Chỉ mục bài viết |
---|
Thằng Bờm |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Thằng Bờm
Tác giả: Nghiêm Lương Thành
- Thằng Bờm là ai?
- Thằng Bờm là thằng bờm !
Thời ông Lý Bơm, sổ đinh của làng ghi là Lý An Bờm; sang thời ông Lý Nhõn ghi là Trần Bờm, rồi sau đó, không hiểu thế nào, lại chữa ra Lê văn Bờm; đến thời ông Lý Cai, năm chạy lụt, sổ đinh không biết đi đằng nào, sau lập lại không biết ghi là gì; hỏi dân làng, người nào mặt cũng thộn ra, bèn cứ đề phứa là Nguyễn Quốc Bờm cho nó đẹp đẽ, phân miêng sổ sách ... Rốt cuộc, chính Bờm vẫn chẳng biết họ của mình là gì.
Bình thường, nếu là người đọc sách, dạy học như ông đồ Tú cuối làng, đều được cả làng gọi là ông Đồ Nguyễn hoặc bạn bè đồng môn trước đây gọi là Nguyễn tiên sinh. Còn người thường, không có gì nổi bật, thì chí ít cũng được gọi là anh cu, bố hĩm. Nó chẳng có gì na ná như vậy ngoài cái đầu bù xù khét nắng nên dân làng, vốn giản tiện, gọi béng là Bờm. Bờm chỉ khoái tắm sông thả diều, đốt rác ngoài đồng, ngủ trên bãi cỏ, nô với trẻ trâu ... thấy cái thứ gọi là họ ấy cũng không có lợi hại gì, nên cũng chẳng để ý. Sau này, có ai trêu chọc mà hỏi, Bờm bảo họ của nó là Thằng. Ấy là tự Bờm nói; người khác nói thì e đã có chuyện lớn. Thỉnh thoảng, đi qua lớp học của ông Đồ Nguyễn, ghé mắt nhòm vào thấy trên mặt giấy rặt có một thứ loằng ngoằng, dọc ngang chéo giật, Bờm tự thấy mừng cho mình vì chả có ai bắt nó đến đấy ngồi suốt ngày, còng cả lưng, rồi vẽ ra giấy những thứ chết tiệt như vết chân gà choai bới đất, đọc lên nghe lạ hoắc lạ huơ đến nẫu cả ruột.
Nghèo thì nghèo, Bờm cũng hữu sản đấy. Tài sản của Bờm là một cái quạt mo. Với người bình thường thì đồng tiền liền khúc ruột; với Bờm, cái quạt mo là vật bất ly thân. Xem diễn chèo ở sân đình làng, thấy vua quan ông nào cũng cầm một cái quạt trên tay. Thế thì Bờm đâu có ý chơi trội. Người ta bảo Bờm dở hơi, Bờm dốt, Bờm mù chữ, Bờm ăn no vác nặng, ăn đói cũng vác nặng. Ừ thì dở hơi, nhưng Bờm lại biết bơi, và riêng cái khoản bơi lặn này thì cả làng đừng hòng có ai bì kịp.
Trong làng - trừ thằng mõ, thỉnh thoảng lén các cụ ngoài đình, dúi cho nó nắm xôi - Bờm chẳng thân với ai. Cả làng, từ người già đến con trẻ, chẳng ai coi nó vào đâu. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ai cũng có thể tự cho mình cái quyền chính đáng lấy nó ra mà chấm phá vui vẻ, mà làm những trò cười cợt bỉ ố rồi cười ré lên với nhau cả một lượt. Từ bé, Bờm đã quá quen với những trò đó nên nó chẳng giận, lắm lúc còn thấy vui vui là khác. Cái cảm giác thấy mình vẫn còn hơn chán vạn một cái mụn cơm cũng không phải là xoàng. Vừa hiền lành, vừa ngố ngá, ai nói gì cũng chỉ ngẩn ngơ cười, lại không có tính dỗi giận, nó chẳng bao giờ có thể trở thành một kẻ hay ho đến mức khiến người khác phải đem lòng tỵ hiềm mà ghen ghét hãm hại nên nó không có kẻ thù. Và, cũng vì thế nó chẳng thể có bụng ghét ai cho được. Tuy vậy, đôi lúc, như có Mẫu nhập, cái mồm của nó cũng không phải vừa ! Kẻ hẹp lòng, thường khó chấp nhận những cái hay ho của người khác, thì bảo: Điếc hay ngóng, ngọng hay nói, chó ghẻ có mỡ ở đuôi. Người rộng bụng, lại có được ít chữ thánh hiền thì bảo: Bờm nhập đồng đấy ! Tất nhiên, ngày nay, khi khoa vật lý chất rắn đã khá phát triển, thay vì dùng chữ nhập đồng, người ta hay nói thăng hoa; của đáng tội, cái chữ ấy nghe có gì đấy rất tinh thâm, bay lượn đáo để và, điều quan trọng nhất, không phải ai cũng có thể lập tức hiểu được.
