watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
06:45:3626/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Sáu Giang Hồ
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Sáu Giang Hồ

Tác giả:  Mường Mán

"Sông gối đầu tay sóng
Rừng gối đầu tay cây
Người gối đầu tay gió
Nổi chìm mà quên bay." (1)
1.
Bến Củi chỉ còn là cái tên rỗng không, mọi dấu vết của khu xóm chợ ven sông ngày xưa gần như xóa trắng. Những vựa than, vựa củi có hoặc không mái che đã "bốc hơi" đằng nào, thay vào là những quán ăn, tiệm tạp hóa, hớt tóc tắm hơi mát xa... chen chúc mọc lên dù không hẳn ngay hàng thẳng lối, thoạt trông cũng biết chúng được uốn nắn theo một trật tự quy hoạch mới, mang đậm dấu ấn của làn sóng đô thị hóa tràn qua chốn này, chưa lâu nhưng cũng đủ xóa đi bộ mặt cũ, bộ mặt vẫn còn nguyên trong ký ức của một người cũ vừa quay về.
Quần áo tuềnh toàng, vẻ người mệt mỏi, lấm bụi, hắn tựa khúc củi mốc cời được trang điểm thêm cái mũ lưỡi trai và cặp kính đen, trông y chang một tên tù vừa được phép ra trại. Ngửa cổ nốc cạn chai bia, ném vỏ xuống mớ chai rỗng dưới gầm bàn đánh "xoảng" Sáu Giang Hồ nối thêm điếu thuốc mới, bóp tắt mẩu thuốc tàn giữa hai ngón tay chai sần, búng văng ra khoảng nắng ngoài hiên quán. Buổi trưa im ắng, không khí oi nồng không chỉ ngợp ngợp trên những mái tôn ánh chói, mà cơ hồ phong tỏa cả mọi giác quan, sẵn sàng bốc cháy nếu bị "châm ngòi" bằng một mồi lửa nào đó có hoặc không khói. Tiếng võng đưa kẽo kẹt sau quầy hàng bỗng im bặt, hắn hắng giọng:
- Ngủ sao bà chủ?
- Chưa! - Người đàn bà có bộ ngực thỗn thện phô lập lờ dưới viền cổ áo trễ nải ngồi lên, quơ chân giữ yên võng, ngáp rõ to, nói:
- Chú cần gì à?
- Không, lúc nãy chị nói là đã về đây mở quán từ hơn ba năm nay?
- Ừa, rồi sao?
- Có một thằng đầu trọc tếu, chuyên uống bia bằng cách đập bể cổ chai vào ống quyển chân gác lên bàn, nó có thường ghé đây không? Hoặc lui tới khu này không?
- Uống bia bằng cách... Làm gì có. Ở đây dân quậy cũng nhiều, nhưng hổng có tay nào quái vậy đâu.
- Lẽ nào nó không còn bám đất này?
- Xưa chú cũng đã từng ở đây sao?
- Dà!
- Và chắc bỏ đi cũng lâu rồi?
- Ngoài mươi năm.
- Trời, giờ toàn dân mới không à!
Ngoài mươi năm. Biết bao bèo đã trôi qua ngoài bến, mây bay qua bầu trời. Người cũ đa số có gốc gác trôi sông lạc chợ, giờ tứ tán theo những cảnh đời gạo chợ nước sông khác. Người nào còn, kẻ nào mất họa là chỉ có trời hoặc đất biết. Đứa vẫn còn kéo lê được chiếc bóng quay về như hắn bỗng vô danh trước bến sông quen thuộc cũng là lẽ thường thôi! Tiếng võng lại tiếp tục kẽo kẹt. Chiếc võng đay già nua nhẫn nại đong đưa cái túi thịt gần cả tạ. Gã khách chưa say lắm, nghe đâu đó trong sâu thẳm lòng mình chút cảm giác buồn nẫu nuột, trống rỗng lặng lẽ sủi tăm.
