watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:02:3928/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Sáu Giang Hồ
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 2

Cái đêm kinh hoàng ấy bao năm rồi vẫn còn nguyên vẹn, không hề phôi pha trong kí ức đã đành, mỗi lần nhớ lại, Sáu Giang Hồ cứ ngỡ mới xảy ra đâu từ hôm qua. Nếu không có những ngày "khổ luyện" bơi lặn ở sông Hậu với ông Tám Chài, đêm hôm ấy hắn đã chìm tận đáy sông Bassac. Và, từ đêm hôm ấy, những tiếng gọi hoảng hốt, tuyệt vọng của ông Thạch Nu, của Sophi và hai đứa trẻ trai lúc nào cũng như bay lượn trong không khí sẵn sàng đáp đậu xuống hắn khiến tim đau, lòng đau cùng nỗi dằn vặt. Sao hôm đó hắn không cùng "nắm tay" vợ con đi sang thế giới bên kia mà lại đớn hèn thoát hiểm một mình để bây giờ sống không ra sống, chết chưa ra chết, cứ vật vờ như cái phao, cái nút chai hèn mọn nửa chìm nửa nổi lênh đênh trên bề mặt biển đời, hay bể trầm luân - như sư Huệ Đức từng gọi - luôn luôn cuộn sóng thế này?! Đôi khi hắn lại tiếc giá như đừng gặp ông Tám Chài, chẳng gặp Sophi mà đã chết dưới tay Mãnh Cụt, hoặc vẫn tiếp tục là thằng đầu trộm đuôi cướp, hở tí là giương nanh múa vuốt... lưu manh!
Nỗi dằn vặt và những đôi khi ấy sắp từ bỏ hắn vĩnh viễn? Mặt trời nống vòng sáng mỗi lúc mỗi rộng hơn ở đằng đông. Mặt nước sông Hậu phẳng lì như thể đêm qua sóng rủ nhau đi chơi đâu đó chưa về kịp. Ngồi bó gối đằng lái, Sáu Giang Hồ dõi mắt chờ những tia nắng đầu ngày với cảm giác được khói sóng vuốt ve không chỉ xác mà cả hồn.
Lặng lẽ nhưng vô cùng lẫm liệt, mặt trời từ từ nhô lên hệt một quầng máu tươi roi rói. Không còn bao lâu nữa mình sẽ chẳng bao giờ thấy lại mặt trời!? Buồn bã nhủ thầm đoạn hắn đứng lên trông hút vào vòm mui, trong đó ông Tám và thằng Út Chót vẫn ngon giấc, rồi cái nhìn cất ngược lên tán còng đã già cỗi hơn xưa, hình như những lời ru buồn của Sophi lẫn những tiếng gọi tuyệt vọng vẫn còn rì rào, rì rào sau những tờ lá đẫm sương, mỗi tờ lá là một con mắt đăm đăm dõi về phương nào xa diệu vợi!
Mặt trời lên cao hơn, "máu" tràn lênh láng, mầu đỏ tươi loãng dần thành nắng đổ sấp chiếc bóng dài ngoằng của hắn mất hút vào gốc còng cổ thụ. Gã đàn ông rời ghe lên bến, đầu cúi rũ, hai tay thọc sâu túi quần, thong thả bước hệt một người nhàn hạ.

5.
Chợ vãn người. Út Cưng loay hoay xếp gọn mớ rau quả, rảy nước cố níu giữ sự tươi tốt cho chúng dưới những tia nắng như kiếm bổ từ mặt trời đứng giữa hồng tâm giờ ngọ. Ông Tám Chài đến nghiêng sát, nói nhỏ:
- Vô quán nước, có chút chuyện.
Thoáng ngỡ ngàng, Út Cưng thấp giọng:
- Bộ có gì quan trọng sao chú Tám?
- Tao có huỗn đâu mà đi kiếm bây giữa trưa đứng bóng như vầy!
