watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:06:2312/06/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Thành Toàn
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Thành Toàn

Tác giả: Huỳnh Trung Chánh

Sinh trưởng trong một gia đình trung nông tầm thường, đời đời lam lũ với rẫy bái ruộng nương, Phan Thế Vinh vốn không có tham vọng tiến thân bằng nghiệp văn chương khoa cử. Do hoàn cảnh côi cút, kế mẫu quá khắc khe, nên để tránh chuyện gia đình lục đục khó xử, người cha mượn cớ học hành, để tống con đến nhà người cậu họ tên Tú Kiết, để mà tị nạn. Tủi thân phận, Thế Vinh tận tâm học hành. Nhờ chuyên cần, nhất là nhờ thông minh thiên phú, Vinh tiến bộ vượt bực, nổi danh là bực văn tài xuất chúng. Tú Kiết thương mến tài năng, đích thân đưa chàng đến gặp cụ Nghè Ðỗ Bảng, để nhờ cụ Nghè thâu nhận dạy dỗ, hầu tài năng của chàng phát có cơ hội phát triển sâu rộng hơn. Cụ Ðỗ Bảng nguyên là vị Hàng Lâm Ðại-học-sĩ tại đất Thần Kinh, công danh đang thời rực rỡ bỗng được tin hiền mẩu qua đời phải từ quan để cư tang. Chẳng bao lâu, người vợ yêu lại bạo bịnh từ trần. Biến cố dồn dập khiến cụ Nghè yếm thế, chẳng màng đến công danh sự nghiệp, quyết tâm sống đạm bạc chốn quê mùa, lấy việc trao truyền chữ nghĩa thánh hiền cho thế hệ mai hậu để làm niềm vui. Thế Vinh sớm được cụ Nghè coi là bảo đồ, vì chàng ưu tú cả tài năng lẫn đức hạnh, nên có hoài vọng đào tạo người học trò thành một nhân tài hiếm có cho đất nước. Ðáp lại, Vinh luôn luôn chứng tỏ là một người học trò xứng đáng, tôn kính và hiếu dưỡng thầy như từ phụ. Cụ Nghè chỉ có một cô con gái tên Quyên Quyên. Ngày Thế Vinh mới đến nhập học, Quyên Quyên còn bé bỏng cỡ tuổi 12, đối với bọn học trò lớn, vẫn thường ngây thơ vòi vĩnh để được chiều chuộng đưa đi dạo quanh vườn, rồi đòi hoa, đòi bướm. Vào học, Quyên Quyên cũng ngồi cạnh Vinh, nên hai người đã có cảm tình sâu đậm, dù mức độ giao tiếp cứ giảm dần khi Quyên Quyên đến tuổi dậy thì. Chỉ mấy năm sau, Quyên Quyên biến thành một thiếu nữ yêu kiều, nết na thùy mị, công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Thế Vinh thầm yêu Quyên Quyên tự bao giờ, nên mỗi khi nghe phong thanh có gia đình trâm anh thế phiệt nào nhờ mai mối xin cưới nàng, thì Vinh đau khổ bỏ ăn, bỏ ngủ, ngớ ngẩn như kẻ điên khùng. Rồi cho đến khi được tin cụ Nghè khước từ họ, thì chàng lại phơi phới hân hoan nghĩ rằng cụ Nghè đã thầm dành Quyên Quyên cho chàng: cụ thương và hiểu rõ tài năng và tính tình trò. Thế là Vinh chỉ cần cố gắng học, chờ ngày đoạt bảng vàng rồi sẽ vầy duyên cùng người đẹp.
Chễm chệ trên kiệu tân khoa vinh quy bái tổ, Phan Thế Vinh rộn ràng vẽ vời mộng đẹp. Có tiếng hò lơ ấm áp của ai trên cánh đồng ruộng lúa:
Hò.... ơ! Chim Quyên ăn trái nhãn lồng
Hò.... ơ! Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
Làm Thế Vinh càng mơ về Quyên Quyên. Chàng thì thầm một mình: "Quyên ơi! Mình chưa là vợ chồng, mà sao anh nhớ nhung tha thiết mùi con gái đang xuân, mùi trinh nữ ngọt ngào của em quá đi!"
