watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:08:4426/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tiếng Vĩ Cầm Của Quân Xâm Lăng
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Tiếng Vĩ Cầm Của Quân Xâm Lăng

Tác giả: Bảo Ninh

Một buổi tối, tôi tới sứ quán Pháp dự chiêu đãi nhân ngày 14 tháng Bảy. Giấy mời đề bảy giờ, tôi đến hơi trễ, tây ta đã rất đông, vào tiệc đã khá lâu. Tiệc đứng. Không hẳn là như trên tàu điện nhưng cũng mỏi nhừ, cũng mệt lử và cũng mạnh ai nấy chen.
Phòng tiệc rù rù máy lạnh, song sức máy không đủ làm nhẹ bầu không khí nặng hơi người và khói thuốc, nồng ngạt mùi nước hoa đàn bà, mùi nước hoa đàn ông, mùi phấn son, mùi xi đánh giày, mùi thức nhắm và mùi rượu mạnh các loại. Khách khứa phải dãn dần ra hiên, tản bớt xuống vườn.
Tiếng trò chuyện ở ngoài vườn không ồn như trong phòng mà nhè nhẹ ran lên. Thỉnh thoảng như bị cù ré lên tiếng cười của một bà nào, một ông nào. Các ông các bà, với ly rượu trên tay hoặc với đĩa thức nhắm, hoặc là ôm đồm một lúc trên tay cả hai thứ, đứng tụ từng nhóm dăm vị với nhau, vừa uống ăn vừa đấu hót. Nom ai cũng lịch sự, đẹp đẽ mượt mà. Nhất là các bà các cô người nào người nấy diện ngất. Các ông thì tuyệt vời tề chỉnh, tất cả đều đóng hộp, đường bệ com lê cà vạt giày da, tương xứng với tên tuổi và phẩm giá. Các nhà buôn, các nhà báo, các nhà kịch sĩ, các nhà ca sĩ, các nhà thông thái già, các nhà thông thái trẻ, các nhà từ thiện, các nhà môi giới. Tất cả các gương mặt đều đậm nét cao quý, tất cả các dáng điệu đều đặc Pháp. Và ngôn luận nữa, cũng Pháp. Khi có một anh Tây nào đó xì xồ một lời dí dỏm, lập tức trong nhóm thực khách vây quanh y những ai sành tiếng Tây liền rộ lên cười tán thưởng, còn những ai, như tôi, chỉ biết tiếng mẹ đẻ thì nhũn nhặn mỉm cười theo với vẻ tươi vui dè dặt. Tôi thấy có cô thậm chí còn nhón chân lên nhìn tay ngoại quốc thạo pha trò nọ bằng cặp mắt gần như mờ đi vì si mê và thán phục.
Tại giữa khu vườn, ở nơi sáng nhất, trội lên một đám chừng chục vị đặc biệt rôm rả. Chưa nhìn rõ ai nhưng thoáng qua cung cách hân hoan buông tuồng của họ, đoán đây là một toán nam nữ đồng nghiệp trẻ tuổi nên tôi phải vội vã liệu đường. Ra gần cổng sứ quán, do hấp tấp tôi xô phải một ông già đang bước đi chậm rãi. Luýnh quýnh tôi xin lỗi.
- Không sao. Tôi không làm sao cả đâu ạ, thưa ông! - Ông già nói - Cũng là bởi tại tôi tối nay có hơi ngà ngà. Mà làm sao ông cũng về sớm vậy, nhà văn?
Tôi nhìn, giấu nỗi sửng sốt. Tôi biết ông. Ông già chủ sạp báo ở đầu đường Nam Bộ chứ ai. Y phục dạ tiệc của ông sờn nát. Cà vạt kiểu gì đâu nom như cái cờ đuôi nheo. Và bởi vì ông gầy nhom nên cả sơ mi cả áo vét đều lụng thụng. Ông thấp người, lưng còng còng. Tôi đỡ khuỷu tay ông, đưa ông sang đường.