Chiếc xe đạp đòn dông cũ sờn đèo quài dừa trĩu trái dừng lại trước cửa, người đàn bà tháo vội chéo khăn rằn bịt mặt chống bụi, lột chiếc mũ vải rộng vành cầm tay quạt lia lịa, ngước gương mặt đỏ gay vì nắng trông hút vào gọi:
- Dừa nè chị Ba!
Hệt phải bỏng, vừa thoạt chạm ánh mắt người đàn bà lia qua cửa, Sáu Giang Hồ giật thót, kéo sụp mũ lưỡi trai xuống ngang mũi, đưa lẹ tay lên chiếc kính đen để yên chí nó vẫn còn che nửa khuôn mặt có cái bớt mầu đỏ bầm vắt chéo trên chân mày mắt trái.

2.
Sông Hậu dịu sóng. Gió thổi xoay tít cái chong chóng gấp bằng giấy báo cắm đầu nóc mui. Thằng nhóc trần như nhộng nằm ngửa, đầu gối tay, nheo mặt nhìn cái chong chóng mê mải, "con chim" rám nắng trông ngộ nghĩnh hệt con sò cắm chóc ngóc giữa cặp chân ngắn ngủi phơi ngoài khoảng trống lổ đổ hoa nắng rụng từ tán còng xuống.
Trong mui, chai đế còn lưng nửa, đĩa mồi cóc ổi, khô cá khoai còn đầy. Ông Tám Chài cạn ly, Sáu Giang Hồ đỡ lấy rót đầy đặt nhẹ xuống sạp ghe chao nhẹ trên lưng sóng.
- Nghe qua đi, ở hiền gặp lành, giờ chú mầy hổng còn trẻ người non dạ gì nữa mà mua thù chuốc oán, phải để đức cho con cháu mai sau Sáu à.
- Con mua thù chuốc oán?
- Chú mầy nghễnh ngãng thiệt hay giả bộ vậy?
- Tía... nói gì con không hiểu.
- Bộ không nghe người ta đồn rần lên hổm rày hay sao?
- Người ta... là ai hả tía?
- Thì bà con chòm xóm.
- Bà con chòm xóm nào đâu, con về thấy toàn lạ hoắc lạ huơ...
- Chú mấy khéo giả ngộ thiệt! - Ông Tám cười rung chòm râu bạc, cầm khúc cá khoai huơ huơ như vẽ bùa trước mặt hắn. - Bà con còn nhiều lắm, ở tản mác quanh đây thôi, nhưng có khi người ta tránh mặt.
À ra vậy! Tránh như người dương thế tránh hồn ma bóng quế về từ âm ty địa phủ, hay như người lành tránh con hủi? Hắn chua chát nhủ thầm, thoáng khựng sững, thấp giọng:
- Vậy người ta đồn sao hả tía?
- Đồn chú mầy về tìm con Út Cưng để thanh toán mối hận xưa, đòi lại thằng Cu Hùm.
Tợp ngụm rượu, cầm chai rót đầy, Sáu Giang Hồ găm mắt xuống đĩa mồi như thể mấy miếng ổi bất thần nẩy lá, hoặc mấy con khô khoai hốt nhiên giương vây lừ mắt gì đó, ông Tám nóng nảy:
- Có đúng vậy không?
- Không đúng! - Hắn lắc đầu.
Cái lắc đầu trông buồn nản hơn là thanh minh. Hôm bất ngờ gặp lại Út Cưng - người đàn bà đèo quài dừa đến bỏ mối ở quán bà Ba Xuân - không muốn và cả không chờ đợi, hắn vẫn nhăn mặt vì nghe cơ hồ có chiếc kim bén buốt cắc cớ thuốn qua tim, suýt buột miệng gọi nàng, nhưng rồi đã ngậm miệng, và thêm lần nữa đành để người từng có thời đầu gối tay ấp quay lưng biến khuất vào điệp trùng những đàn bà con gái - hắn đinh ninh - trái tim thủy chung hay gian trá chỉ có quỷ sứ may ra mới biết. Vẻ người lam lũ hôm ấy của nàng khiến hắn quá đỗi ngạc nhiên, bởi khác quá xa Út Cưng thời nào trong kí ức.