Ông già tóc râu bạc trắng quảy quả bước đi. Út Cưng nhờ bà bạn hàng ngồi ngáp vặt bên cạnh trông hàng giùm, lẽo đẽo theo sau. Họ vào một quán nước bên hông chợ tương đối vắng, nhạc boléro hải ngoại nhừa nhựa ru ngủ không chỉ ông chủ trẻ áo trạc ngực phô hình xăm gái lõa thể trên ngực, mà cả lũ ly tách chai lọ, những cô diễn viên điện ảnh, ca sĩ, người mẫu thời trang... trên những tấm áp phích quảng cáo mầu mè lòe loẹt dán gần như kín cả bốn mặt tường. Uống ngụm đá chanh quậy chưa tan hết đường, ông Tám nói:
- Nghe bây đối xử không đẹp lắm với ba thằng Hùm phải không Út?
- Dà, thì cháu... - Út Cưng ấp úng: - Mà sao chú Tám biết?
- Hổm rày thằng Sáu ở chỗ qua chớ đâu! Chuyện xưa bây bỏ nó trong lúc tù tội theo thằng Mãnh chắc bây chưa quên?
- Chú nói tội cháu, hồi đó cháu bị anh Mãnh ép buộc, dọa dẫm đủ điều...
- Ờ, nó mang vàng bạc lót dưới lưng bây cho êm đặng ép bây ăn nằm đẻ son sòn năm một chớ gì? Chà, cực quá hèn!
Người đàn bà xấu hổ cúi gầm mặt, đưa ly lên định uống ngụm cà phê đá, ngập ngừng, lại đặt ly xuống, khoan xoáy cái nhìn bắt nọn vào ông Tám:
- À, cháu biết rồi, chắc ba Cu Hùm nhờ chú biểu cháu quay lại với ảnh?
- Đừng tưởng bở nghen con! Hổng có thằng đàn ông nào ngu dại đi hốt ổ một gái nạ dòng với sáu con về mà nuôi báo cô đâu, bộ bây tưởng bây còn sắc nước hương trời lắm chắc?
Út Cưng ngượng chín, câu nói "phũ phàng" của ông già sông nước khiến nàng tưởng chừng những phần da kín vụt bị bóc trần phơi lồ lộ hệt những cô thời trang mặc đồ tắm nẩy ngực ngoáy mông trên tường kia. Ông Tám tiếp tục cái giọng nửa câng câng, nửa lành lạnh làm người nghe phát... ớn:
- Nghe bây sợ thằng Sáu bắt cóc Cu Hùm à?
- Dà, dù có cực gấp trăm ngàn lần nữa, cháu cũng không thể xa con của cháu được.
- Theo chỗ qua biết thì nó hổng có ý định đó đâu.
- Vậy ảnh muốn gì?
- Gặp lại, để coi bây đối xử tàn tệ tới cỡ nào!
- Nãy giờ cháu nghe đã đầy tai, mong chú thương tình đừng chửi cháu nữa, tội nghiệp. Nói đi, chú tìm cháu có chuyện gì vậy? Cháu không đến nỗi tàn tệ như chú nghĩ đâu - Út Cưng bưng mặt khóc òa, nước mắt ràn rụa qua kẽ những ngón tay hình như chẳng trong mà vẩn mầu cay cực, buồn tủi.
Dù rủa thầm trong bụng: "Hừm, nước mắt cá sấu!" nhưng rồi ông Tám cũng chợt hối về giọng lưỡi cay độc của mình vừa rồi, bèn dịu giọng:
- Thiệt tình thì, thằng Sáu cũng hổng oán trách gì bây đâu.
- Dà, cháu biết ảnh rất thương thằng Hùm. Nhưng cháu nghĩ, lỡ làng cả rồi, ly nước hắt đi khó bề hốt lại... Dạo này ảnh sống ra sao hả chú?