Mấy năm trước, người Tàu rầm rộ đem quân sang định cai trị nước Nam. Chẳng cần biết nếu kẻ ngoại bang đến thì cuộc sống của nó có trở nên tồi tệ hơn hay không, Bờm cũng cứ nằng nặc xin quan cho được xung vào lính. Rồi Bờm cũng băng rừng vượt núi, cũng màn trời chiếu đất, cũng cầm giáo xách khiên xung trận, cũng hò hét vang trời, hùng tráng chẳng kém ai: "Đả bỏ bu mấy thằng con giời đến cướp làng nước người ta đi !".
Giặc tan, vua trở về cung, quan trở về phủ, còn Bờm thì về làng, đầu đội nón đấu, chân quấn xà cạp. Trẻ con thấy lạ chạy theo hàng đàn. Người lớn dí dủm tò mò, quây lấy Bờm hỏi chuyện trận mạc. Được ngày đầu còn oai phong vui vẻ; sang ngày thứ hai thì đã nhàn nhạt; đến ngày thứ ba thì Bờm đã thấy cái bụng của mình đang réo lên từng cơn từng hồi. Rốt cuộc, vẫn phải có cái gì đấy mà nhét vào bụng. Và như vậy, xem ra, vị thế của nó cũng chẳng có gì đổi thay. Vẫn chẳng ai coi nó vào đâu; người ta đã quen mất cái nếp ấy đi rồi. Bờm cũng có bị hẫng hụt chút đỉnh. Nhưng sự hẫng hụt của cái tâm trạng hân hoan đại tráng ấy rồi cũng qua ngay, bởi chính Bờm cũng chấp nhận và nhanh chóng trở về với cái nếp cũ rất quen thuộc ấy. Cuộc sống lại tiếp diễn, đều đều, đơn điệu như tiếng sáo diều ve vắt, trầm nhẫn ngoài bãi sông, bến nước. Vẫn như trước, ngoài cái quạt mo đã lên nước bóng láng ra, trong người Bờm chẳng có thêm vật gì, thậm chí chỉ là một cái dùi. Bờm không thích dùi; nó bảo dùi là cái có thể làm đau người; vả lại, trên cái giang sơn gấm vóc mà nó vừa đem thí cả cái thân thể hôi hám yêu quý của nó để khỏi bị người Tầu cướp mất, Bờm cũng chẳng có chỗ nào để có thể đàng hoàng cắm cái dùi đó xuống cho được. Cũng chỉ tại Bờm không có tiền, Bờm chỉ có độc cái thân xác. Thân xác của Bờm, chủ yếu, cũng chỉ có xương với máu. Nhưng thức gì cũng có mùa của nó: Thứ này rất cao quý trong những đận trận mạc, nhưng đến lúc thái bình vãn hồi thì chỉ có thể bán cho Thiên Lôi ! Nhưng, khốn nỗi, Thiên Lôi lại là thần tiên. Thần tiên thì chỉ dùng loại tiền vàng mã.
Tiếp tục cuộc sống cũ: Ai thuê cày thì Bờm cày, ai thuê tát nước thì Bờm tát nước, ai dựng nhà làm bếp thì Bờm đến khuân vác phụ giúp. Được cái, những nhà có việc hiếu việc hỷ, chẳng bao giờ người ta quên Bờm, bởi nó xăng xái và được việc, lại chỉ bảo ăn thì mới ăn, và không bao giờ mở miệng nói chuyện công xá. Mà dù nhà chủ có tử tế trả công thì nó cũng nhất định không nhận; nó bảo: "Bờm nhận thì Bờm đếch dám nhìn mặt người làng nữa !". Nếu trời cứ cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt thì thỉnh thoảng Bờm mới bị đói. Trong làng, Bờm là người lao động tự do; và xét trên một ý nghĩa nào đó, ít nhiều, Bờm là kẻ góp phần khai sáng ra một hình thái xã hội mà nhiều trăm năm sau hậu duệ của Bờm gọi là xã hội công nghiệp.