Vừa đến ranh giới làng Chú Tượng, huyện Mộ Ðức, Thế Vinh ra lệnh cho phu kiệu dừng lại. Chàng trút bỏ bộ phẩm phục, thay bộ quần áo thô thư sinh tầm thường cũ kỹ, một mình đi bộ đến nhà thầy. Thế Vinh muốn về nhà thầy với tư cách là một người học trò hiếu kính, chớ không xênh xang áo mũ tân khoa, giảm đức độ khiêm cung của kẻ sĩ.
Dù nóng lòng gặp thầy và Quyên Quyên, Thế Vinh cũng đành phải ghé lại căn nhà ngoài, gian nhà dành cho các người học trò xa nhà ở trọ, để thăm hỏi các bạn học hỏng thi. Gian nhà trống trải làm Vinh ngạc nhiên tột độ. Thông thường, ngay cả Tết Nguyên Ðán, học trò vẫn luân phiên cử người trực tại trường để chăm sóc thầy. Vinh cuống quít bước về gian nhà chính. Ngôi nhà cũng vắng tanh. Vinh hồi hộp chạy vòng ra sau nhà bếp. Chàng mừng rú lên khi đi tìm thấy dì Tư đang lúi cúi chăm sóc mấy nọc trầu. Tìm hiểu nguyên nhân về sự vắng mặt của thầy, Vinh rụng rời vỡ mộng. Cụ Nghè Ðỗ Bảng và Quyên Quyên đồng xuất gia tại chùa Thiên Ấn. Cụ Nghè đã phát nguyện xuất gia từ lâu, nhưng lần lựa chờ ngày cô con gái thành gia thất. Không ngờ Quyên Quyên thường theo cha lễ Phật nên cũng tiêm nhiễm hương vị giải thoát, và cương quyết chọn con đường tu hành. Mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng cả năm rồi, nhưng cụ Nghè nghĩ thương đám học trò, nên tạm hoãn chờ ngày học trò lên đường đi thi mới lên chùa thế phát.
Thế Vinh lừng khừng trở ra, lòng rối ren áo não. Trước sân, hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ như ngày nào, mà giờ đây, nàng đã không còn nữa? Bất chợt, Thế Vinh cảm thấy lân mẫn với nhà thơ Thôi Hộ đời Ðường. Chàng ngâm nga bài thơ ứng khẩu theo thi tứ người xưa:
Ngày xưa cũng ở chốn này,
Em cùng hoa phượng, hây hây má hồng.
Bây giờ em ở cửa "không",
Nhìn hoa cợt gió, chạnh lòng nhớ thương. (1)
Nhớ lại tình sử Thôi Hộ, bỗng Vinh thoáng thấy có tia hy vọng nhen nhúm trong lòng. Ngày xưa, khi Thôi Hộ chỉ thấy còn có hoa đào cợt gió đông mà không thấy người đẹp, bèn đề thơ bên cửa. Người con gái trở về, nhìn thơ mà tương tư chàng thi sĩ, nên ngày càng sầu héo. Ðến khi Thôi Hộ hay tin tìm đến, thì nàng đang cơn hấp hối vô vọng. Thế nhưng những giọt nước mắt của Thôi Hộ đã làm cho người đẹp hồi sinh. Vinh nghĩ, chàng sẽ tìm cho gặp Quyên Quyên. Rồi biết đâu những giọt nước mắt của chàng sẽ khiến cho Quyên Quyên cởi bộ áo nâu sòng hoàn tục. Ðó là lối thoát lý tưởng mà Vinh cố bám víu vào để hy vọng.
Thiên Ấn tự (2) là một ngôi chùa cổ kính do sơ tổ Pháp Hoa tạo dựng trên đỉnh núi Thiên Ấn, xã Niêm Hà, Quảng Ngãi. Trái núi hình dáng vuông vắn xinh xinh như một dấu ấn, ấn trời-, phong cảnh thật cô liêu và trang nhã. Thế nhưng Vinh đâu còn tâm trí nào để ngoạn cảnh, chàng hấp tấp leo trèo cho mau đến đỉnh núi. Mệt nhọc quá! Vừa gạt mồ hôi nhễ nhại, Vinh vừa rủa thầm mấy ông sư bà vãi bày chi trò tu hành mê tín để quyến rũ Quyên Quyên, làm khổ thân chàng.
