| Chỉ mục bài viết |
|---|
| Thành Toàn |
| Trang 2 |
| Tất cả các trang |
Thuận Hoá và các vùng đất đai mới khai phá, lòng dân chưa định. Những kẻ tiền phong dựng nước phương nam, tính khí vốn ngang tàng khó uốn nắn. Họ khao khát tự do và vượt thoát khỏi sự ràng buộc cuả phép Vua luật nước. Vả chăng, dòng họ Nguyễn đối với dân cũng xa lạ, do đó, tâm nguyện thu phục nhân tâm của Nguyễn Hoàng gặp nhiều trở ngại. Chúa lo lắng cải tổ hành chánh địa phương, chăm sóc thương yêu dân, mà tình hình cũng không cải thiện. Vì vậy, Chúa thường rời dinh cơ tại Ái Tử, để giả dạng đi đó đây dò xét dân tình. Một hôm, Chúa đi hành dọc sông Lô Dung, lên đến khúc sông uốn cong như rồng lượn bao phủ một quả đồi xinh xinh, thì dừng lại trên đồi. Tại đây, Chúa gặp một bà cụ già mặc áo đỏ, phong thái trang nhã thần tiên, tự xưng là Liễu Huệ công chúa, căn dặn: "Ðây là huyệt đất đã hội tụ đủ linh khí, nhưng phải xây dựng ngôi chùa, mời cho được Vô Sự chân nhân về trụ trì, thì sự nghiệp mới bền vững". Dứt lời, bà cụ biến mất. Lời dạy của bậc thần tiên, suy ra phù hợp với cẩm nang Trạng Trình, khiến Chúa vô cùng phấn khởi. Chúa liền cho khởi công xây cất ngôi tự viện trên đồi Kim Long, đặt tên là LINH MỤ, Nghiã là Cụ bà linh thiêng, rồi đích thân lên động Thảng Lai, núi Ðông Ngãi, dùng lễ cầu hiền để thỉnh Vô Sự chân nhân về trụ trì.
Theo lời khuyên của chân nhân, dựa vào Phật giáo để liên kết nhân tâm tạo sức mạnh tinh thần dân tộc, Chúa thực thi kế sách nhân dân đến đâu, chùa chiền đến đó, nhiên hậu khi mọi việc ổn định, mới hình thành chính quyền địa phương. Từ đó, nhân tâm được thu phục lần lần, tạo nên khí thế hùng mạnh cho xứ đàng trong. Chúa Nguyễn Hoàng đối xử với chân nhân cực kỳ cung kính. Chúa thường đến chùa học đạo hoặc thỉnh ý chân nhân về những vấn đề hệ trọng, và thường thân mật gọi chân nhân là SƯ ÔNG LINH MỤ. Quân dân bắt chước, nhưng gọi trại đi thành Ôn Linh Mụ, chữ Ôn phát sinh từ đó.
Vô sự chân nhân, nguyên là một sơn tăng không thích ràng buộc bởi lễ nghi phiền phức. Từ ngày bất đắc dĩ hạ sơn nắm giềng mối đạo, để rồi bị mọi người, từ Chúa Thượng cho đến thứ dân cung kính suy tôn, là việc trái lòng. Do đó, chân nhân vẫn giữ nếp sống thanh đạm cũ, cũng như thời dụng biểu thiền quán cũ. Pháp môn thiền của chân nhân đặt căn bản trên kinh An ban thủ ý (9), nên rất giản dị: "Khi thở vào hành giả biết mình đang thở vào, khi thở ra hành giả biết mình thở ra", nói khác, khi nghe người tâng bốc hành giả biết mình đang nghe người tâng bốc, và chính vì vậy nên chân nhân luôn luôn tỉnh thức. Chiều chiều, chân nhân thường đi thiền hành một mình dọc theo bờ sông, những lúc đó, chân nhân không bị ngoại cảnh chi phối, nên cảm thấy thật thảnh thơi, an lạc. Chân nhân bước từng bước thanh thản, đi để mà đi chớ không phải đi để mà tới (10), thích dừng thì dừng... Yên lặng trong tỉnh thức. Một hôm, chân nhân đi xa hơn thường lệ, dừng chân nhìn giòng sông. Nước trong, êm ả và nhẹ. Giòng sông nầy, thuở nhỏ chân nhân đã từng lặn hụp, giờ phút hồn nhiên đó rất tuyệt diệu. Bốn bề thanh vắng gợi chân nhân thú tắm sông. Chân nhân cởi đồ rồi thoải mái trầm mình trong nước mát. Giòng nước xoa nhẹ làn da như cuốn trôi đi hết bụi trần, bụi chùa bám trên người sư. Chân nhân khoan khoái thở thật sâu và hụp đầu xuống nước. Khi chân nhân ngoi đầu lên, thì có tiếng trẻ nít la to:
-Ấy chết! Coi chừng ông trọc đầu nớ!