Trong làng còn có Phú ông. Phú ông là người khoẻ mạnh, da nâu râu rậm, mặt tựa chữ điền, giọng nói oang oang, thích rượu ngon gái đẹp, lắm vợ nhiều con và nổi tiếng là kẻ tham công tiếc việc, thường hay tính toán lo xa quá đáng, tự mình đày đoạ cái thân mình, trần lưng làm lụng như trâu húc mả; lại thêm bệnh hạt tiện kinh niên, bóp mồm bóp miệng, hay tiếc của giời, nên cũng có lúc trả công cho người làm cũng sát sao quá lắm. Tiếng là hùng hục, là bóp mồm bóp miệng, nhưng trời lại phú cho lão cái giọng nói sang sảng, cái lối đi đứng oai vệ; oai vệ đến nỗi lý trưởng và các chức dịch trong làng trong xã cũng phải vô tình mà học theo. Lão quen thấy được mọi người trọng vọng nể vì. Kể cả kẻ chức dịch hàng xã, tuy đã cố lấy cái vẻ công quyền nghiêm nhã để đãi giao mà vẫn không sao giấu được vẻ khúm núm dúm dó trước kẻ phú hào ngỗ ngược đó.
Hồi quân Tàu tràn sang, Phú ông lúc ấy tuổi cũng đã cưng cứng, chẳng có lệnh nào bắt mà cũng cứ nhất quyết đòi xung lính một lần với Bờm. Trong quân, Lão và Bờm là người cùng làng, lại được phiên vào cùng một ngũ, cùng xa nhà và sống giữa bao người khác xứ, nên có phần gần gũi nhau hơn. Trong trận hỗn chiến Bắc Thạch Sơn, trong lúc hò hét, đâm tả chém hữu, Phú ông bị trúng một mũi tên vào bả vai; chính Bờm đã dìu lão ra xa nơi gươm giáo loạn xạ, nhổ mũi tên đó ra, nhai lá thuốc đắp vào vết thương và xé toang cái áo mới tinh mà thằng mõ dúi cho hôm lên đường xuất chinh, vừa buộc thuốc vừa cắm cảu:
- Đánh nhau mà mặt mày cứ hơn hớn lên dư thế thì nó bắn cho thế cũng là phải !
Phú ông ớ mặt, lấy tay trỏ vào mặt Bờm:
- Thằng này láo ! Sao mày dám hỗn với ông ?!
Đến lượt Bờm ớ mặt, rồi nó cũng nhớ ra Phú ông là ai. Nó bèn chắp hai tay lại, bảy phần hối, ba phần nhả nhớt:
- Nhà cháu nhỡ mồm, ông tha cho, từ rày không nói nữa ! Nhưng ... - Như chợt nhớ ra điều gì, Bờm hét tướng lên - đếch được !
- Sao lại không được ?
- Có mồm mà đếch được nói thì hoá ra cái giống trâu bò à ? Làm trâu bò để suốt ngày bị ông hết vắt rồi lại diệc à ? Còn xơi nhá ! Nhà cháu đếch phải là cái giống ấy đâu nhá, đừng có mà mơ !
- Thế những thằng câm thì chúng nó là trâu bò cả đấy ?
- Bị câm thì kể làm chó gì ! Còn Bờm đây đếch bị câm. Đếch bị câm mà không được nói thì chết cụ nó đi cho khoẻ ma ! Dưng mà Bờm đây lại … - nó đưa tay lên gãi gáy, ngoẹo đầu, cười tinh quái - … ngại chết lắm !
Một lần, trong một đêm ngủ rừng, Phú ông bảo:
- Mày đúng là thằng dớ dẩn, đéo ai bắt lính thằng dở hơi mà phải tớn vào lính cho nó khổ ải ?!
- Nhà cháu cứ tưởng ông là người giàu có thì tinh khôn lắm, hôm nay mới thấy hoá ra đếch phải.