Lên chùa, Vinh mới biết ni chúng cư trú ở một am riêng biệt gần đó, do sư bà Khánh Hỷ hướng dẫn tu học. Ni viện có truyền thống không tiếp khách thập phương. Du khách chỉ có thể liên lạc với ngôi chùa chính. Thầy tri khách, thiền sư Bảo Ấn tiếp kiến Vinh, hỏi nguyên do chuyến viếng thăm. Vinh ú ớ không biết phải trả lời sao cho phải. Giữa chàng và Quyên Quyên chẳng có chút giây liên hệ, còn mối tình cũng chỉ đơn phương dấu kín trong lòng, chàng khó viện lý do xin gặp mặt. Tuy nhiên, có lẽ nhờ thầy tri khách ôn hòa thông cảm, nên Vinh lần lần bộc lộ được nỗi lòng. Trút được uẩn khúc, Vinh khóc như mưa, để van xin thầy tri khách chuyển lời đến Quyên Quyên sao cho nàng thấu hiểu thâm tình của chàng. Không ngờ Quyên Quyên lòng dạ sắt đá không cho chàng gặp mặt, chỉ nhờ thầy tri khách nhắn lại: " Sa di ni Bảo Tường, - pháp danh của Quyên Quyên -, quyết tâm tu hành nên không tiện gặp người đời bàn bạc chuyện thế gian phiền não nữa..."
Thế Vinh chẳng chịu thua, cứ năn nỉ xin được gặp Quyên Quyên một lần rồi vĩnh viễn không trở lại. Trước thái độ si tình khổ sở của Vinh, thầy tri khách siêu lòng, đồng ý thuyết phục dùm Quyên Quyên lần nữa. Lần này ni cô dứt khoát cho biết, ngày lễ xuất gia, ni cô đã phát nguyện trước Tam Bảo, là trong đời sẽ chỉ nghe và luận bàn Phật Pháp, nên rất tiếc không thể hầu chuyện với kẻ thế gian, trừ khi gặp người am hiểu Phật Pháp để bàn luận về Phật Pháp mà thôi.
Thế Vinh buồn bã lủi thủi lui gót, nhưng chưa ra khỏi cửa chàng đã quay trở lại. Vinh nghĩ học Phật đối với chàng không khó. Chàng phải hội đủ điều kiện tiên quyết này để đối diện được với Quyên Quyên, rồi sau đó, nhân việc bàn luận đạo, sẽ vạch trần những điều mê tín và sai lầm hầu thuyết phục nàng hoàn tục.

Vinh yêu cầu thầy tri khách hướng dẫn chàng học Phật. Sư Bảo Ấn là vị tăng sĩ học vấn uyên bác nên đàm luận với kẻ thông tuệ như Vinh rất tương đắc. Thầy tri khách trình bày cho Vinh những điểm đại cương, rồi trao cho Vinh Kinh Luận từ thấp đến cao để tự nghiền ngẫm. Nhờ học Phật có phương pháp, Vinh am hiểu Phật giáo thật căn bản, từ đó, quan niệm của Vinh thay đổi lần. Thái độ khinh thường chê bai Phật giáo nhường chỗ cho sự kính phục và nghiêm túc học hỏi. Nghiên cứu đến kinh Lăng Nghiêm, Vinh lại ngạc nhiên đến tột độ. Kinh bao trùm những nghĩa lý huyền bí cao diệu, văn pháp lưu loát, lý luận vững mạnh, khí thế hùng tráng...không thể tưởng tượng nổi. Ðến phần Phật giảng về Chân tâm và vọng tâm, bất thình lình, Vinh thấy có ánh sáng tràn ngập cả châu thân. Một niềm vui cao tột, lạ lùng khó tả làm thay đổi toàn vẹn con người của chàng. Chàng khám phá được rằng cái sở học trần tục bấy lâu nay chàng tự hào, chỉ là mớ kiến thức hạn hẹp lẩn quẩn chạy theo vọng tâm nông cạn. Rồi chàng dõng mãnh PHÁT BỒ ÐỀ TÂM, quyết học theo hạnh làm PHẬT, để trở về cõi chân tâm diệu minh thường hằng.
Mối sầu tình giăng giăng bỗng dưng nhẹ hẳn ra. Vinh cảm tạ thầy Bảo Ấn, và dù trong đáy lòng sâu kín Vinh vẫn mong mỏi nhìn Quyên Quyên lần chót nhưng chàng tự nghĩ mình đã hiểu đạo thì còn chạy theo giả cảnh chi nữa, nên dứt khoát rời bước.