Bấy lâu nay tai của chân nhân bị bắt buộc phải nghe toàn là những lời cung kính hoa mỹ: Bẩm đại lão hòa thượng, Kính trình Ôn, Thỉnh nguyện, Thỉnh cầu, Chúng con đê đầu đảnh lễ..., thật là nhàm chán. Nay chân nhân mới được gọi một cách hồn nhiên là ông trọc đầu, điều đó khiến chân nhân vô cùng sảng khoái. Chân nhân quay đầu nhìn lại. Té ra đó là hai chú tiểu, lén cắp xuồng ra chốn vắng vẻ để đùa giỡn, mà lại còn lớn gan gọi Ôn là lão trọc đầu. Hai chú sợ điếng người, cuống quít xá lia, miệng lắp bắp chẳng nên lời, suýt rơi tòm xuống nước. Chân nhân thương quá lên tiếng:
- Cái thằng ni lạ quá! Tao trọc đầu, mi gọi tao trọc đầu là đúng quá rồi! Có chi mô mà mi sợ hãi như rứa?
Chân nhân thốt lời đó trong một tâm trạng an lạc, không mảy may dính mắc ràng buộc gì với lễ nghi phiền phức của xã hội câu nệ. Và trong giây phút hồn nhiên đó, bỗng dưng chân nhân hoát nhiên đại ngộ".
( Chư thiền sư, khi công phu viên mãn, thì đôi khi chỉ cần nghe tiếng chim hót, tiếng lá rơi....làm trợ duyên mà ngộ đạo. Sơ tổ Linh Mụ, sau hơn 50 năm nghiêm trì tu tập, tâm đã rỗng rang không trở ngại, nên nghe tiếng hồn nhiên của trẻ, mà đại ngộ cũng là việc bình thường )
Câu chuyện sơ tổ giúp sư Trí Thông định hướng cho nếp sống tu hành. Lòng đã chủ định nên sư bình thản trở về Kim Quang tự. Sư soạn thảo một bức thơ dài viết cho bổn sư, Ôn Linh Mụ. Trong thơ, sư thú nhận rằng bấy lâu không nghiêm túc tu trì, thả lỏng tâm quay cuồng theo danh lợi hư hỏng mà không hay. May nhờ thiện tri thức nhắc nhở mới hồi tỉnh. Do đó, sư quyết định xin từ bỏ chức vị trụ trì Kim Quang tự, để theo hạnh khổ đầu đà hoằng hoá phương Nam, hầu xám hối lỗi lầm. Thứ đến sư thỉnh cầu bổn sư đứng ra đem pho tượng vàng thanh toán để lấy tiền cúng dường cho nạn nhân bão lụt. Ngoài ra, cũng xin bổn sư giải quyết những việc cần thiết trong đó có việc chọn lựa vị tân trụ trì cho Kim Quang tự. Viết xong, sư hướng về chùa Linh Mụ, lạy từ tạ thầy rồi giao thơ cho thị giả mang đi. Ðoạn, sư âm thầm rời chùa, chỉ mang theo một bình bát, một tay nải đựng hai y hậu tầm thường, bộ kinh Lăng Nghiêm cùng vài món hành trang lặt vặt của một du tăng khất sĩ.
Trước sự thay đổi nếp sống đột ngột, từ một vị trụ trì tôn kính lắm kẻ cung phụng, thành một khổ đầu đà lang bạt sư Trí Thông cũng gặp những khó khăn lúc đầu. Tuy nhiên, sự yếu đuối thể xác dễ dàng khuất phục bởi sức mạnh tinh thần, được củng cố bằng pháp môn hành trì buông bỏ, không dính mắc như vị sơ tổ Linh Mụ, nên sư cảm thấy an lạc. Niềm an lạc mà trước kia, khi bận rộn với ngôi vị trụ trì, sư không bao giờ hưởng được.