- Cái lễ cát tó năm nay linh đình chỉ, - Ông già nói, giọng khàn khàn - Khách khứa đông gớm ghê. Có lẽ là vì kỳ này, ngoài Đại Cách mạng, Tây nó còn muốn tưởng niệm luôn cả quả bom Mỹ hai mươi năm về trước thổi bay tòa đại sứ.
Gió mát thổi dài dọc phố. Đường Thợ Nhuộm về khuya vãn dần xe cộ. Vỉa hè thưa người qua lại. Tôi bước đi thật chậm cạnh Me xừ. Ông già tên Bôn nhưng vẫn nghe dân tình cùng phố với ông gọi ông như vậy, Me xừ.
- Tôi đồ rằng ông đang bận tâm tự hỏi cái lão già này khoác tư cách nào mà vào ra can dự cái chỗ tiệc tùng long trọng đó, phải thế chăng? Mà ông ạ, không chỉ tối nay đâu, đã thành cái lệ rồi, hễ cứ lễ lạt to to một chút trong sứ quán là tôi tất yếu có giấy mời. Là tôi đến dự. Mà tôi là ai nào ai biết.
Ông nói phà ra mùi rượu song không hề nhịu giọng. Ông bước chậm lệt sệt lê giày, nhưng ông không chuệnh choạng. Lời lẽ của ông khúc triết.
- Tôi nghĩ, ngay cả các viên chức lễ tân của sứ quán cũng chẳng biết tôi là nhân vật nào. Họ cứ tra theo danh sách do những người tiền nhiệm giao lại mà lắp tên và địa chỉ của tôi vào giấy mời in sẵn. Giấy mời đến tay tôi theo đường bưu điện. Tôi đến, chìa giấy ra, rồi vào cổng, chẳng ai căn vặn. Vào ra sứ quán nhiều lần, tôi thạo cửa trước cửa sau, lối thẳng lối quanh, tôi sành thể thức tiếp tân của từng loại buổi chiêu đãi. Tôi dễ dàng kiếm được một ly và nhè nhẹ một chút thức nhắm gì đó mà không phải xông xáo, không phải chường mặt giữa đông người. Tôi tìm chỗ khuất, không nói gì, không bắt chuyện, tôi lắng nghe tiếng Pháp người ta đang nói ran khắp xung quanh. Tôi thui thủi nép bên lề nước Pháp.
Dòng độc thoại của con người kỳ quặc đang lê bước bên cạnh khiến tôi bắt đầu cảm thấy ngại. Tôi liếc mắt sang. Dưới ánh đèn đường vàng ủng, khuôn mặt ông cụ nom càng bệu rệu.
- Nhưng đã bảo là không muốn chường mặt ra thì còn cố len lỏi vào đó làm gì chứ, hẳn ông đang nghĩ vậy. Hẳn là ông đang cảm thấy ngượng thay cho tôi, hẳn ông đánh giá tôi là một tên già lố lăng, lai căng, sùng ngoại.
Tôi vừa dợm ấp úng mấy lời thưa cụ rằng tôi chưa có cái vinh hạnh được biết nhiều về cụ nên tôi không thể nghĩ này nghĩ nọ cái gì cả, nhưng Me xừ đã lập tức ngắt lời tôi:
- Ông chẳng cần phải lựa lời. Đừng e sẽ làm tôi mếch lòng. Vì sự thực đúng là như ông đang nghĩ. Chỉ có điều tôi không chuộng ngoại nói chung, mà chỉ Pháp thôi, tôi ưa hầu hết những gì của Pháp. Nhân đây tôi cũng xin được thú thực cùng ông, tôi chính cống là một bóng ma thân Pháp cuối cùng còn sót lại trong lòng Hà Nội!
Sự xuất thần vô cớ, sự bộc bạch bỗng dưng của ông già không làm tôi ngạc nhiên. Tôi cứ bình thản nghe. Nghe thì gì mà không được. Về cái khoản nghe người đời tâm sự thì tôi như là có năng khiếu bẩm sinh.