Dạo ấy trên "lãnh địa" từ Rạch Cá Lóc đến Xẻo Trâm Bầu dài chừng mười lăm cấy số, dọc Bến Cá dài tới Bến Gạo, Bến Củi, Sáu Giang Hồ "trấn" khúc đầu, Mãnh Cụt "trấn" khúc đuôi, mỗi đứa có vài chục đàn em chung mâm chung chiếu, ngoài nghề bốc vác, chúng kiêm luôn các nghề phụ như đâm thuê chém mướn, buôn gian bán lậu trên bộ lẫn dưới sông, các phe cánh khác lỡ lạc bước vào không mẻ đầu thì cũng sứt trán. Hai phe chung sống khá hòa bình, thậm chí rất thuận thảo, nhưng rồi vào cái đận hạn Bà Chằn năm nọ, Sáu Giang Hồ không may bị vướng vào mẻ lưới quét hàng cấm, bị vô tù mất ba nằm. Gỡ xong ba cuốn lịch quay về đời thường thì thằng con đầu lòng - Cu Hùm - đã có thêm đứa em gái lên hai, và đứa nữa còn trong bụng mẹ. Căn nhà cũ trong hẻm Tàu Hũ không còn. Nơi ở mới của mấy mẹ con là một căn phố ngoài đường lớn buôn bán quần áo khá khang trang. Hỏi Cu Hùm, Út bảo nó đi học. Hỏi cha của đứa gái và đứa sắp chào đời là ai, nàng một mực không nói, khóc lóc mà rằng, vắng hắn như rắn mất đầu, bọn đàn em đứa bỏ nghề đổi xứ đi nơi khác, đứa đầu quấn sang phe Mãnh Cụt, hai mẹ con thành ra bơ vơ chẳng ai đỡ đần hôm sớm. Đe nẹt có, năn nỉ ỉ ôi có, nhưng Út Cưng vẫn câm như hến không cho hắn biết Cu Hùm học ở trường nào, xem ra đã ôm cầm sang thuyền khác, nàng vẫn khư khư giữ lấy núm ruột của mối tình "trai tứ chiếng, gái giang hồ" nay đã thành quá vãng, để hắn vốn trắng tay càng tay trắng luôn!
Chưa bao giờ hắn cảm thấy lòng đắng và đau đến vậy, cất mình ra đường mà chẳng chút ngạc nhiên khi cô vợ cũ sau cơn khóc bảy phần than vãn, ba phần kể khổ mắt vụt ráo trơ hệt mắt cá ươn, không có lấy dù chỉ nửa lời níu giữ gã chồng cũ. Bao nhiêu mường tượng về cuộc hội ngộ đầm ấm phút chốc tan thành mây khói đã đành, bẽ bàng hơn, không chỉ trái tim nàng vuột mất mà cả cái da cái thịt nõn nường kia cũng đã thuộc về những chiều quấn quít trộn tóc hòa nồng, hà hơi ấp lạnh, những khuya kêu đòi trườn rướn, siết rên hoan lạc... trong tay thằng khác. Sự phản bội phũ phàng, ngang nhiên nhưng hình như nàng không hề có lỗi mà muôn sự đều do hắn. Ôi, cái đồ ngu như heo chưa thiến, hồi đó có mỗi mấy lạng "cơm tiên" cũng để cho bị mắc lưới! Hắn tự rủa thầm cho đỡ... đắng.