- Nghe đâu từ hồi năm nẳm, nó sang Campuchia sinh sống mần ăn, vợ con không may bị bọn Pôn Pốt giết sạch, nó trốn thoát, nhưng nghĩ máu thịt oan hồn vợ con vẫn ở bên bển, quay về xứ không đành, nó bèn ở lại đi kiếm ăn lớ ngớ, bị lùa vô trại lao động cải cách hay cưỡng bách gì gì đó hút chết, may sao có một ông người gốc Hoa giàu sụ thương tình bảo lãnh ra, mướn nó mần vệ sĩ. Ông này mần chủ tới sáu, bảy cái khách sạn loại sang, lại có máu mê cờ bạc, theo hầu riết nó cũng đâm ra thạo nghề đổ bát, nổi tiếng là con bạc xuất quỷ nhập thần. Ông chủ gốc Hoa mất đột ngột vì bị nhồi máu trong một ván bài tiền đặt cược cả triệu đô la. Sau đó nó được bà chủ tin cậy, cho trông coi một khách sạn nhà hàng kiêm luôn sòng bạc... Ôi dào, nó kể lớt phớt, qua cũng chỉ nghe qua loa, không tin lắm, nhưng giờ thì tin nó đúng là... - Ông Tám ngưng bặt, Út Cưng bửng lửng, sốt ruột:
- Đúng là gì hả chú?
- Thì là.... đúng, nó đúng là một ông chủ!
Cơ hồ biến thành kẻ nào khác, ông Tám trịnh trọng đảo mắt ngó quanh, tưởng chừng không chỉ những cặp mắt trong quán, trên các mặt tường mà cả những cái nhìn vô hình nào đó trên khắp thế giới đang lom lom găm vào mình, đoạn trịnh trọng kêu tính tiền, trịnh trọng đứng lên, trịnh trọng rảo bước về phía mấy chiếc xe lôi đậu bên kia đường. Đáp lại đôi mắt xoe tròn kinh ngạc của Út Cưng, ông trịnh trọng nói gần như thì thầm:
- Không thể nói ở ngoài đường ngoài sá được, về chỗ qua, hổng biết thằng Út Chót có bỏ ghe đi chơi không, sao nóng ruột quá vầy nè!
Về tới bến Cây Còng, ông Tám yên lòng khi bước lên ghe thấy Út Chót nằm sấp trên sạp ván đọc truyện tranh. Nựng nịu, hôn hít thằng nhỏ, dúi cho nó mấy ngàn rồi Út Cưng theo ông Tám vào góc bếp đằng lái. Trước đôi mắt xoe tròn của người đàn bà lam lũ, ông trịnh trọng mở nắp cái khạp da bò lấy ra hai bó tiền buộc gọn bằng dây thun, toàn tiền mệnh giá 100.000. Một bó dày cỡ cục gạch ông có dán mẩu giấy ghi Kính biếu tía của con, và bó kia dày gấp đôi kèm dòng chữ Của má Cu Hùm và sắp nhỏ.
Chẳng tin vào mắt mình, Út Cưng cố nén kinh ngạc:
- Mèng ơi, tiền thiệt hay giả mà nhiều quá vậy nè?
Có lẽ từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới giờ, bữa nay mắt ông Tám mới tràn ngập ánh vui đến thế:
- Thiệt chớ!
Tương tự, có lẽ từ lúc lọt lòng tới giờ, Út Cưng mới thấy được một bó tiền to nặng đến dường ấy, thực mà cử ngỡ như đang mơ, nửa ngờ nửa tin.
- Chú Tám đừng hù cháu tội nghiệp nghen! Có thiệt là... là tiền của ảnh gởi lại hay là...
- Hay là tiền Hà Bá dưới sông chắc! Còn ai trồng khoai đất này nữa! Hồi năm năm, trước khi bỏ đi biền biệt nó cũng bỏ vô cái khạp này mấy dòng chữ hẹn chắc chắn sẽ về. Lần này nó lại mượn cái khạp mần hộp thơ. Chậc, cái thằng thiệt là... à, mà sao lần này hổng thấy nó hẹn về gì cả vậy cà!?

6.