Thế Vinh trở lên Phú Xuân(3) để phụng mệnh Chúa. Dù biết mình là kẻ mới đỗ đạt, vừa nhậm chức nếu từ quan ngay thì có thể bị gán tội khinh xuất mệnh Chúa, nhưng chí xuất gia dõng mãnh giúp Thế Vinh can đảm xin Chúa khoan hồng. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (4) là vị Chúa nhân từ, lại hâm mộ Phật giáo từ thuở nhỏ. Ngài từng ước mong xuất gia nhưng vì nghiệp Chúa ngăn trở không thi hành được, nên chẳng những thông cảm mà còn khuyến khích Thế Vinh theo đuổi lý tưởng xuất gia đầu Phật. Thương chàng tiến sĩ trẻ tuổi mà có đạo tâm, Chúa nhận Thế Vinh làm dưỡng tử, đích thân gởi chàng đến Ôn Minh Giác, chùa Linh Mụ (5) để nhờ thu nhận.
Về trụ trì chùa Kim Quang chưa đầy ba năm, đại sư Trí Thông, pháp hiệu của Phan Thế Vinh, đã nổi tiếng là bậc tam tạng pháp sư uyên bác nhất tại sứ đàng trong. Ðại sư đã sẵn có thanh thế lớn: Ðệ tử ruột của Quốc sư và là dưỡng tử của Chúa Nguyễn đương thời. Ðại sư nguyên là vị tiến sĩ tài ba, hùng biện, khéo léo, và giỏi tổ chức, nên đã biến ngôi chùa khiêm tốn trước kia, thành một tự viện nguy nga hùng vĩ nhất tại đất thần kinh. Thật ra khi đại sư được chúa yêu quí, thì quan quyền các giới cũng nối đuôi nhau " mộ đạo". Các bậc giàu sang đánh hơi được cũng ùng ùng quy y để có chỗ nương tựa. Rồi sau đó, giới bình dân cũng cuồng nhiệt thu hút đến. Dân chúng quy về đông đảo thì Chúa và quan quyền càng nể trọng sư, mà chánh quyền càng nể trọng, thì dân chúng lại càng đổ xô về nhiều hơn nữa. Cứ thế mà oai danh của đại sư Trí Thông lên ngùn ngụt. Ngôi tự viện, do đó, được khuyếch trương vĩ đại là lẽ đương nhiên.
Vừa qua khỏi cổng tam quan, khách đã thấy hiện rõ hàng chữ " Sắc tứ Kim Quang Tự" trên bảng đồng chạm nổi thật đẹp. Trước sân chùa, vườn cây kiểng vô giá, gồm những cây cổ thụ con con cắt tỉa công phu, nép mình trong những chậu kiểu cổ xưa. Thế giới được thu nhỏ lại, với hòn non bộ xinh xinh, phản ảnh đầy đủ cảnh núi non, rừng rú, biển khơi...đầy thơ mộng. Trong chùa, kèo cột toàn dùng những loài danh mộc, chạm trổ công phu, từng viên đá, từng viên gạch, từng vật dụng chưng bày đều được đích thân đại sư chọn lựa sưu tầm. Có thứ phải đặt mua từ Trung Quốc, có thứ do bàn tay thợ khéo nhất nước hoàn thành. Ðây là chuông vàng, khánh bạc, kia là lọ lục bình cổ đời Ðường, chậu cắm nhang đời Tống...Ðặc biệt nhất là tượng Phật điêu khắc linh động, biểu lộ nét trang nghiêm mà siêu thoát. Tượng Phật tuy rỗng ruột nhưng lớn bằng người thật, đúc bằng sáu ngàn lượng vàng y, tạo dựng được hoàn toàn do tài ba của đại sư. Dĩ nhiên đại sư cũng tự hào và qúi tượng Phật vàng vô cùng, nhất là, chính vì công nghiệp tạo tượng nầy, mà đại sư suýt phải bỏ mạng. Nguyên khi đại sư quyên góp gần đủ số vàng cần thiết, thì được một đại thí chủ thỉnh về Quảng Nam đăng đàn thuyết pháp. Chyến hoằng pháp đó thành công rực rỡ. Ðại sư lạc quyên thêm trên một ngàn lượng vàng nữa. Trên đường về, đại sư và người đệ tử nhỏ, chú Quảng Long, bị bọn cướp đón đường tại đèo Hải Vân làm dữ để đoạt vàng. Bọn cướp không ngờ đại sư đã cẩn thận thuê bảo tiêu chở vàng về Phú Xuân bằng đường thủy. Lỡ bộ, bọn cướp đành giữ người đệ tử làm con tin, thả đại sư về với điều kiện mang một ngàn lượng vạng chuộc mạng đệ tử. Về đến Phú Xuân, đại sư ngần ngừ không biết giải quyết sao cho phải. Vàng do Phật tử cúng dường đúc tượng Phật, đại sư không thể tự chuyên xử dụng, nhất là, ngày khởi công đúc tượng đã gần kề, không thể đình hoãn được. Rồi thì tin tức về bọn cướp cũng đến tai Chúa Nguyễn. Chúa ra lệnh cho quan quân tức thời tiêu diệt chúng. Bọn cướp tan rã dễ dàng, nhưng trước khi sa cơ, chúng nổi cơn hạ sát chú Quảng Long để trả thù. Thương đệ tử, thì đại sư chỉ có còn một phương cách là mang xác về chôn cất và cầu siêu mà thôi.