- Lẽ cố nhiên, thuở còn thơ, khi phải học thuộc lòng rằng Tổ tiên chúng ta là người Gôloa thì tôi cũng thừa hiểu đấy là một điều thậm dối trá, - Me xừ lại khàn khàn bắt đầu nói sau một hồi lâu trầm lặng bước đi - Nhưng mà, ông ạ, thuở đó tôi và chúng bạn cũng lại thường hát như thế này: Tôi có hai mối tình. Quê hương tôi và Pari...
Đến đầu phố Dã Tượng, tôi và Me xừ dừng lại ở một quán cà-phê vỉa hè. Chúng tôi ngồi, im lặng, thìa khuấy lanh canh. Bên Hỏa Lò, công trường xây dựng khách sạn vẫn đang ầm ì làm lụng.
- Ông thấy đấy, - Xừ Bôn nói, đưa tay chỉ - Người ta đang nhổ nốt những mẩu vụn cuối cùng của thời Pháp thuộc. Chẳng ai tiếc, mà chẳng ai tiếc là phải.
Buông tiếng thở dài, ông già nói tiếp, chậm rãi:
- Hồi xưa kia khi phố xá tĩnh lặng chứ không như bây giờ. Có thể đi suốt dọc một quãng phố dài mà chỉ có một mình mình kèm cái bóng và tiếng chân của mình. Hồi đó, rộc đi vì quá đầy chữ nghĩa, tôi thường có cái thú tiêu dao, một mình đi dạo để tìm khuây khỏa. Tôi tránh những nơi ồn ào, những nơi tụ bạ, tôi chỉ ưa những phố Tây tĩnh mịch, thưa vắng bóng người. Đường Bôniphaxi, đường Hale, đường Giabui... Ông thấy đấy, đã đổi đời năm chục năm rồi mà trí nhớ tôi vẫn chưa đổi được hết tên các phố. Những đường phố êm như mộng, thanh nhã và thư nhàn. Nhà ở những phố ấy toàn biệt thự, tất cả đều kín cổng cao tường, như là những lâu đài nhỏ. Và phố nào cũng râm mát. Xưa, gia đình chúng tôi sống tại phố này đấy. Phố Giăng Xôlê. ở ngôi nhà kia kìa!
Xừ Bôn nhổm người khỏi ghế, đưa tay chỉ sâu vào khúc đường Thợ Nhuộm mà tôi với ông đã đi dọc qua vừa nãy.
- Thời ấy, khu phố này người mình rất hãn hữu. Mấy ngôi biệt thự kề nhà chúng tôi chủ nhân đều người Pháp. Giữa các láng giềng Tây và chúng tôi cố nhiên ít có sự giao du, nhưng mức sống và lối sống của gia đình tôi chẳng hề thua kém họ, nếu không nói là còn hơn. Tây nó được thế nào thì chúng tôi được thế nấy. Hết sức là bình quyền, ông ạ.
Me xừ khịt khịt mũi ra chiều tự phụ.
- Nếu không vướng thế giới chiến tranh thì hẳn là tôi đã được gia đình cho qua Pari du học rồi. Nhưng mà nước Pháp bị chiếm đóng. Quân Nhật vào Đông Dương. Còn tôi vào trường Luật. Ngày đó tôi giàu suy tư, tôi đầy nghĩ ngợi. Tôi héo mòn đi vì đăm chiêu. Tôi ưa độc thoại. Ngoài triết học tôi còn nghiền ngẫm văn chương thi phú. Tôi am tường tư tưởng các tiểu thuyết của Xtăngđan, của Flôbe, tôi thuộc lòng vô số thơ của Huygô, của Bôđơle, của Rembô và Véclen. Nhất là Véclen, ông ạ. Véclen... Cốc cà-phê đã cạn, và ngồi mãi đã phát nhàm nhưng ông già vẫn chưa thấy nhàm câu chuyện.