Chùa tọa lạc ở lưng chừng một sườn đồi đất đỏ miền Đông, ẩn khuất dưới tán si cổ thụ, bốn mùa râm bóng. Mái ngói cũ kỹ oằn nặng cơ man nào là năm tháng, tường rêu bạc mầu nắng mưa lưu cữu. Từ chánh điện đến hậu liêu, các khám thờ, tượng thờ, bàn ghế, hoành phi câu đối, cây kiểng... khoác chung vẻ dung dị trầm mặc, không xanh đỏ tím vàng lòe loẹt giống các chốn Phật đường nơi phồn hoa đô hội. Vài ông sư, dăm chú tiểu, người lặng lẽ như những họa tiết phác thảo điểm vào cảnh u tịch những nét sinh động từ tốn khiêm cung. Nơi này ngăn cách với thế giới "chúng sinh" ồn động bên ngoài cả một cánh rừng cao su bạt ngàn, các đạo hữu ở xóm nhà gần nhất cũng phải hành hương qua chừng sáu bảy cây số mới đến được chùa để lễ bái, nên quanh năm ít khách thập phương lui tới. Có phải vì vậy mà khi thoạt thấy chiếc Toyota mang biển số Campuchia lấm bụi dừng lại trước cổng, sư trụ trì Huệ Đức vội vàng ra đón? Không hẳn thế, ông vui mừng vì gặp lại một khách thân.
Sư đưa khách vào hậu liêu. Trà nhanh chóng được mang ra. Họ ngồi đối ẩm trên sập gụ. Gió từ ngoài vườn lan luồn qua các ô cửa nghịch những chùm phong linh phát hàng chuỗi kính coong nghe vui tai, thanh thoát như thể chúng được gảy từ chiếc đàn nào tận thinh không bay lạc tới chốn này. Thong thả uống cạn một tuần trà, sư nheo mắt ngắm khách.
- Con quả đúng hẹn, thầy đinh ninh thế nào con cũng ghé. Đi miền Tây về lúc nào?
- Dạ, trưa nay, về tới Sài Gòn, ghé bịnh viện xong là con đi thẳng đến đây.
Có vẻ bị dị ứng sao đó với cái bệnh viện Sáu Giang Hồ vừa buột thốt, sư Huệ Đức khẽ nhíu mày.
- Sở nguyện ở miền Tây con đã làm xong chưa?
- Dạ rồi!
- Họ còn sống và an lành cả chứ?
- Dà, ông Tám cũng thường dù đã già quắt như trái khổ qua, nhưng vợ cũ, đứa con trai của con và sắp nhỏ con của người chồng sau thì... khổ lắm.
- Con có cho họ biết nguyên do và mục đích chuyến về của con không?
- Dạ không?
- Sao vậy?
- Thấy không tiện, bạch thầy!
- Bất cứ chuyện gì, rõ ràng minh bạch vẫn hay hơn chứ!
- Nhưng lòng vợ cũ con giờ đã khác, người lâu nay con vẫn coi là cha nuôi thì con không đành lòng cho ổng biết sự thật.
Tiếng chuông gió vẫn tiếp tục thánh thót, hương lan tỏa nhẹ từ vườn vào tinh khiết đến hư ảo, nhưng bầu khí bỗng chùng nặng giữa hai người.
- Hãy coi mọi chuyển biến trên đời này là lẽ tự nhiên của vô thường, con sẽ thấy lòng nhẹ hơn.
- Trước đây để quên đi bi kịch bất hạnh của gia đình, con lao đầu vào công việc như điên, nhưng thân xác rã rời, cái đầu vẫn tỉnh táo không thể diệt trừ được ác mộng, con phải khổ sở chống chọi với chúng gần như hàng đêm. Đã đến lúc...
Thoáng tuyệt vọng làm tối sầm vẻ mặt ông khách, sư Huệ Đức châm trà thêm vào tách, điềm tĩnh nói:
- Đừng có lúc nào cũng sẵn sàng đầu hàng hay chủ bại. Nhớ không? Đã từng có lúc bị đối xử như thú vật, loi ngoi lóp ngóp tưởng đã xong đời, thế mà con cũng giũ được bùn và máu mủ tanh tưởi đứng lên.