Vùng đất ven biển chạy dài theo dãi Trường Sơn, đất đai đã cằn cỗi, mà nạn lụt lội thường xảy ra. Mùa đông năm Canh Thìn, cơn bão dữ dội lại tàn phá vùng ven biển. Trung tâm bão hướng về Quảng Nam, song Thuận Hóa vẫn bị ảnh hưởng, dù tương đối nhẹ hơn. Tuy nhiên, tại Phú Xuân, mưa vẫn dầm dề không ngớt và gió thì gào thét ghê rợn, nước tràn ngập cuốn phăng hoa màu, nhà cửa đồng bào. Nạn nhân: kẻ chết, người sống trong cảnh màn trời chiếu đất, cũng không phải là ít. Nạn đói rồi chắc chắn sẽ xảy ra.
Kim Quang Tự, tuy rất an toàn vì xây dựng trên nền mống vững chắc, nhưng đại sư Trí Thông vẫn trằn trọc không yên. Ðại sư đích thân đôn đốc tăng chúng chia phiên nhau canh giữ, đề phòng mọi bất trắc. Sau mấy ngày nổi cơn thịnh nộ, gió dịu dần rồi hết hẳn. Nhìn ngôi chùa nguyên vẹn khang trang vươn mình đón ánh nắng ban mai, đại sư Trí Thông cảm thấy sung sướng làm sao. Giờ thì đại sư có thể yên tâm soạn thảo chương trình Phật sự quy mô sắp tới. Người thị giả bỗng gõ cửa báo tin có ni cô Bảo Tường, xin diện kiến. Ðang bận rộn, không muốn mất thì giờ vô ích, đại sư dự định từ chối, nhưng nghe pháp danh quen quen, nên đại sư ra lệnh mời vào.
Vừa thoáng thấy ni cô, đại sư bỗng giựt mình sửng sốt. Ni cô chính là Quyên Quyên ngày trước. Xa nhau đã hơn tám năm, ni cô độ chừng 25 tuổi, tuổi nẩy nở toàn vẹn, nên tuy vận áo nâu sòng mà vẻ đẹp lại rực rỡ hơn xưa. Mối tình sâu đậm vùi chôn trong đống tro tàn dĩ vãng, bỗng dưng bừng dậy mãnh liệt. Ðại sư ấp úng:
- Quyên Quyên ! Quyên Quyên !
- Tiểu ni pháp danh Bảo Tường. Xin kính chào đại sư tiến sĩ !
Trí Thông lấy lại được bình tĩnh, sư mỉm cười hân hoan:
- Thôi mà cô Bảo Tường ! Danh vị tiến sĩ hư ảo kia mà cô vẫn còn nhớ hay sao ?
- Dĩ nhiên là phải nhớ ! Thầy tri khách đã căn dặn phải tôn xưng đại danh là " tiến sĩ đại sư" thì mới được tiếp kiến.