- Tiên sư thằng ranh ! Mày tinh khôn thì nói ông nghe tại sao tự dưng lại đâm đầu vào chỗ khổ ải ?
Bờm cười nhăn nhở, gãi bụng xồn xột, rồi vỗ đùi đánh đét một cái:
- Có nhẽ nhà ông tối dạ thật ! Thôi, để nhà cháu giảng cho mà nghe nhá: Khổ ... thì cũng chả khổ hơn lúc ở làng, dưng mà nhà cháu được no cái bụng, được đối xử ngang phân với nhà ông ! Ối giời ơi, thế mà cũng đòi vác mặt làm người giàu cơ đấy giời ạ !
- Mày có thể bị bỏ mạng nơi trận mạc !
- Chậc … chết thì cũng có khác chi người đi ngủ tít thò lò, mà lại được cái oai phong vẻ vang với thiên hạ làng nước !
Rồi Bờm cứ thế nằm ngửa, giơ hai chân lên trời quậy đạp nhung nhăng mà cười ngặt cười nghẽo. Cười chán, rồi nó hỏi lại:
- Thế dưng nhà ông có nhiều thóc lúa, tiền của, vua lại chửa bắt đến, sao không ở nhà mà hưởng cho nó phè phỡn cái thân xác mà lại không dưng đâm đầu vào chỗ đâm chém nhau đến nỗi toé cha nó cả máu ra ?
- Cái thằng ... hỗn như ranh ! Ngu như mày thì hiểu thế chó nào được ! Để ông giảng cho mà nghe: Nếu người Tàu nó thắng, nó bắt Vua mình đi thì mày có thấy bẽ không ?
- Ừ nhỉ ! - Bờm ngẩn mặt, thôi không cười nữa.
- Nhục cái mặt lắm con ạ ! Mà Tàu nó thắng thì nó đến nó cướp ráo đi ấy chứ; nhà tao còn giữ được thóc lúa của tiền à ? Còn cái chó gì nữa mà phè phỡn cái thân xác ? Có mà cả làng cả nước hoá ráo thành cái giống bờm nhà mày hết thôi con ạ ! Nhục lắm ! Nhục lắm ! - Phú ông ngán ngẩm lắc đầu - Mỗi làng chỉ có một thằng bờm đã là quá nhiều rồi. Hoá nên tao mới chủ tâm đi đánh cho bỏ con mẹ cái lũ chúng nó đi !
Khi giặc tan, cả hai khăn gói quả mướp về làng.
Một buổi sớm, nhân lúc việc đồng vừa vãn, ngồi trong nhà nhìn ra sân thấy rặng cúc đại đoá đua nhau nở rộ; trên những tán lá rặng mít mé bếp, chim chóc chuyền nhảy sào xạc, chít chiu vui vẻ, trong người thấy mười phần thư thái; sực nhớ có ấm trà ngon, Phú ông bèn sai người làm gọi Bờm đến cùng uống.
Cầm cái chén Phú ông đưa cho, Bờm dốc ngược làm một ực, rồi nhẩy cẫng lên, xuýt xoa nhăn mặt. Phú ông nhìn Bờm, cười rộng ngoác:
- Thôôấct bảo, tội chó gì mà phải ngủ đường ngủ chợ, nắng mưa muỗi rệp nó hành cho; lại bữa no bữa đói, chẳng ra làm sao; về ở cho nhà tao, tao không bắt làm nhiều đâu, tao lo cho mày lúc nào cũng no như khi còn ở lính.
- Ông cứ đùa nhả - Cái cổ Bờm rụt lại, hai tay xoa vào nhau, cười nhăn nhở - Có đời thuở nhà ai làm ít mà lại được ăn no bao giờ ? Nhà cháu mà làm người giàu thì nhất định đếch chơi như thế.
Phú ông ngây mặt:
- Ơ hay … tao nói thật đấy !
- Thật cái phải gió đùng lăn !
- Tiên sư cái thằng … mày thấy ông thất tín bao giờ chưa ?
- Nói ông tha lỗi, giá kể nhà ông nói thực, nhà cháu cũng đếch thèm ! Ở một mình tiếng là phất phơ lơ lửng, dưng mà nó tự tiện đủ bề: ngủ nghê bằng thích, ưng làm thì làm, khoái chơi thì chơi, chả bị ai chửi bới mắng nhiếc liên hồi kỳ trận, thập phương khí gió bao giờ.