- Lúc bấy giờ, trong thiên hạ nhiều kẻ hùa theo Nhật. Nhưng tôi thì không tài nào ưa nổi đám quan binh ngạo mạn và cục cằn ấy. Tôi thầm mong văn minh Pháp sẽ có ngày trị lại được thói hung tàn của bọn rợ. Song chỉ là mong như vậy chứ tôi hoàn toàn trốn khỏi thời cuộc. Mặc dù những tài liệu Việt Minh ngầm truyền bá trong sinh viên tôi cũng được đọc nhưng tôi chẳng chịu tin theo. Đến Tây còn chưa cự nổi Nhật nữa là. Người mình sức vóc tới đâu mà hòng đuổi chúng, tôi nghĩ vậy. Và tôi lẳng lặng xa lánh tất cả những bạn bè mà tôi ngờ là đang nuôi chí làm chuyện lớn. Tôi vùi tuổi trẻ của tôi vào những chồng sách già nua. Tôi sống bưng tai bịt mắt đến mức xây lưng lại với cả nạn đói.
Ông già chật vật nới nút cà vạt. Nói nhiều phát mệt, cái sọ hói khô khốc của ông loáng mồ hôi.
- Những năm ấy, Hà Nội sống không yên, mất ăn mất ngủ, liên miên nhao nhác náo động. Nhưng riêng ở các phố Tây thì bầu không khí vẫn như trong thuở thái bình. Có phần còn thái bình hơn. Một nền thái bình quỵ lụy. Thật đúng là như thế. Bởi vì từ khi nước Pháp đại bại thì người Pháp ở Hà Nội tuy vẫn được yên lành nhưng bị thâu mất bính quyền, càng năm càng thất thế. Co ro sợ sệt. Nhà cửa dinh thự của họ cũng như so vai rụt cổ. Phố xá phờ phạc. Phố nào phố nấy đìu hiu, vắng tanh vắng ngắt... Nhưng mà ông ạ, chính cảnh tượng yếm thế như vậy lại hòa hợp với cõi lòng tôi thuở bấy giờ. Khi một mình dạo bước trên vỉa hè dưới tán những cây bằng lăng hoa tím phố Giăng Xôlê, nghe tiếng vĩ cầm than van, tôi tưởng tượng mình như chiếc lá vàng rơi rụng trôi dạt trong làn gió thu của thơ Véclen. Phố Xôlê hồi ấy, ông ạ, tĩnh như tờ, và trong mường tượng của tôi, nó có vẻ như hẹp hơn và dài hơn hẳn Thợ Nhuộm bây giờ. Dài thẳm, hun hút và buồn lắm. Hồi ấy, vào mỗi buổi sáng, vào mỗi buổi chiều, khi tôi ra khỏi nhà và khi tôi trở về luôn luôn có tiếng vĩ cầm đợi tôi tại quãng phố trước cổng nhà. Tôi tưởng tượng cây đàn ấy cả ngày ngưng tiếng mãi chờ cho tới khi có tiếng chân tôi bước đến mới nức lên. Tiếng đàn tuyệt diệu mà sao đau xót não nùng, dự cảm những ngày mai và nuối tiếc những ngày qua. Lòng tôi se lại cảm thương vô hạn nỗi lòng cô thiếu nữ người Pháp, và ông ạ, than ôi, chẳng can hệ gì đến tôi mà vô cớ tôi buồn nhớ, tôi tiếc thương nước Pháp...
Giọng nói của ông cựu sinh viên trường Luật nghẹn lại. Không đành dứt ra đứng dậy, tôi đành mất sạch thì giờ ngồi nghe rì rầm những hồi ức đầy tự mãn và hoàn toàn không đâu vào đâu của một thứ dĩ vãng đã hoàn toàn bị xóa sổ.