Lời nói thẳng thắn của sư cô làm sư Trí Thông đỏ mặt. Thật ra, khi phát nguyện xuất gia, đại sư đã khinh thị danh hiệu hư vị tiến sĩ hư ảo như cỏ rác. Thế nhưng, người đời lại coi hành vi buông bỏ công danh là trọng, nên thường nhắc nhở tán tụng. Ðại sư ngăn cản thế nào cũng không chấm dứt được. Ðến khi có người đệ tử thương thầy quá, tán tụng thầy là vị tiến sĩ đại sư, thì mọi người toa rập nhau gọi theo. Lúc đầu, đại sư cũng hơi khó chịu, nhưng nghe mãi quen dần thì đâm ra ưa thích. Bây giờ, nếu có người nào thưa hỏi mà thiếu danh vị tiến sĩ, thì đại sư không mấy hài lòng. Bọn đệ tử biết bụng dạ thầy, dặn dò khách rập khuôn theo mà nịnh bợ. Sự kiện đó, đến nay đại sư mới hiểu rõ, nên có phần xấu hổ. Ðại sư đành phải làm lơ, hướng câu chuyện sang đề tài tương lai đạo pháp và xây dựng tự viện, mà quên lửng không hỏi lý do viếng thăm của ni cô. Ni cô chính là nguyên nhân đã khiến đại sư phát đại nguyện xuất gia, ngày nay, ni cô hiện diện đúng lúc để chứng kiến thành công vượt bực của sư, nên sư cao hứng thao thao bất tuyệt. Sư hướng dẫn ni cô đi xem chùa, giải thích cặn kẽ từng khía cạnh đặc thù của lề lối kiến trúc, nét sắc sảo điêu khắc, trị giá của các chậu, bình...cổ kính. Sau cùng, đại sư hãnh diện trình bày công trình to lớn để hoàn thành việc đúc pho tượng Phật bằng vàng y, trị giá trên sáu ngàn lượng.
Bấy giờ, ni cô mới điềm đạm lên tiếng :
-Thưa đại sư ! Tiểu ni đến đây vì có tâm nguyện mong cầu đại sư giúp đỡ...
- Ni cô yên tâm. Chuyện khó khăn thế nào, thì ta cũng làm sao cho sư cô vui lòng.
-Không dám ! Thưa đại sư ! Bão lụt phá hoại mùa màng. Dân chúng đói rách rất là khổ sở. Tiểu ni kính xin đại sư mở lượng từ bi đóng góp phần nào cho qũy cứu trợ...
- Ta sẽ kêu gọi Phật tử bổn tự góp công sức vào việc phước thiện đó !
- Thưa đại sư ! Việc lạc quyên trong lúc này tiến hành rất chậm. Dám nào ! Xin đại sư đổi tượng Phật thành sáu ngàn lượng vàng để đem đi cứu đói, thì công đúc thật vô lượng !
- Ôi ! Sao ni cô lại bạo gan xúi giục ta làm việc phạm thượng tội lỗi, là bán tượng Phật như vậy ?
-Tượng Phật chỉ có tính cách tượng trưng, thì tượng đá, cây hay vàng đều giá trị như nhau. Vả chăng, tâm nguyện của chư Phật là đại từ bi cứu khổ chúng sanh, nếu đại sư đổi tượng thành thực phẩm cứu trợ dân, tức là hành theo tâm nguyện của chư Phật. Tiểu ni không có điều gì gọi là phạm thượng cả.
Ðề nghị lạ lùng của ni cô làm sư Trí Thông ngớ ngẩn. Cả đời đại sư, đại sư đã tận lực lo cho chùa, lo đúc tượng Phật vàng đó. Ðại sư thương từng viên gạch, từng viên đá, từng cái kèo, cái cột..., không bao giờ có ý nghĩ là sẽ xa rời, sẽ mất mát..., huống chi là có ý nghĩ bán pho tượng bảo vật, càng suy nghĩ, sư càng thấy thương yêu không rời bỏ được. Tượng Phật đó đại sư coi như hơi thở, như mạng sống của mình... nên đại sư phải tận lực bảo vệ. Cho nên, dù là nàng, là Quyên Quyên, mà tình yêu vẫn vương vấn khôn nguôi, đại sư vẫn không đánh đổi pho tượng được. Ðại sư cất tiếng la, thảng thốt như tiếng hét thất thanh của người chết đuối:
- Không! Không thế nào được !