Vào một chiều mưa tầm tã, do ma đưa lối quỷ dẫn đường sao ấy, Sáu Giang Hồ bước vào một quán nhậu quen thuộc nay đã "lên đời" thành nhà hàng, và hắn bỗng gặp lại Mãnh Cụt. Đầu vẫn trọc tếu, áo chim cò, quần Jeans và giầy da đen bóng lộn. Mãnh Cụt ngồi một mình, chân gác lên bàn, uống bia theo lối quen đã thành tật: Cầm chai quật vào ống quyển đánh "chong", cái cổ chai vỡ ngọt y như bị tiện đứt rồi ngửa cổ tu ừng ực. Người lạ thấy màn "diễu võ dương oai" ấy mười người hết chín rưỡi thường lác mắt phục lăn, còn những ai biết tỏng dưới lớp quần Jeans là cả một ống sắt chân giả thì bĩu môi khinh miệt, hoặc cười khẩy hàm ý không tán thưởng cũng không chê bai.
Thoạt thấy Sáu Giang Hồ thả phịch người xuống ghế đối diện mình, Mãnh Cụt quắc mắt nhìn lom lom đoạn cả cười rụt vội hai chân xuống gầm bàn.
- Trời đất, mầy hả Sáu? Cứ ngỡ tay yêng hùng mạt vận nào, đại ca ra hồi nào vậy? Sao hổng báo trước để đàn em đi đón? - Quay mặt vào phía quầy, gã lệnh: - Tiếp khách... tới bến luôn nghe tụi bây!
Sau tiếng "dạ" ran, bia và mồi được hai cô tiếp viên trắng y như bông bưởi, đỏ y châu sa, mượt mà y... cháo chảy bưng ra với dáng đi hao hao những người mẫu trên sân khấu, hai chân khẽ bước cheo chéo nhau, dặt dè như thể ngại trái chanh trái táo gì đó kẹp sau làn váy cũn cỡn bất chợt rơi vãi ra.
Mặc giọng lưỡi đểu cáng của thằng "đồng nghiệp" cũ, "đại ca Sáu" lầm lì ăn và uống, cơ hồ lỡ nuốt trọng mất lưỡi, chẳng hở ra tiếng nào. Mãnh Cụt tiếp tục thượng chân lên bàn, trưng cặp đế giầy chỉ cách mũi "đại ca" vài tấc, tiếp tục uống bia kiểu trêu ngươi nọ và, thao thao gần như bất tuyệt từ chuyện này sang chuyện nọ. Dù chẳng mảy may tin những khoe mẽ thành tích, bốc phét uy danh trong câu chuyện thuộc loại "tào lao bắc xế" của Mãnh Cụt, Sáu Giang Hồ cũng không thể không thừa nhận rằng, bây giờ gã chẳng những giàu tiền lắm của mà thế lực cũng trội hơn ngày xưa, cả cái khoản học làm sang cũng được gã chăm chút kỹ.
Ném cái chai rỗng xuống gầm bàn, Mãnh Cụt chìa hộp xì gà về phía Sáu, hắn nhón lấy một điếu, Mãnh vội bật quẹt ga đưa tới, đoạn với thao tác vặt khá điệu nghệ, gã búng một điếu lên cao há miệng theo kiểu chó đớp xương ngậm lấy đằng cán, dùng lưỡi lùa từ mép trái sang mép phải trước khi châm hút, thổi khói mù mịt. Sáu Giang Hồ bật thốt, giọng bực bõ:
- Đ. m, bao nhiêu năm cũng chỉ mấy trò khỉ cũ rích.
- Ngại thấy những trò mới của tao mầy sẽ ngất xỉu, từ từ thôi con ạ! Sao? Đ.m, hợp tác với bọn này chớ?
Vẻ mặt câng câng của tay du côn vườn xưa vốn ngang cân đồng lượng với mình giờ trông sao tởm đến vậy? Thay vì tương một quả đấm vào mặt gã, Sáu Giang Hồ lại thấy mình "nhẫn nhục" nói giọng của kẻ lép vế:
- Kiểu nào?