Sư thường chọn những con đường làng vắng vẻ, tránh qua lại khu phố ồn ào. Ði khoan thai từng bước: Ði để mà đi chớ không phải để mà tới, cũng như, tu để mà tu chớ không nhằm đắc đạo. Thở ra sư biết mình thở ra. Thở vào sư biết mình thở vào. Bước chân thanh thản, êm ái, trân qúi đặt vững vàng trên mặt đất thương yêu, như đang đi trên tịnh độ. Sư ngủ ở đình, míu hoang, góc cay, mái hiên nhà..., và thọ thực thất thường tùy tầm hỹ cúng của đồng bào phật tử. Xóm làng nào thuận duyên, sư lưu lại đôi ngày hay vài tuần, tùy nghi giảng Pháp sống thực và đơn sơ. Sư đến với họ như người bạn đồng hành trên con đường tu tập hơn là vị thầy xa cách. Sư có thể ngồi đan thúng, dệt chiếu... hay đi mót lúa với đồng bào rồi tùy cơ giảng đạo. Sư cũng có thể làm vú em, chơi đùa hồn nhiên với trể con, để dạy chúng câu thơ, bài ca dao nhẹ nhàng đạo vị. Mà thật ra, sư cũng không nhất thiết phải mở lời. Sư hiện hữu của sư cạnh những người dân chất phác, nụ cười, dáng điệu, tư cách của sư... có cái gì gần gũi, ấm áp khiến cho họ tự nhiên thương mến đạo.
Càng đi lần về phương Nam, hệ thống chùa chiền càng khiếm khuyết về phẩm lẫn lượng. Chùa chỉ tập trung tại Gia Ðịnh thành và vài thị trấn lớn, còn vùng xa xôi thì hầu như vắng bóng. Nhu cầu hoằng pháp đôi khi đòi hỏi sự dừng chân một thời gian dài, và nếu hợp duyên sư cũng đứng ra tạo dựng một ngôi chùa làng xinh xắn. Dân quê dốt nát, nên sư chỉ hướng dẫn họ giáo lý đơn giản và thực tiển, như tam quy ngũ giới, tu tâm dưỡng tánh, tránh ác hành thiện mà thôi. Ðiều đó rất hợp với sư, vì từ lâu, khi hành hạnh khổ đầu đà, sư chỉ chuyên tâm quán niệm hơi thở, còn cải sở học bao la huyền đàm sư không còn nhớ đến nữa. Dĩ nhiên, sư cũng truyên cành công phu, nhưng đọc tụng kinh điển, sư tụng để mà tụng, để tự nhiên cho kinh thẩm thấu trực nhận, chớ không dùng lý trí xét đoán, hay suy luận tìm hiểu như xưa nữa. Khi ngôi chùa thành lập đã có cơ sở vững chắc, sư đến các đại tòng lâm, thỉnh một vị đạo đức tăng để giao ngôi chùa, hầu tiếp tục tâm nguyện một khổ đầu đà. Cứ thế mà trong thời gian hơn hai mươi năm, sư đã lần lượt tạo dựng được 9 ngôi chùa làng tại khắp vùng Vàm Cỏ và Tiền Giang.
Sư lại xuôi về miền Hậu Giang. Mùa thu năm Giáp Thìn, một trận lụt mà lúc khởi đầu có vẻ chỉ là chuyện ngập nước bình thường, lại biến thành tai họa thảm khốc. Nguyên hàng năm, vào mùa nước nổi, sông Cửu Long dâng cao tràn ngập ruộng đồng, đường xá, chợ búa. Dân chúng theo lệ, ở nhà sàn hay đắp nền nhà cao vừa phải, nước có dâng cao khỏi nền nhà chăng nữa, thì cũng chịu đựng vài ngày thì lại từ từ rút xuống. Nhưng đến năm Bính Thìn, nước dâng lên mãi đến độ bất ngờ, và vì không chuẩn bị nên có kẻ khi thấy nguy hiểm, muốn di tản thì đã muộn, đành đeo mái nhà chờ chết. Sư liền vận động những đàn ghe cấp cứu người sống sót đem về những giòng đất cao tạm trú. Riêng những xác thây ma trôi phập phều, sư cũng đích thân vớt về. Và vì lý do nước ngập không thể đào huyệt, sư kết bè làm một bãi tha ma nổi, chờ nước rút rồi mới chôn cất. Cứu lụt xong, sư lại lên đuờng. Một hôm, hành hóa tại trấn Kiên Giang, vô tình sư khám phá đuợc một ngôi