- Thầy chợt nhắc khiến con chợt nhớ, có một chuyện hàng bao nhiêu năm con định bụng sẽ xin lỗi thầy rồi cứ quên đi.
- Chuyện gì?
- Cái hồi thấy bị kiết lị nặng ở trại Phnom Srais người chỉ còn nắm xương, con đã lén bắt cóc nhái, tắc kè sấy khô tán thành bột để thầy ăn cho lại sức ngại thầy sợ phạm tội ăn mặn, con đã nói dối là bột đậu nành pha củ năng.
- Tưởng gì, thầy biết nhưng tảng lờ để còn được sống. Vả lại, ở thời buổi lao động khổ sai, thuốc men chẳng có, gạo và muối hiếm hơn vàng thì cũng đành phải "phá chấp" thôi.
- Vậy thì con hiểu rồi, Thầy đã "phá chấp" đến độ khai với bọn chúng thầy là người Hoa thay vì người Việt.
- Ờ họ ghét cay ghét đắng người mình mà, thầy lại nói được tiếng Hoa nên... Chắc, gặp thời thế thế thời phải thế... thôi. Nhưng nói thì nói vậy, đến hết đời ngoài những tội nhỏ nhặt ấy, còn biết bao là tội nữa thầy phải sám hối.
- Thầy đã vậy thì bọn phàm phu tục tử như con phải sám hối cả ngàn kiếp may ra...
- Lại bi quan! - Sư lắc đầu - Phải trì chí hơn mới được. Theo thầy thì thời gian qua con đã thắng. Không thắng sao mang được hàng tỉ đồng từ Campuchia quay về giúp trẻ mồ côi, cơ nhỡ, các cụ ông cụ bà neo đơn, và giúp những người thân!
- Bạch thầy, đó chỉ là chút muối bỏ biển. Trước đây công việc và thời gian là hai trợ thủ đắc lực giúp con rất nhiều, nay thì con không con thời gian nữa, giữ tiền bạc cũng chẳng để làm gì.
Dẫu có vòng vo né tránh cách nào cũng đã đến lúc không thể không nhắc đến sự thật đang làm bận lòng cả hai người.
- Vừa rồi ở chỗ bệnh viện người ta nói thế nào?
- Phải nhập viện trước khi quá muộn!
- Muộn là bao lâu?
- Không bao giờ người ta cho bịnh nhân biết cái điều tối kỵ ấy, nhưng con biết thời gian sống của con bây giờ chỉ còn tính bằng tuần hoặc ngày.
- Con nên nghe theo chỉ định của các thầy thuốc. Đi ngay thôi, thầy sẽ đi cùng con.
- Có ích gì đâu, bạch thầy! Chuyến về này con đã làm xong sở nguyện của mình, con tính chuẩn bị chuyến đi... cuối cùng sớm hơn, trước khi bị nó quật ngã.
Cơ hồ hóa tượng trong giây lát trầm tư, đoạn sư vụt bừng tỉnh:
- Có nghĩa là... con muốn tự sát trước khi bị nó hành hạ, thậm chí... hành quyết? Không, đừng, còn nước còn tát chứ, ai lại...
- Nhưng, bạch thầy con vốn là một thằng hèn đủ thứ, đặc biệt chịu đau rất dở.
- Kẻ tự bóp chết, cắt đứt sự sống của chính mình tệ hại hơn một kẻ hèn, là một kẻ sát nhân!
Sư Huệ Đức đứng lên, bước lui tới, mày cau ríu lại hốt nhiên trông già sọm hệt ông già tám mươi chứ không phải chỉ mới ngoài sáu mươi.