- Chung vốn kinh doanh! Trò này bảo đảm... mới!
- Vốn máu hay mồ hôi vậy?
- Bậy, tiền chớ! Kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
- Tao cháy túi, mầy thừa biết.
- Vậy thì... làm công ăn lương!
- Tao không tin mầy là một ông chủ tốt.
- Xin lỗi mầy! - Mãnh Cụt mủm mỉm cười, gõ nhẹ nắm đấm lên bàn đệm cho câu nói nhả rời từng tiếng nửa cười cợt nửa nghiêm chỉnh một cách khó thể nghi ngờ: "Tao không tốt mà dám dang tay xoạc chân chào đón, bảo bọc vợ con mầy trong lúc mầy đi tù à?".
Nghe tim vụt nhói như vừa nhận một nhát dao trí mạng, Sáu Giang Hồ bật dậy, run giọng:
- Thì ra... Mấy chính là... là...
Và, thói côn đồ bao năm tạm lắng, ẩn tàng đâu đó trong xương cốt bất chợt vùng dậy, hắn quơ lấy chai bia uống dở nhắm Mãnh Cụt vụt tới, gã né tránh, bật tiếng cười ha hả. Bàn nhậu tức khắc bị Sáu Giang Hồ đạp đổ, cũng là lúc hắn bị kềm cứng bởi hai thằng to con, mình trần trùng trục, mặt mũi trông hiền khô như thể vừa từ đất nứt lên và, trận đòn hội chợ bắt đầu.
Chẳng biết mê man trong bao lâu, hôm sau hắn choàng tỉnh, thấy mình nằm trên ghe ông Tám Chài, cả xác lẫn hồn đau ê ẩm. Trong ánh nắng sớm mai như rải hàng tỷ con rắn vàng óng trên sóng nước lăn tăn, ông Tám nheo mắt cười, nói:
- Lâu nay qua toàn vớt xác hiền lành trôi sông, trời xui đất khiến thế nào bữa nay lại vớ phải cái thây chưa thèm chết, lại là một thằng đầu trộm đuôi cướp.
Hắn kinh ngạc:
- Ủa, sao ông... biết...
- Chú mầy nổi tiếng cùng hung cực ác từ Bến Củi đến Bến Cá ai hổng biết.
Ngoài nghề chài lưới, bao nhiêu năm rồi không nhớ nữa, ông Tám còn kiêm nghề vớt những cái xác có người thân hoặc vô thừa nhận, tự nguyện chọn sông làm mồ, hoặc sơ sẩy, bị tai bay vạ gió phải trôi sông. Ông coi đó như việc làm tích đức, không bao giờ ngửa tay nhận thù lao, chẳng bao giờ chậm trễ, nhưng cũng chưa bao giờ cứu được kẻ xấu số nào khi hơi thở mỏng manh của họ lỡ bị sóng cuốn đi, vậy mà hôm ấy ông đã giành lại hắn từ tay Hà Bá, trả lại hơi thở cho thằng tù vừa mãn hạn đang ngắc ngoải vì tình phụ, lại bị bồi thêm một trận thừa sống thiếu chết chẳng phân biệt nổi đòn thù hay đòn ghen. "Dưỡng thương" chừng tuần lễ mới tương đối lại sức, Sáu Giang Hồ quỳ móp tạ ơn, khẩn thiết xin ông Tám nhận làm con nuôi. Ông thẳng thừng từ chối:
- Từ lâu qua lỡ coi sông là vợ, sóng là con, và những oan hồn trôi sông là bè bạn mất rồi. Vả lại đức của nhà qua mỏng lắm, hổng dám nhận làm cha một tay du côn du kề danh tiếng lẫy lừng cỡ chú mầy đâu!
- Con vốn từ trại trẻ mồ côi bước ra đời, giờ tứ cố vô thân, tía kể như đẻ con lần thứ hai - Hắn nghẹn ngào nói - Từ nay con xin thề...