chùa lá hoang vắng nhỏ bé, nằm lẻ loi ở đầu xóm Vĩnh Hiệp. Trước cửa có treo biển đề " Vô Môn Tự", mà nét chữ nguệch ngoạc đã lu mờ. Chùa vắng người, nhưng cũng không đến nỗi lạnh lẽo. Có lẽ, tuy không có người ở thường trực, nhưng cũng có thiện tín đến chùa đốt nhang, lễ Phật. Tượng Phật bằng đất, đắp vụng về, vừa thiếu cân xứng, vừa làm gương mặt kém từ bi. Thật tiếc! Sư thầm nghĩ, rồi sư liên tưởng đến tượng Phật vàng Kim Quang Tự. Tượng Phật vàng như vết thương đã lành, mà sẹo vẫn còn, nên dù trên 24 năm qua, sư hành pháp buông bỏ, mà vẫn gợi nhớ khi vô tình thấy một pho tượng kém mỹ thuật. Như thường lệ, sư quán niệm câu kinh Kim Cang "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai" để đối trị.(11)
Mây đen vần vũ từ lúc nào, mà mưa nặng hột rơi ào ào trên mái lá. Mái chùa mục nát. Nước dột vài nơi. Trước mặt sư, một dòng nước to bỗng rơi thẳng xuống tượng Phật. Ðất bị thấm nước rả dần đi. Chứng kiến cảnh tượng Phật bị hư hoại, bất giác, sư nhớ đến bài pháp của tổ Triệu Châu:
"Ðừng để Phật đồng vào lò, đừng để Phật gỗ vào lửa, đừng để Phật đất vào nước. Phật thứ thiệt ngồi ở bên trong. Bồ đề và niết bàn, Chân như và Phật tánh, tất cả là chiếc áo ngoài buộc siết thân thể. Chúng được coi như là phiền não..."
Sư bỗng nhiên lặng người, thân tâm biến mất, chỉ thấy trước mặt mình hiển hiện một khối duy nhất quang minh chiếu diệu lung linh tuyệt vời. Một thoáng sau kinh nghiệm đó sư bừng tỉnh lại nhìn tượng Phật thì thấy tượng đã trở thành một đống đất khô nứt nẻ. Té ra một thoáng của cơn đại định, là đã mấy ngày trôi qua rồi.
Sư quyết định dừng lại nơi nầy. Hàng ngày sư đọc tụng kinh Lăng Nghiêm để kiểm chứng sở đắc mình, đồng thời, bắt đầu thăm nom săn sóc đám dân chài. Những kẻ sinh nhai về nghề biển, làm việc nhọc nhằn và thập phần nguy hiểm nhưng thu hoạch tương đối khá cao. Sau chuyến đi mươi ngày họ có thể nghỉ ngơi cả tháng. Ðó là thời gian cờ bạc, rượu chè ... để rồi gây chuyện chửi bới, hục hặc nhau suốt năm. Giáo hóa họ đạo lý là việc khó khăn, đó cũng là nguyên nhân khiến vị sư kiến tạo ngôi chùa ngày trước đã thất vọng bỏ đi.
Tuy nhiên đạo đức của sư Trí Thông đã cảm hóa họ nhanh chóng. Thú cờ bạc, rượu chè bừa bãi giảm dần. Nhận thấy nghiệp sát sanh của họ quá nặng, sư khởi xướng phong trào ăn chay tập thể. Nhà chùa nấu cơm chay sẵn rồi khuyến khích Phật tử quây quần ăn chung. Lúc đầu, sư tổ chức mỗi tháng một ngày, rồi tăng dần đến mười ngày. Số Phật tử tham gia ngày càng đông, nên sư cần những cái nồi thật to. Một khách thương hồ chuyên buôn bán nồi tại vùng Sóc Soài, đặt một chiếc nồi đặc biệt to như một cái lu, nhưng thấp hơn, để cúng dường cho sư. Nồi quá lớn, không có dịp xử dụng, nên sư để ở mái hiên trước chùa, hứng nước mưa. Trẻ con gọi chiếc nồi đó là " nồi Ông", và cũng có đứa gọi là ®g nồi". Từ đó, dân chúng thích gọi chùa của sư là chùa Ông Nồi, cái tên nôm na dễ nhớ và gần gũi với họ.
Vào một đêm trăng tròn tháng chạp năm Mậu Thân, sau phần công phu, chú khu ô sa di (12) Quảng Hiền đã chuẩn bị giờ chỉ tịnh, thì có tiếng quân lính rầm rộ la hò bao vây khu xóm như đang lùng bắt kẻ trọng phạm.