- Gàn lắm con ạ. Thế thì tao bảo thế này, mày xem có được không: Mày đến ở hẳn nhà tao, làm sòng phẳng, lấy công sòng phẳng; chẳng thằng đéo nào nợ thằng nào. Trừ tiền ăn đi, còn bao nhiêu tao giữ hộ. Tích cóp đến khi nào đủ mua được ruộng, tao cắt ruộng cho mày ra làm riêng.
- Vớ vẩn - Bờm lừ mắt, liếc xéo sang Phú ông - Có hoạ trạch đẻ ngọn đa !
Phú ông ớ mặt, vỡ nhẽ:
- Cái giống bờm nhà mày ... Đúng là cái thứ tự chủ tự tác ăn mày, có hôm nay không nghĩ tới ngày mai. Thôi tuỳ ! - Lão lắc đầu, thở dài rồi nhoài người với lấy cái tráp để trên nóc tủ chè, mở nắp lấy ra mấy nén bạc - Chỗ chiến binh với nhau, cầm lấy một ít, phòng lúc không có ai thuê làm gì, thêm vào mà ăn. Khi nào ngặt quá thì lại bảo tao một tiếng.
- Nhà Bờm đếch thèm ! Nếu ông có việc gì thì thuê Bờm. Bờm làm Bờm lấy công. Ông bỏ tiền ra ông được việc. Úm ba la hai ta cùng khoái.
- Tiên nhân cha thằng này, nghênh ngang khệnh khạng quá thể ! - Phú ông đập tay xuống bàn cái rầm, đứng phắt dậy, mặt đỏ lựng, hầm hầm trỏ tay ra phía cổng - Cái giống đã ngu mà còn khái hão thế thì suốt đời là con chó ! Cút ngay ! Từ rày cấm chỉ lảng vảng quanh đây làm khổ mắt tao !
Bờm bị bất ngờ, vai hơi so lại, không cười nữa, nhìn Phú ông một lúc rồi lừ lừ đi ra. Đến giữa sân, nó dừng lại, không biết nghĩ thế nào liền vén quần tè một bãi lênh láng, rồi cúi người buông hai ống quần xuống, nguyềnh ngoàng bước qua cổng. Từ đó, Phú ông chẳng bao giờ cho người gọi Bờm đến nhà nữa. Phần Bờm, nó cũng chẳng bao giờ lảng vảng đến gần khu nhà của Phú ông. Hai gã cựu chiến hữu, kẻ giàu người nghèo ấy, đã tuyệt giao một cách huy hoàng !
Năm ấy gặp nạn châu chấu, mùa màng cả một vùng rộng lớn mất trắng. Bếp núc nhà nào cũng nguội tanh, mạng nhện giăng ngang miệng các loại nồi đồng nồi đất. Nhìn vào, nhà nào cũng tựa nhà hoang. Dân tình vật vờ xiêu vẹo, trông ra ngoài đồng chỉ thấy vàng mơ, nhìn vào trong nhà chỉ tổ mờ mắt; khắp chợ cùng quê, đâu đâu cũng thấy cảnh ấy. Năm thì mười hoạ, được ít thóc gạo ân đức mưa móc của Vua đem đến cứu tế thì bị quan nha, sai dịch cuỗm mất đến quá bảy phần. Củ ráy, củ chuối đã bị đào tới gốc cuối cùng; lá sung, rau dại bói cả ngày cũng không ra nổi một lấy một chét. Giặc dã, trộm cướp nổi lên tứ tung khắp nơi như ong như rươi. Dân gian cùng khổ, phấp phỏng nơm nớp, lo hãi còn hơn cả cái đận giặc Tàu tràn sang.
Nghe nói ở vùng trên có một nhóm tự động kết đảng, tự xưng là Dân Nghĩa, chuyên đến cướp của nhà giàu đem chia cho kẻ khó, ai ai cũng mừng vui, mong chờ khắc khoải. Bờm cũng mừng vui, nhưng Bờm chẳng chờ; Bờm thích thì Bờm mần luôn. Bờm đã tự đi lính, tự chém được giặc thì Bờm cũng khắc tìm đến chỗ có đám người ấy được. Vậy là Bờm đi, chỉ khác với lần ra đi trước là trên chéo vai không có khăn gói quả mướp và thằng mõ chí cốt thì đang vàng mắt vật vờ.