- Bây toàn thề kiểu cá trê chui ống, hơi đâu tin. Thôi vầy nghen, có chú mầy đêm hôm qua cũng đỡ hiu quạnh, vui thì ở, buồn cứ đi.
Dù không được ông Tám chấp thuận, Sáu Giang Hồ vẫn cần mẫn, chí thú làm "con nuôi", tỏ ra tu tỉnh hẳn. Ngày ngày dang nắng đội mưa chịu khó tập bơi, lặn, cắn răng nhận những cái tát nháng lửa của ông Tám mỗi lần do quen thói buột miệng chửi thề. Sóng gió sông nước hiền hòa không chỉ "ăn" vào cái da cái tóc mà hình như còn lận cả vào tận tâm can gã đàn ông vâm váp, chắc nịch, phụ tá đắc lực của ông Tám trong nghề chài lưới lẫn "nghề" mò vớt xác. Ngạc nhiên thấy hàng tháng ròng hắn không một lần rời ghe lên bến, đôi khi ông nhắc nhở, hắn chỉ mỉm cười rồi lảng sang chuyện khác, có lần ông bực bội gắt:
- Nè, chú mầy tính trói mình vô cái ghe tàng này mãi hay sao?.
- Dạ đâu có, đơn giản là con cũng chọn sông làm vợ y như tía vậy mà! Hắn nửa đùa nửa thật.
Ông Tám trừng trợn:
- Bậy bạ nghe mầy, phải kêu sông bằng má mới đúng chớ thằng ba trợn!
- Chừng nào tía chịu nhận con làm con nuôi, con mới... còn lúc này...
- Chú mầy là... tình địch của qua hả thằng đầu trộm đuôi cướp?
Hai người cùng cười, ông Tám nhìn xoáy vào tinh mũi hắn:
- Qua già rồi không kể số gì nữa. Chú mầy còn trẻ...
- Vậy tía muốn con quay về nghề cũ à?
- Bậy, ý qua muốn nói là có cả trăm cả nghìn kiểu hoàn lương, không cứ gì phải tự giam mình giữa sông nước như vầy.
Sáu Giang Hồ trầm ngâm, có vẻ nghĩ ngợi rất lung và, sau đó hắn không còn tự neo mình vào chiếc ghe già nua suốt ngày đêm nữa, thỉnh thoảng lên bến lang thang đâu đó, đôi khi còn theo ông Tám đi ăn đám giỗ những người xấu số ông coi là bạn bè, đã từng được ông vớt từ sông lên. Nghe vài người ở chợ mách lẻo, mỗi khi lên phố chợ hắn thường lui tới khu nghĩa địa đối diện Trường tiểu học Ngày Mai, ông Tám tò mò:
- Nè Sáu, chú mầy có vụ mần ăn gì bí mật mà thỉnh thoảng lại vô nghĩa địa?
Thoạt tiên ngậm tăm, bị cật vấn riết hắn đâm bực, dấm dẳng nói:
- Làm gì có phi vụ bí mật bí mơ nào. Thoáng ngập ngừng rồi hắn làu bàu tiếp: - Chẳng qua lâu lâu nhớ thằng Cu Hùm, con lại tới đó nhìn lén nó đi học về.
- Nhìn trộm nó hay là... con mẹ nó?. - Ông Tám nói giọng cà rỡn, hắn đổ quạu gắt:
- Chỉ riêng nó thôi, không tin thì cũng mặc tía, đồ ông già... nhiều chuyện!
- Nhìn lén à? Sao chú mấy hèn vậy? Phải giành nó khỏi tay con đờn bà thay lòng đổi dạ chớ!
- Đúng, con chỉ là một thằng hèn!
Hắn cúi gầm mặt. Ông Tám cả cười:
- Đừng có buồn, qua chỉ đùa thôi. Suy cho cùng lúc này thằng nhỏ ở với má nó vẫn ấm hơn với chú mầy, sông có khúc, người có lúc, biết đâu sau này...