- Cây đàn ấy là của Xôphi, con gái nhà Pêguy hàng xóm với gia đình tôi. Gia đình Pêguy không giàu có. Nhà của họ là một ngôi biệt thự hai tầng cũ kỹ. Tường nhà nhiều năm không được quét mới lại, màu vôi đã xạm. Ông Pêguy là một ông Tây bất thường. Sống thu mình, hiền lành và thầm lặng. Chẳng cứ với người mình mà với cả người Tây đầm, Pêguy cũng tránh giao du. Cánh cổng sắt từ mặt phố mở vào sân nhà ông ta hầu như quanh năm chẳng biết khi nào hé mở... ấy vậy mà ông ạ, tôi lại vốn là chỗ quen biết với nhà bên đó. Cố nhiên không phải là với ông Pêguy mà là với các con của ông ta. Ông ta góa vợ. ở vậy nuôi hai người con. Một trai một gái. Trai tên Philip một tuổi với tôi. Còn Xôphi thì ít hơn ba tuổi. Xôphi mồ côi mẹ ngay lúc lọt lòng. Và đáng thương nhất ông ạ là Xôphi cô ấy bị mù. Mù từ nhỏ. Cặp mắt nom như là hoàn toàn bình thường vậy mà hoàn toàn không nom thấy gì.
Ông già ngừng kể, lục túi áo rút mù xoa ra chấm mồ hôi. Tôi chẳng nói gì, lẳng lặng nhìn.
- Tôi và Philip đã dễ dàng kết bạn ngay khi gia đình tôi vừa dọn tới. ở cái tuổi mười hai, mười ba, bức tường ngăn cách tây ta chưa cao lấp mặt như là khi đã trưởng thành. Thêm nữa giữa khuôn viên nhà chúng tôi với nhà Pêguy không xây tường gạch mà chỉ được ngăn ra bởi một hàng rào sắt. Từ hai bên bờ rào, tôi và Philip bắt chuyện làm quen. Philip rủ tôi qua chơi. Cậu ta không sang bên tôi được vì còn phải trông nom đứa em. "Đứa em gái khốn khổ bị mù của tôi", cậu ta bảo thế.
Không như thói thường đám Tây con, hai anh em nhà Pêguy tính nết rất lành, nhất là Xôphi. Có lẽ do vì được sinh ra tại Việt Nam nên vóc dáng cô mảnh dẻ, tóc đen mắt huyền, giọng nói êm ái, tư chất dịu hiền. Tôi rất mến cô. Nhiều bữa không có Philip ở nhà, tôi vẫn sang chơi. Chúng tôi cùng nhau đi dạo trong vườn hoặc là ngồi cạnh nhau trong cái chòi hóng mát ở cuối vườn. Cả hai đều ít lời, không có nhiều chuyện để nói, tôi thường đọc truyện cho Xôphi nghe. Và đọc cả thơ nữa, còn cô thì đàn cho tôi nghe. Tôi có thể ngồi lặng hàng giờ nghe cô tập viôlông. Những khi có tôi bên cạnh, Xôphi vui hẳn lên. Đôi khi còn cười lên thành tiếng. Thậm chí nhờ tôi mà cô đã dần dần bập bõm nói được cả đôi chút tiếng Việt.
Me xừ thở dài, giọng trầm xuống:
- Nhưng nói gì đi nữa thì quan hệ giữa tôi với anh em nhà Pêguy cũng là một thứ tình cảm phi lý và nghịch thường, ngày một thêm chướng và thêm trái lẽ. Cho nên chẳng tài nào mà bền được. Càng lớn lên suy nghĩ càng ít hồn nhiên, nhiễm dần những thiên kiến, lòng dạ khác đi, tình bằng hữu nhạt dần. Trước tiên là giữa tôi với Philip. Chẳng có sự tuyệt giao nhưng cứ thế lẳng lặng lảng dần nhau. Mà đã không còn chơi với ông anh thì cố nhiên là cũng khó bè bạn với cô em. Tôi tránh dần, rồi tránh hẳn qua lại nhà bên đó. Vả lại, thời cuộc đổi thay. Từ năm 1940, sự đời ngày một thêm nghiêm trọng. Philip không vào đại học. Một ngày nọ, tôi thấy hắn vận đồ nhà binh về thăm nhà.
Ông già móc bao thuốc ra, châm một điếu. Ông nuốt một hơi, ho một hồi, rồi lại nuốt tiếp một ngụm khói nữa, lại ho. Ông dụi điếu thuốc đi.