Trèo đèo lội suối, thất thểu xiêu vẹo, tưởng đã chết mất xác, cuối cùng Bờm cũng tới được Nghĩa trại. Một cô gái xinh đẹp như hoa tươi cười xúc cho Bờm ba bát gạo. Bờm lừ mắt, phẩy tay: "Đằng ấy có mắt cũng như không. Tớ đến đây là để cùng đi lấy thóc chia cho kẻ khó chứ đếch xin cứu đói đâu nhá !".
Cuối cùng, Bờm cũng trở thành người của Nghĩa trại. Tuy là loại nói chẳng nên lời, nhưng Bờm làm việc năng nổ, quyết liệt, không khoan nhượng, được trưởng trại cả khen: "Đáng mặt anh hùng !". Nhưng rồi, dần dà, Bờm nhận thấy thóc lúa, của cải chia cho dân chỉ được có vài phần, số còn lại được chở tất về trại. Mỗi khi ra quân, đi hành sự ở các làng, tất cả, ai cũng ăn mặc rách rưới, nét mặt căm phẫn chí công. Nhưng hễ về đến trại liền tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo lụa, ăn thịt gà luộc, uống rượu nếp cái, cùng nhau chén chú chén anh đến bí tỷ mới thôi. Khi đó, mấy cô trẻ măng nõn nà, vẫn ngồi bên đong đưa chuốc rượu, mới dìu các đàn anh về buồng nghỉ ngơi và ở tịt luôn trong đó. Vì thế Bờm đâm thấy chán. Khi cái chán đã dâng đến mang tai, Bờm bảo với mọi người:
- Bờm nhớ quê lắm, đếch bè đảng nữa. Bờm về quê thôi.
Một đàn anh ngạc nhiên, hỏi:
- Đã kết đảng sao giữa chừng lại bỏ ?
Bờm cười, chán nản đay từng tiếng:
- Đã bảo, tớ kết đảng là để lo cho các làng thoát nạn đói, chứ đếch phải để kiếm chác !
Mấy đàn anh có vẻ kém vui, không nói gì. Trong bữa tiệc tiễn Bờm, Nghĩa trại trưởng nâng chén rượu, bi tráng nói cùng anh em: "Bờm về quê là một tổn thất lớn cho đại nghĩa, đại sự. Anh em mất đi một bạn hữu trung hậu, chí tình; Nghĩa Trại ta mất đi một người ưu tú giỏi giang; dân lành mất đi một chỗ dựa vững chắc ... !".
Thế là Bờm về làng thật, nhưng không làm khách, khi đi vẫn nhớ mang theo một đẫy đầy gạo về cho Thằng mõ. Trên đường về, đang buồn bã men theo một sườn dốc thì đột nhiên nghe tiếng soạt … một gã vận đồ nâu, đầu chít khăn lưỡi rìu, tay lăm lăm lưỡi mác sáng loáng nhảy vọt từ trong bụi ra, chắn ngang lối đi. Bờm chột dạ, định thần nhìn kỹ thì nhận ra đó là thằng Quảng Chuột, đệ tử ruột của Nghĩa trại trưởng. Bờm dừng chân:
- Có việc gì ở đây ? Sao lại phải nấp trong bụi dư thế ?
Quảng Chuột mặt lạnh tanh, đôi tròng mắt trắng dã, cười nhếch mép:
- Để giữ thanh danh cho Nghĩa Trại, bất đắc dĩ mới phải làm thế này. Đây cũng chỉ tuân thượng lệnh thôi. Xin đắc tội !
Dứt lời, Quảng Chuột vung mạnh thanh mã tấu, bay thẳng vào người Bờm. Do được huấn luyện trong lính và có chút ít kinh nghiệm đánh quân Tàu trước đây, Bờm, nhanh như một con chèo bẻo, thoắt né người về phía vách núi, tiện tay ném luôn cái đẫy gạo vào người gã sát thủ. Quảng chuột lạc đà hẫng người, lại bị sức đẩy của cái đẫy gạo, cứ thế lao thẳng xuống vực.