảm thấy khuấy lên một nỗi bồn chồn, và tưởng tượng mình là một “nữ sinh”. Liệu nàng có cư xử như “nữ sinh” ông nội đã kể không? Dù sao đi nữa, mấy “nữ sinh” này không có gì đáng sợ, và vì thế những khái niệm đó khởi sự xâm chiếm suy nghĩ của cô gái đơn giản này lần đầu tiên. Vì hình ảnh ông nội vẽ về “nữ sinh”, đôi khi Tiêu Tiêu khúc khích cười một mình. Nhưng khi trấn tĩnh lại, nàng nói: - Ông nội, ngày mai khi “nữ sinh” tới, nhớ bảo cháu. Cháu muốn xem. - Coi chừng, nếu không họ bắt làm người ở! - Cháu không sợ. - Ồ, nhưng họ đọc mấy sách nước ngoài, tụng kinh, và cháu vẫn không sợ? - Họ cứ tụng Quan Thế Âm bồ tát cứu khổ cứu nạn hay kinh Thiên Hầu Gieo Tai mặc kệ. Cháu không sợ. - Họ ăn thịt người như các ông quan ấy; họ chỉ ăn thịt người chất phác; họ nhai cả xương rồi nuốt hết. Có chắc là cháu không sợ không?
Tiêu Tiêu kiên quyết đáp: - Không, cháu không sợ. Lúc đó Tiêu Tiêu đang bế chồng, chồng nó chẳng vì lý do gì bỗng bật lên khóc mơ. Nàng con dâu dùng giọng người mẹ, nửa vỗ về, nửa quở trách, nói: - Tiểu tử, Tiểu tử, đừng khóc, tụi nữ sinh ăn thịt người đến đấy! Chồng nàng cứ khóc, và không có cách gì khác ngoài việc phải đứng lên đưa nó dạo chơi. Tiêu Tiêu bế nó ra, ông nội ngồi lại tiếp tục kể chuyện khác. Từ đó Tiêu Tiêu nhớ “nữ sinh” nghĩa là gì. Khi mơ, nàng thường mơ là nữ sinh, là một trong số họ. Mơ như mình cũng đã ngồi trong mấy cái hộp có máy đó, dù nàng thấy chúng đi chả nhanh hơn nàng nghĩ lắm. Trong giấc mơ, cái hộp hình như giống vựa thóc, và lũ chuột xám tro mắt lợn đỏ ti hí chạy khắp nơi, đôi khi len lỏi qua khe, đuôi nhầy nhụa thò ra sau. Với đà này, lẽ tự nhiên ông nội không gọi nàng là “tiểu hầu” hay “Tiêu Tiêu” nữa, mà gọi là “tiểu nữ sinh”. Khi bị gọi bất ngờ, Tiêu Tiêu vô tình quay lại. Ở thôn quê, một ngày như bao ngày trên đời, chỉ đổi theo mùa. Thiên hạ lãng phí từng ngày trôi qua, như Tiêu Tiêu và những người như nàng; mỗi người có phần mình, mọi thứ như vẫn thế. Trong khi đó rất nhiều thị dân tinh tế tiêu mùa hè của họ trong lụa là mềm mại, thoả mãn trong thức ngon của lạ, không kể các thú vui khác. Nhưng đối với Tiêu Tiêu và gia đình nàng, mùa hè nghĩa là việc nặng, sản xuất mười cuộn gai dầu hoặc hơn và hai ba chục xe dưa mỗi ngày. Cô dâu nhỏ Tiêu Tiêu vào một ngày hè vừa phải săn sóc chồng vừa quay bốn cuộn gai dầu. Tháng Tám, khi tá điền thu hoạch dưa, nàng thích xem các dãy dưa bí ngô bụi phủ chất cao trên mặt đất, mỗi quả to như cái nồi. Đã đến lúc thu hoạch vụ mùa, và giờ đây trong sân đầy những lá lớn đỏ và nâu từ các cành cây trong vườn sau nhà thổi đến. Tiêu Tiêu đứng cạnh đám dưa lấy một cái lá to làm nón cho chồng chơi. Một tá điền tên Hoa Cẩu khoảng hai mươi tuổi dắt chồng Tiêu Tiêu ra hái chà là. Anh ta lấy gậy tre quất đám chà là bị đất phủ đầy. - Anh Hoa Cẩu đừng hái thêm. Nhiều quá anh ăn không hết đâu. Dù có lời báo trước này, Hoa Cẩu vẫn không chuyển, như thể vì chồng tí hon của Tiêu Tiêu thèm chà là nên hắn không nghe. Vì thế Tiêu Tiêu cảnh cáo chồng mình: - Tiểu Tử, Tiểu Tử, tới đây, đừng ăn nữa. Ăn trái sống đó bị đau bụng cho coi! Chồng nàng vâng lời. Nó vốc một nắm chà là đem đến cho Tiêu Tiêu. - Chị, ăn. Trái này lớn nè. - Không, chị không ăn. - Một hạt thôi. Nàng đang bận tay làm sao có thể dừng lại để ăn? Nàng bận đan nón, và ước gì có người giúp. - Tiểu Tử, sao không đút vào miệng chị một hạt? Chồng nàng làm theo, nghĩ như thế là vui nên bật cười. Nàng muốn nó bỏ chà là xuống để phụ giữ nón trong khi nàng đan thêm mấy lá nữa. Chồng nàng nghe lời, nhưng ngồi không yên, cứ hát ậm ừ. Trẻ con cứ như con mèo, khi vui có khuynh hướng nghịch. - Tiểu Tử, hát gì đó? - Hoa Cẩu dạy em bài sơn ca này. - Hát cho rõ để chị nghe. Chồng giữ vành nón và hát lời bài hát nó nhớ. Mây lên trời, mây thành hoa Trong cuống bắp, hạt động lòng trắc ẩn Hạt làm cuống bắp hao mòn Và trinh nữ nghẹn ngào tuổi xuân Mây lên trời, từng cụm theo nhau Dưới đất đào huyệt mộ, huyệt mộ Nàng trinh xinh xắn rửa bát hoài Và mang bọn bất lương lên giường Chồng nàng không bắt được nghĩa bài hát, khi hát xong, nó hỏi nàng thích không. Tiêu Tiêu nói nàng thích, và hỏi bài hát từ đâu ra, tuy biết Hoa Cẩu dạy, nàng vẫn muốn nó nói. - Hoa Cẩu - anh ấy dạy em. Anh ấy biết nhiều bài lắm, nhưng em… phải lớn lên anh ấy mới dạy.