Một người trẻ tuổi, hoảng hốt phóng chạy vào chùa, vừa thấy sư Trí Thông đã vội vàng quì xuống cầu xin cứu giúp. Sư bình tĩnh bảo khách nằm gọn trong chiếc "nồi ông", đậy nắp lại. Sau đó, sư ngồi thiền như thường lệ. Toán lính tràn vào chùa lục soát, chỉ thấy một vị sư già ngồi thiền và một em bé nằm ngủ. Chùa trống trải không có nơi nào ẩn nấp, và cũng không thấy điều chi nghi ngờ, nên toán quân lính trở ra, lùng kiếm nơi khác.
Khi những tiếng la ó của quân lính nhỏ dần, sư Trí Thông, dở nắp nồi lên, gọi nhỏ:
- Nguyễn công tử. Mọi việc đã yên ổn. Xin công tử an tâm bước ra.
- Nhà ngươi...À ! Sư cũng biết ta sao?
- Dạ biết ! Ngài chính là Chúa Nguyễn Phúc...
Sư Trí Thông chưa nói hết câu thì mũi kiếm từ tay người khách trẻ đã đâm thẳng vào ngực sư. Sư ngã quỵ xuống, máu ra thành vòi. Người tuổi trẻ, thật ra, tâm địa không đến nỗi quá ác độc. Y chỉ có khuyết điểm là xem ngôi Vua quá trọng, nên hy sinh tình nghĩa. Vì ngai vàng ám ảnh nên đa nghi quá đáng, thủ hạ trung thành như Ðỗ Thành Nhơn mà vẫn đang tâm hạ độc thủ, huống chi sư chỉ là kẻ xa lạ. Ðang cơn nguy khốn, Chúa lo sợ tông tích bị tiết lộ, nên hạ sát người bịt miệng như một phản ứng tự vệ mà thôi. Hành động xong, nhìn thấy vị sư già hấp hối, lòng Chúa hơi rung động, nên Chúa ngần ngừ chưa vội chạy đi.
- Quảng Long! Quảng Long! Ta thật cảm ơn con đã thành toàn cho ta.
Ðoạn sư ngoắt Chúa lại gần, cố gắng nói tiếp:
- Công tử hãy chạy về hướng biển, đến căn nhà tận cùng, tìm cho được đệ tử ta là Trần Trung để nhờ chở ra khơi thì mới mong thoát nạn.
Nghe lời chỉ dẫn, Chúa vui mừng gật đầu rồi chạy biến đi.
Chú tiểu thức giấc từ lâu, mục kích nội vụ run sợ im thin thít trên chõng tre, giờ mới loi ngoi chạy đến bên thầy, khóc thút thít.
Sư nắm tay đệ tử, thương yêu dặn dò:
- Sanh tử là việc thường, cớ sao con lại khóc? Nghiệp quả trả xong, thầy rất an lòng đã thành toàn tâm nguyện.
Sư đã yếu lắm rồi, âm thanh nhỏ mà vẫn rõ ràng. Sư cố gắng móc túi lấy một phong thơ viết sẵn đưa đệ tử, nói tiếp:
- Con hãy tìm đến pháp huynh ta là sư cụ Vĩnh Tràng tại Ðịnh Tường để tiếp tục học đạo.
Chú Quảng Hiền thương thầy quá. Té ra thầy biết sẽ gặp tai kiếp, và đã chu đáo sắp xếp tương lai cho chú. Cảm động chú lại ồ lên khóc nức nở.
- Con nên cười lên và niệm chú vãng sanh với thầy nghen con !
Sư niệm chú vãng sanh. Tiếng của sư nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt hẳn, mà gương mặt tươi nhuận vẫn như còn phảng phất nụ cười.
Chúa Nguyễn được Trần Trung đưa đi lánh nạn tại các hòn đảo Lõi Sơn, Củ Tron, Nghệ..., rồi sang Xiêm La cầu viện. Câu chuyện thoát hiểm được tô điểm lại, theo đó Chúa ẩn thân trống trải sau một pho tượng tại ngôi chùa nhỏ thộc trấn Kiên Giang, nhưng nhờ "chân mệnh đế vương", được Phật Trời phù hộ, nên giặc Tây Sơn lục tìm mãi vẫn không thấy. Câu chuyện biến thành huyền thoại được nhân dân miền Tây tin tưởng, nên mặc dầu, lực lượng của Chúa bị đánh tan rã nhiều lần, Chúa vẫn tái lập và phục hồi nhanh chóng. Không bao lâu, đến năm Nhâm Tuất Chúa khôi phục giang sơn, tự xưng là Vua, đổi tên nước là Ðại Nam. Vua là người ân oán phân minh, nên một mặt đào mồ cuốc mả kẻ thù, và mặt khác ban bố lợi lộc chỗ có ân. Không nhớ đích xác ngôi chùa thoát hiểm, Vua ban sắc tứ cho tất cả các chùa thộc thị trấn Kiên Giang, và ra lệnh xuất công khố tu bổ những chùa nầy. Hai ngôi chùa Thập Phương và Tam Bảo (13), nhờ vậy, được sắc tứ và kiến thiết trở thành hai ngôi chùa cổ khang trang nhất tại miền Tây.