Nhanh thật, mới đó mà đã bao nhiêu năm trôi qua. Thời ấy sư còn là đại đức trẻ, tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, giảng dạy môn triết Đông ở trường đại học Vạn Hạnh. Vốn ham mê ngôn ngữ học, sau Anh, Pháp và Hoa ngữ tương đối thành thạo, được Giáo hội trợ cấp học bổng, sư rời Sài Gòn lên đường xuất dương sang Ấn Độ nghiên cứu chữ Phạn rồi đến Campuchia học tiếng Khmer và chữ Pali - ngôn ngữ dùng trong Kinh sách Phật giáo của xứ sở này - tại một ngôi chùa lớn ở trung tâm thành phố Phnom Penh. Khóa học sắp hoàn tất thì xảy ra đại họa Khmer Đỏ, chùa chiền bị dẹp bỏ, sư sãi cũng chỉ là những công cụ lao động như hàng bao tín đồ của họ, bị dồn ra khỏi thành phố về các vùng nông thôn, bị lùa vào các trại lao động cưỡng bách đào mương đắp đập, sản xuất lúa, biến rừng hoang thành đồng trồng bông vải, thi hành bất cứ loại lệnh lạc nào của Angka Leu (2), thường trực bị hành hạ bằng roi vọt, báng súng, đói lạnh, bệnh tật, đa số trở thành mồi ngon của các đại dịch bệnh như tiêu chảy, kiết lị, phù thũng, suy kiệt thể xác lẫn tinh thần. Những ai bị kết tội phản động, không bám kịp hoặc đi ngược dòng "bánh xe lịch sử" thì bị xử tử công khai với thao tác thi hành án tiết kiệm đạn dã man: Dùng những công cụ hiền lành của nông dân, của đồng ruộng như lưỡi cuốc, lưỡi mai nhân danh cách mạng đập thẳng cánh vào gáy hoặc đầu nạn nhân, rồi hất thây xuống hố chôn trước đó chính họ đã đào sẵn. Sư không thể nhớ nổi mình đã trải qua bao nhiêu trại lao dịch từ Phnom Srais, Phnom Korg đến Year Piar, và các làng mạc rải dọc dòng sông Bassac hiền hòa ấy, đã từng suýt chết đói biết bao nhiêu bận, đã từng vượt qua những lần bệnh chí mạng ra sao!
Hồi mới vào trại tập trung, bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết thảm của ông Thạch Nu và vợ con, hễ thấy bọn mặc đồng phục đen, cổ quấn khăn rằn đỏ trắng ở bất cứ đâu lập tức Sáu Giang Hồ nghe tim bị bóp nghẹt, lòng nghẹn ứ uất hận, và mắt vằn ánh căm thù. Thỉnh thoảng hắn lên cơn hoảng loạn, buông bỏ cuốc xẻng giữa giờ lao động, vắt giò lên cổ chạy thục mạng, khóc lóc van lạy "đừng giết tôi, xin đừng giết tôi!" đoạn cười sằng sặc, có khi đang đêm chợt thức, bỗng cất tiếng sủa, tru lên như chó sói, hoặc thình lình nhào xuống sông, mương bơi lặn hệt rái cá hàng giờ. Ngoài những lúc lên cơn, hắn cần mẫn làm việc năng suất gấp hai ba người khác, đặc biệt rất kiệm lời. Có lẽ nhờ thế mà hắn được Angka giả ngơ, không "xóa sổ". Sư Huệ Đức luôn cầu nguyện cho tâm thần hẳn sớm tìm thấy lại sự cân bằng. Chẳng rõ có được Phật phò hộ độ trì hay không mà Sáu Giang Hồ bất giác tỉnh táo trở lại sau một sự cố ai cũng cho là lạ lùng: Hôm ấy có hai người chung trại bị xử tội trộm cá khô của bếp ăn tập thể và mưu toan đào thoát qua biên giới. Cam - Thái. Theo thông lệ, họ phải tự đào huyệt cho mình trước khi bị hành quyết, nhưng cả hai suy kiệt đến độ không thể động tay hay nhấc chân nổi. Sáu Giang Hồ bị chỉ định làm thay.