- Sau Tết ất Dậu, Nhật làm đảo chính diệt hẳn người Pháp. Chỉ một đêm, quân lính Thiên Hoàng đã cướp gọn Hà Nội. Tây đầm bị bắt, bị lùa hết lên camiông chở hốt đi. Phố Xôlê yên tĩnh bỗng rầm rập lính tráng, xủng xoảng súng ống gươm kiếm. Vậy mà, ông ạ, trong huống cảnh hung dữ nhường ấy, gia đình chúng tôi lại bạo gan chứa chấp một gia đình người Pháp. Thưa ông, đó chính là gia đình Pêguy... Ông cụ thân sinh tôi với ông Pêguy tuy rằng cũng có đôi chút quen biết nhưng mà chẳng phải là mật thiết gì. Chẳng qua vì là một gia đình bản xứ thuộc tầng lớp trên sống gần cận nhất nên khi sự biến thình lình chúng tôi bỗng trở thành cơ may duy nhất của cha con ông ta. Tối đó, vừa nghe súng nổ, hay tin trong Thành có biến, hồn xiêu phách lạc, không kịp vơ vén đồ đạc của nả, ông Pêguy dắt Xôphi chạy ngả vườn sau, lách song sắt hàng rào qua bên chúng tôi. Mặc dù rất sợ, sợ lắm, nhưng ông cụ thân sinh tôi vẫn thuận cho hai cha con ông ta vào tỵ nạn.
Cố nhiên, thưa ông cái nghĩa cử liều chết ấy đã khiến cả gia đình nơm nớp. Chỉ riêng tôi là thấy rộn lên trong lòng. Trạng thái hiểm nguy dù sao cũng là sự bất ngờ mới lạ làm lay động cuộc sống lặng tờ, tẻ nhạt, bình chân như vại của gia đình tôi và của bản thân tôi. Tính chất ly kỳ của sự việc khiến tôi ngầm phấn khích. Tôi tự thấy mình can đảm, tôi tự hào mình nghĩa hiệp. Và ngay trong lúc mà song thân tôi đang nghênh tiếp viên lãnh binh Nhật tại phòng khách thì tôi ở dưới hầm rượu bên cạnh cha con Pêguy chia sẻ cùng họ nỗi khiếp sợ. Tôi và Xôphi tay trong tay. Chứa chan xúc cảm, tôi khoác cho cuộc tỵ nạn của Xôphi một vẻ lâm ly thần tiên. Có vẻ nực cười ông nhỉ? Song le có ai trong huống cảnh thế lòng dạ lại không sinh ra hão huyền phải không thưa ông?
Tôi uể oải đưa tay che miệng giấu một cái ngáp. Tôi đoán chừng là sắp sửa phải nghe một câu chuyện tình nẫu ruột được moi lên từ đáy rương.
- Cuộc mạo hiểm của gia đình tôi chẳng kéo dài. Hai cha con ông Pêguy náu thân trong nhà chúng tôi được vẻn vẹn có hai hôm. Sáng ngày thứ ba, hiến binh xộc cửa vào thăm. Như là đã được mật báo, chẳng cần lục soát hay xét hỏi lôi thôi, viên lãnh binh Nhật dùng tiếng Pháp rành rọt yêu cầu ông cụ thân sinh tôi lập tức giao nộp những người Pháp đang ẩn trốn. Mặc dù trong vụ ấy ông cụ thân sinh không bị buộc tội, không ai trong gia đình tôi bị tống giam, nhưng mà thương xót Xôphi, tôi chẳng cầm được nước mắt.
Lại một cơn ho nhưng Me xừ không ngừng kể:
- Đầu thu năm 45 mở ra nhiều hy vọng. Tôi đoán chắc đà chiến thắng của Đồng Minh sẽ khiến quân Nhật phải nương tay với các tù nhân người Pháp. Gia đình Pêguy ắt hẳn sẽ tai qua nạn khỏi. Tôi sẽ còn gặp lại Xôphi. Tôi tin như vậy. Nào ngờ... Nào ngờ... sau chiến tranh không phải là một nền hòa bình mà là một cuộc xâm lăng tàn bạo. Không như tôi hão huyền mơ tưởng, người Pháp trở lại Đông Dương không trong tư thế những người từng chịu chung họa phát xít với dân Nam mình mà là trong bộ dạng của quân cướp nước hung hăng bạo tàn gấp bội lần quân Nhật. Sau khởi nghĩa Mùa thu, và ngay sau lễ Độc Lập, hay tin liên quân Anh - Pháp gây hấn ở Nam Bộ, tôi đã nghĩ ngay rằng dù Xôphi có còn sống đi nữa nhưng mà vướng phải cuộc xâm lăng này thì chúng tôi cũng không hòng gì còn có thể gặp lại nhau. Quả nhiên là như vậy, ông ạ, không bao giờ nữa...