Trong thời gian nầy, chùa Ông Nồi đã hư hoại nên không được hưởng ân Vua. Mãi đến mười năm sau, tỳ kheo Quảng Hiền tu học về, thương nhớ thầy nên tái dựng lại ngôi chùa cũ. Thầy cũng theo truyền thống của sư phụ, là nấu cơm chùa cho những đồng bào nghèo ꮠchùa", nên mặc dầu chiếc "Nồi Ông" đã bị hư nát, mà đến nay người dân vẫn quen gọi ngôi chùa là Chùa Ông Nồi, như 200 năm về trước.
Tháng 11, 1988
Huỳnh Trung Chánh
GHI CHÚ:
(1) Nguyên tác bài Ðường thi của Thôi Hộ:
Khứ niên, kim nhật, thử môn trung
Giả ngoại, đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong.
Tạm dịch:
Tại đây, năm ấy, ngày nầy
Hoa đào, người đẹp hây hây má hồng
Hoa đào vẫn cợt gió đông
Mà nay chẳng biết bóng hồng nơi nao?
(2) Thiên Ấn tự do thiền sư Pháp Hoá, gốc Tiều Châu tạo dựng năm 1694 trên núi Thiên Ấn, Quảng Ngãi. Hai vị tổ kế vị sư là tổ Khánh Vân và tổ Bảo Ấn.
(3) Phú Xuân: Làng Phú Xuân tuộc huyện Hương Trà, Thuận Hoá, đã trở thành kinh đô của xứ đàng trong sau khi Chúa Nguyễn Phúc Trăn thiên phủ về năm 1687.
(4) Chùa Linh Mụ do Chúa Nguyễn Hoàng ra lệnh xây dựng năm 1601 trên đồi Kim Long. Ðến đời Minh Mạng, chùa được cải danh hiệu lại là THIÊN MỤ.
(5) Chúa Nguyễn Phúc Khoát 1673 là vị chúa nhân từ và mộ đạo. Ngài tự xưng là Từ Tế đạo nhân khi ban sắc tứ các chùa.
(6) Xứ đàng trong: Chỉ cho phần đất từ sông Gianh trở vào Nam trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
(7) Lô Dung: Tên xưa của sông Hương
(8) Phát xuất từ bài thơ "THẾ SỰ":
Chưa dễ ai là Phật Thích Ca
Mọi niềm nhân ngã, nhẫn thì qua
Lòng vô sự, trăng in nước,
Của thảng lai, gió thổi hoa.
Kìa khách xuân xanh khi trẻ
Mấy người đầu bạc tuổi già!
Thanh nhàn ấy, ắt là tiên khách
Ðược thú ta, đã có thú ta.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
(9) Kinh An ban thủ ý: Tức kinh Quán niệm hơi thở. Kinh đã được thầy Nhất Hạnh dịch và chú giải. (Lá Bối 1987)
(10) Phỏng theo Thiền Hành Yếu Chỉ của thầy Nhất Hạnh
(11) Việt dịch:
Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người nầy đi đường tà
Không thấy được Như Lai
Trích Kinh Kim Cang (T.T.Thiện Hoa)
(12) Khu Ô Sa Di: Nghĩa đen là sa di đuổi quạ, tức là loại sa si tuổi từ 7 đến 13, chỉ có thể làm những việc lặt vặt như xua đuổi quạ, chớ chưa đúng hợp ngôi vị sa di.
(13) Các ngôi "Sắc tứ Tam bảo tự" tại ấp Vĩnh Lạc, "Sắc tứ Thập Phương tự" tại ấp Vĩnh Thanh, và chùa Ông Nồi ấp Vĩnh Hiệp đều là những ngôi chùa xưa, và vẫn còn tồn tại thị xã Kiên Giang.