Đào xong chiếc hố đôi vã mướt mồ hôi, được thưởng một điếu thuốc, hắn điềm tĩnh hút thuốc thở khói, điềm tĩnh cùng bao người khác đứng chờ "thị phạm" phút cuối cùng của hai kẻ xấu số, và rồi hắn không thể điềm tĩnh được nữa khi hai nhát cuốc vung lên, hai cái thây bị bịt mắt đổ xuống. Sau tiếng thét xé lòng, hắn ngã ra bất tỉnh, mê man đến hai hôm sau mới choàng thức, ngơ ngác như thể từ hành tinh nào lạc tới. Từ đó những cơn hoảng loạn không còn nữa, mọi người trong trại kháo nhau, rằng những hồn ma vía quỷ náu ẩn trong hắn đã được hai tử tội bắt mang theo về địa phủ để hắn được bình yên, họ đền ơn hắn đã ra sức đào cho họ một chỗ nằm tử tế cuối cùng nơi trần thế!
Vào những ngày đen tối ấy, dù chênh lệch tới hơn mười tuổi đời, sư Huệ Đức và hắn đã trở thành đôi bạn thân. Một ông sư học thức đầy mình, xuất thân từ cửa Phật kết giao với gã giang hồ gốc gác mồ côi, cựu học sinh dở dang của trường Dòng, từng ẵm cả đồ thờ bằng bạc của nhà Chúa bỏ trốn đi bụi đời... Thoạt tiên từ lời ăn tiếng nói đến cung cách ứng xử giữa hai người có sự lựng khựng, khập khiễng, riết rồi cái khổ, cái đau, cái đói đã như những sợi dây vô hình ràng buộc họ cùng mối đồng cảm sâu xa của những tội đồ bị đạp xuống tận đáy địa ngục, cần phải tựa vào nhau để tồn tại, nuôi hy vọng sống còn. Hắn luôn đỡ đần sư trong các công việc lao động nặng, sẵn sàng sẻ chia, nhường từ miếng ăn đến hớp nước nhỏ, bao giờ cũng với thái độ hết sức tôn kính. Sư bù vào lỗ hổng kiến thức của hắn khá nhiều điều ông đã học hỏi, chiêm nghiệm từ cuộc sống trong lẫn ngoài cửa Thiền, cả những tinh hoa gạn lọc từ kinh sách triết học, Phật học. Có lúc sư quên bẵng hắn chỉ là đứa phàm phu tục tử, đầu óc gần như mít đặc, cứ huyên thuyên thuyết giảng để rồi ngẩn cả người khi chợt phát hiện hắn đã ngủ từ lúc nào chẳng hay, hoặc lơ mơ thả lỏng tâm trí tận đẩu tận đâu, ông đành mỉm cười mà rằng, ờ thì mình nói cho đỡ nhớ Thiền viện? trường lớp và lũ môn sinh không biết lúc này đã đi đâu về đâu cũng chẳng sao!
Ngày nọ, vận may - có mơ cũng không thể thấy - bỗng đến với Sáu Giang Hồ từ một người Campuchia gốc Hoa giàu sụ: Đại gia Basaka, vốn chơi thân với bọn chóp bu ở trại lao động. Trong đợt đội tạp vụ của trại được cắt cử đến tu sửa lại ngôi vườn, hồ bơi rộng mênh mông ở biệt thự của ông ta, hắn đã "lọt vào mắt" ông chủ lớn ấy, sau đó không những được bảo lãnh ra khỏi trại mà còn được mướn làm vệ sĩ vân vân và vân vân, như ông Tám Chài từng kể với Út Cưng.
Gần tám tháng sau ngày Sáu Giang Hồ ra khỏi "địa ngục", sư Huệ Đức và cơ man nào là nạn nhân cùng cảnh ngộ khắp đất nước Campuchia mới được quân đội Việt Nam giải thoát. Và, bây giờ hai người lại gặp nhau, nói như sư thì bởi vì, họ đã lỡ có duyên nghiệp với nhau đâu từ kiếp trước! Cái gã trai trẻ có lúc mất trí đã hồi phục được tâm trí, cái gã lầm lì đương đầu với bao khổ nạn dọc đời, ham sống ngày ấy, giờ buông xuôi, chán sống rồi sao?