- Tiểu ni hiểu là đại sư đã dính mắc sâu đậm ngôi chùa nầy, với tượng Phật nầy, không thể nào xả bỏ được. Giờ này! Dầu đức Phật Di Ðà có đích thân đón rước đại sư về cõi Tây Phương Cực Lạc, chắc đại sư cũng từ chối. Ðại sư nhất quyết ở lại để ôm giữ ngôi chùa và pho tượng mà thôi.
Giọng nói của ni cô Bảo Tường nhỏ nhẹ, mà đại sư nghe như tiếng gầm thét bên tai. Ðại sư lặng người thấy ni cô từ giã ra đi, mà không biết dùng lời lẽ gì để cầm khách lại. Sư lẩm bẩm một mình: " Có thật là mình đã tham nhiễm, quyến luyến như vậy sao? Mình đã bám víu an hưởng cái CÓ hời hợt như kẻ thế tục chăng?". Có tiếng thằn lằn não nuột chắc lưỡi làm đại sư rùng mình. Nỗi sợ hãi mông mênh xâm chiếm. Ðại sư lại nghĩ: " Mình tham đắm chẳng rời, nếu chết lúc này, thì chắc không thể nào siêu thoát được, bất quá, cũng như con thằn lằn kia, bò lang thang quanh chùa, nhìn từng viên gạch, từng viên đá... để mà chắc lưỡi tiếc thương...".
Cảm thấy muôn vàn hổ thẹn, đại sư vào tăng phòng đóng kín cửa để tự quán sát sự diễn biến của tâm mình trong thời gian gần đây.
Ngày sư được Chúa thượng vời về Kim Quang tự, tâm của sư trong trắng, luôn luôn tâm niệm trau dồi đức hạnh để hoằng dương Phật Pháp. Sư được Chúa thương yêu, rồi bao kẻ đua nhau chạy theo nịnh bợ tâng bốc thổi phồng sư lên mây. Lúc đầu, sư dè dặt không để những lời thuận tai đó vào tâm, nhưng lần lần sư bị sa lầy. Sư tin tưởng sư chính là bậc tu hành đạo cao đức trọng, một " đệ nhất danh tăng" kim cổ nước Việt. Từ đó, sự cuồng ngạo mống niệm một kế hoạch tái thiết Kim Quang tự thành ngôi đệ nhất tự viện tại xứ đàng trong (6). Thế rồi, sư lẩn quẩn trong đầu ý nghĩ kiếm tiền, gom góp cho thật nhiều tiền. Sư nhìn ai, nhìn vấn đề gì, cũng chỉ thấy khía cạnh tiền. Sư đánh giá Phật tử, kính trọng, ghét bỏ cũng trên căn bản đó. Ðôi khi, nếu phải xử dụng mánh khóe hay lợi dụng chút y quyền của Chúa, để có tiền lo cho chùa, thì sư cũng không từ nan. Sư vẫn thuyết pháp, vẫn dạy đạo...để ai tu thời tu, còn phần sư, dường như...sư không tu. Sư chỉ coi đó là một bình phong để thu góp tiền cho chùa. Thế thôi.
Trời bắt đầu tối hẳn. Sư lẻn ra ngoài lủi thủi đi theo con đường làng, ngoái lại nhìn ngôi chùa khang trang, sư càng hổ thẹn về đạo đức rỗng tuếch của mình. Trời trong và đẹp. Vầng trăng non vừa đủ sáng để soi rọi cảnh tang thương mà trận bão tàn ác đã dày xéo xóm làng. Rải rác, vài đám lúa tơ mới cấy bị nước cuốn trôi, năm ba cây to trốc gốc, và cành lá thì rơi rụng khắp nơi. Mười căn nhà dân bị cuồng phong cuốn mất. Không biết số phận nạn nhân đói rách như thế nào? Lòng sư bỗng tràn ngập tình thương. Mấy hôm trước, sư đã nghe báo cáo về thiệt hại nầy, mà sao lúc đó lòng sư dửng dưng bất động.