Không nhìn thấy được gương mặt Me xừ nhưng tôi hình dung thấy chóp mũi ông ửng đỏ và mắt ông mờ đi.
- Cách đây gần chục năm, một người Pháp qua đường tình cờ dừng bước trú mưa dưới mái hiên nhà tôi. Nơi mặt tiền nhà mình, tôi có bày một sạp báo. Người khách Tây nhặt ở sạp lên một cuốn tạp chí giở xem lướt lướt. Vừa lật xem vừa hỏi han này nọ. Vì rằng ông khách có ý thán phục tiếng Pháp của tôi nên tôi lập tức có thiện cảm với ông ta. Mưa to. Tôi mời khách vào hẳn trong nhà uống trà và chuyện vãn. Khách trao tôi danh thiếp. Tên là Giăng Pêguy. Họ của vị khách cố nhiên gõ mạnh vào trí nhớ tôi. Tôi lựa lời dò hỏi và lần hồi tôi kể lại chuyện xưa. Mặc dù không có người họ hàng nào từng sống ở Đông Dương thời thuộc địa, nhưng mà Giăng rất quan tâm tới câu chuyện, ông ta nài tôi kể kỹ hơn và lắng nghe rất chăm chú. Cuối cùng, tỏ vẻ mừng rỡ, ông ta bảo rằng suốt một năm làm việc tại Việt Nam đã cất công tìm kiếm những người như tôi mà không được, may mắn làm sao khi đã hết nhiệm kỳ, ngày mai về nước rồi thì lại có sự tình cờ này. "Ông là một người bạn của nước Pháp. Và còn hơn thế, ông là người có công trạng với nước Pháp". Ông ta trịnh trọng bảo vậy. Trước lúc ra về, ông ta đề nghị tôi ghi lại cho ông ta tên tuổi ba cha con Pêguy và địa chỉ ngày xưa của họ ở phố Xôlê... Sau đó chừng nửa năm, tôi bỗng nhận được giấy mời dự tiệc của Sứ quán Pháp. Tuy rất ngạc nhiên nhưng tôi vẫn đóng bộ vào và tới dự. Đấy là lần đầu tiên tôi vào chốn ấy. Tiệc tan, tôi được mời lưu lại. Người ta trao cho tôi món quà từ Pari. Một cây đàn viôlông rất đẹp và còn mới nguyên. Trong hộp đàn có phong thư của Giăng Pêguy. Trong thư, Giăng viết rằng sau nhiều nỗ lực tìm kiếm ông ta đã lần được đích xác tung tích số phận những người hàng xóm thuở xưa của tôi. Song,
ông ta lấy làm tiếc và ông ta xin chia buồn với tôi bởi nỗi những cố nhân ấy của tôi đều đã qua đời. Người con trai tử trận ở Điện Biên Phủ. Người con gái thì mất ở Sài Gòn vào năm đầu thập niên 60. Ông bố chết cùng trong năm ấy, và cũng tại Sài Gòn. Cây đàn, Giăng xin tặng tôi nhằm bày tỏ niềm ngưỡng mộ của một người Pháp lớp hậu sinh đối với quá khứ Pháp - Việt đẹp đẽ và đầy xúc động thời xa xưa, mà tình bạn giữa tôi với anh em nhà Pêguy là một minh chứng. Cuối thư, Giăng trịnh trọng nhắc lại: "Ông là một người bạn của nước Pháp".

HOMECHAT
1 | 1 | 114
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com