Mặc ngày mỗi lúc mỗi xế bóng ngoài cửa, tiếng chuông gió không ngơi nghỉ, và hương lan dìu dịu kín đáo len vào tận các ngõ ngách lòng người, sư Huệ Đức tiếp tục bước hết chiều ngang đến chiều dọc hậu liêu, không chỉ đôi mày cau ríu lại mà hình như cả hồn lẫn xác sư cùng đắm vào suy tưởng. Mãi đến lúc khách đã kiếu từ ra về sư vẫn chưa dừng bước.

7.
Tay anh chị miệt vườn hoàn lương, kẻ bị tình phụ, ngư dân kiêm nghề mò xác, lái buôn đường sông, nạn nhân của Angka, con bạc xuất quỷ nhập thần, ông chủ Casino Ritz- Battambang, kẻ tự nhận mình là thằng hèn, con bệnh ung thư giai đoạn cuối; thực hiện chuyến đi cuối cùng của đời mình vào một đêm đẹp trời. Chiếc Toyota mang biển số Campuchia lấm bụi lặng lẽ rời đường lớn rẽ vào vạt rừng cao su bạt ngàn, dừng lại cách chùa Tĩnh Tâm Tự chừng hơn cây số. Máy xe vẫn nổ, đèn tắt ngấm, cửa kính được quay kín, ngưng hệ thống thông gió, máy điều hòa điều chỉnh độ lạnh tối đa và, trong bóng tối đặc quánh, hắn nhắm mắt lại nghe những lời ru buồn ngày xưa người vợ quá cố thường hát vẳng từ ổ máy CD nhỏ nhẹ vang trong bầu khí mỗi lúc mỗi cạn kiệt dần ô-xi, điềm tĩnh chờ thần chết mang mình qua khỏi biên giới mong manh giữa Sống và Hủy diệt. Trong khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mà dài dằng dặc ấy, lặng lẽ mà bạo liệt ấy bao kỷ niệm buồn vui sướng khổ, cay đắng lẫn ngọt bùi lũ lượt hiện ra, thoạt tiên chậm, sau dồn dập hàng hàng lớp lớp, hết đợt sóng quá vãng này tiếp lớp sóng quá vãng khác cuồn cuộn, cuộn siết chồng lấp nhau, cùng triệu triệu huyết quản li ti, tỉ tỉ tế bào đang hoặc sắp tan vỡ tranh nhau hô vang vĩnh biệt, vĩnh biệt! Rồi tất thảy hốt nhiên rút tạnh, chỉ còn mỗi lời ru độc chiếm. Giữa lúc tâm trí đẫm ngát lời ru buồn não nuột, hắn chìm dần vào hôn mê thì ở băng, ghế sau bỗng vang lên tiếng la hớt hải của Cu Hùm:
- Lạnh quá ba ơi, con chết mất!
Thằng nhỏ mở nhanh chuốt cửa, và sau cú máy điện thoại di động nó gọi cho sư Huệ Đức, Sáu Giang Hồ không thể bỏ ngoài tai sự van nài của đứa con tật nguyền, không thể cắt ngang nghiệp chướng, chuyến đi cuối cùng đành bỏ dở.
Làm thế nào "cài" được Cu Hùm vào chuyến đi chết chóc để nó can ngăn kịp lúc một người chán sống, đau đáu với ý định trở thành kẻ sát nhân của chính mình? Tôi - người kể lại câu chuyện này - hỏi sư Huệ Đức. Ông nói:
- Phàm là khi làm bất cứ việc gì với bằng hết thiện tâm thì lòng và trí huệ của ta sáng hẳn lên, sắp đặt mọi chuyện đâu vào đấy. Vả lại, vào giờ ấy ngày ấy chưa phải là thời điểm tận số của Huỳnh Văn Bé Sáu.

Chú thích:
(1) Lời Việt của Lê Giang
(2) Cơ quan đầu não của Khmer Đỏ.

<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 129
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com