Sư tiếp tục rảo bước, cảnh chùa Di Ðà ở đầu làng Vạn Xuân bị đổ nát làm sư chạnh lòng. Chùa Di Ðà do sư Thiện Quang trụ trì. Thiện Quang là vị tu sĩ có tư cách, nhưng có khuyết điểm là quá thẳng thắn thành ra vụng về. Thầy không vồn vã, không chìu ý, không khen nịnh đệ tử...thành ra Phật tử thưa dần. Kịp đến khi sư Trí Thông về Kim Quang tự, sư đã trăm phương nghìn kế để thu Phật tử về một mối, thành thử chùa Di Ðà càng xác xơ. Chùa nghèo đến nỗi không tiền sửa sang, cột kèo đã mục nát, thì làm sao chống chỏi nổi với cơn giông bão. Bấy giờ, sư Trí Thông mới thầm trách mình: ©! Ta vốn dạy đệ tử người giàu phải biết thương yêu giúp đỡ kẻ nghèo, mà có bao giờ ta nghĩ đến chùa giàu nên giúp đỡ chùa nghèo đâu? Ôi! Ta vốn kính trọng thầy Thiện Quang, mà khi lập chùa gần nhau, thì lòng ta ngấm ngầm có mầm mống cạnh tranh, chỉ mong cho chùa "đối thủ" chóng hoang tàn sụp đổ...
Trí Thông miên man suy nghĩ đi lần đến bò sông Lô Dung(7). Làn gió mát làm sư tỉnh hẳn lại. Xa xa, ngôi chùa Linh Mụ trầm lặng ẩn hiện sau hàng cau. Sư muốn được quì dưới chân thầy để cầu xin sám hối. Thầy cũng lo cho chùa, cho đạo mà đạo hạnh thầy cao ngất, còn ta thì bị cuốn lôi theo tham vọng nên đạo đức mỏi mòn. Rồi bỗng nhiên, Trí Thông nhớ lại từng chi tiết câu chuyện ngộ đạo của vị sơ tổ chùa Linh Mụ ngày xưa:
"Tổ sư họ Cao, quán Phong Ðiền, Thuận Hóa. Thuở nhỏ, tổ đã không chịu dùng thịt cá, dù bị cha mẹ ép uổng. Một hôm, theo mẹ lễ Phật, khóa lễ kéo dài mà bà cụ cứ nấn ná lo công quả trễ nãi, cậu bé buồn ngủ quá. Cậu bèn đến bàn Phật, gõ mấy tiếng chuông thật lớn. Bị trách mắng thì cậu bé đáp:"Con mê, nên phải nhờ chuông để cảnh tỉnh". Thiền sư Chí Thiện gặp được pháp khí, nên nhận làm đệ tử, và nhân câu chuyện gõ chuông, đã đặt pháp danh là Cảnh Chung. Cảnh Chung theo hầu thầy 10 năm, khi thầy liễu đạo, liền lên núi Ðông Ngãi, hang đá Thảng Lai, ẩn cư với pháp hiệu Vô Sự chân nhân, để chuyên tu thiền định. Chân nhân sống giản dị, hái cây trái và lá rừng làm thực phẩm. Chân nhân ngồi thiền liên tục hàng nửa tháng, khi xả thiền, các loài chim lạ vần vũ quanh sư hát vang lừng như chào mừng đón nhận từ bi tâm của sư truyền cho. Những người thợ săn vô tình chứng kiến cảnh đó, hâm mộ, lạy xin chân nhân nhận làm đệ tử. Chân nhân bắt đầu giảng dạy họ Phật Pháp, rồi khuyên giải họ xa lánh nghiệp sát sanh hại vật. Danh tiếng của sư lan rộng dần, chẳng bao lâu, nhân dân các châu huyện gần xa, đều quy ngưỡng về sư.
Lúc bấy giờ, khi Nguyễn Uông vừa bị anh rể là Trịnh Kiểm ám hại, Nguyễn Hoàng vội vã cầu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm diệu kế bảo toàn tánh mạng, được phán dạy: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Hiểu ý, Nguyễn Hoàng âm thầm vận động xin về trấn thủ Thuận Hoá. Trước khi đi trấn nhậm, Nguyễn Hoàng lại bái kiến Trạng lần nữa để cầu cẩm nang an dân trị nước. Lần này, Trạng Trình ngâm nga:
"Lòng vô sự, trăng in nước.
Của thảng lai, gió thổi hoa." (8)
Hai câu thơ mang phong thái thiền dùng làm sách kế an dân có phần khó hiểu, nhưng Nguyễn Hoàng ôm ấp như sấm ký, chờ đến phút linh ứng mà xử dụng.

Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 135
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com