Ngày tháng cứ thế êm xuôi, ông già sông nước ngày mỗi thấy gần gũi Sáu Giang Hồ hơn, ngày mỗi tin hắn hoàn lương thật. Hệt người dạy thú trong sở thú thấy con hổ được mình thuần hóa trở nên hiền lành giống con chó nhà, ông Tám ngầm "sướng" về cái thành quả - dù chẳng được ai ghi nhận - mình đạt được. Lại nữa, sau vài lần trái gió trở trời, ốm đau èo uột, được hắn tận tình chăm sóc từ thuốc men đến miếng ăn giấc ngủ, ông chợt ngộ ra, tình cảm "con nuôi" ở hắn là thứ tình chân thật, định bụng hôm nào sẽ làm bữa tiệc nhỏ, để hắn chính thức được kêu sông Hậu bằng má, không còn "phạm thượng" đòi đóng vai tình địch nữa, nhưng rồi...
Vào một ngày không còn nhớ đẹp hay xấu trời, cái bến Cây Còng đêm đêm ghe chài về ngủ đậu thường trống vắng chợt có chiếc ghe khác tới neo đậu kề bên. Ghe thương hồ chuyên doanh mặt hàng đường thốt nốt từ Campuchia xuôi về bỏ mối cho các vựa, chợ ven sông, sau đó trong chuyến ngược chở khẳm lừ các loại hàng đặc sản miền Tây Nam Bộ. Ông Thạch Nu chủ ghe là người Khmer vui tính, luôn tươi cười nhưng chỉ có thể nói chuyện với người khác qua động tác của những ngón tay. Cô con gái lai Việt có mầu da nâu sáng hơn cha, mảnh mai, rắn rỏi, và trông trẻ hơn cái tuổi 30 vốn có. Ban ngày cô lanh lợi, hoạt bát bao nhiêu thì - lạ thay - về đêm, giọng hát cổ nghe buồn bấy nhiêu.
Dẫu một tháng chỉ vài lần ghé bến, tiếng hát buồn não nuột vẳng từ cái ghe bầu ấy thường khiến Sáu Giang Hồ bồn chồn đến mất ngủ. Tiếng hát đêm đêm trong thế giới hết sức kiệm lời, nếu không muốn nói là hoàn toàn câm lắng của hai cha con man mác chút huyễn hoặc, gợi mối cảm hoài lạ lùng nào đó ở người nghe. Ban đầu lạ, hắn không tiện hỏi, dần dà quen, một hôm hắn đánh bạo hỏi cô "hàng xóm":
- Sophi à, tôi hỏi nếu không phải cô bỏ quá cho!
Nàng khẽ nhíu mày, mủm mỉm cười, nói giọng Việt hơi cứng nhưng khá tròn vành rõ chữ:
- Có gì đâu, anh Sáu cứ hỏi, nếu là chuyện không đáng nghe Sophi chỉ việc bỏ ngoài tai.
- Sao cô chỉ thích hát vào ban đêm? Những bài hát tiếng Khmer tôi không hiểu nhưng nghe thiệt buồn, nghe riết thuộc luôn.
- Anh Sáu có xạo không vậy?
Sophi nửa ngờ nửa tin. Hắn cố uốn giọng bắt chước âm điệu một bài cô hay hát:
- Kôn ơi, Kôn kênh tơn oôna xrây puu âu kôn kon dum mđai kôn tơn phxa phnhơ num... Sophi có thể hát bài này bằng tiếng Việt không?
Đôi mắt long lanh ánh ướt vẻ vui khôn tả, cô không hát mà dịu dàng nói:
- Cũng dễ hiểu thôi, dịch ra tiếng quê ngoại Sóc Trăng của Sophi thì: Con ơi nghe lời cha ru. Mẹ con đi chợ tới trưa mới về. Mẹ về cho bánh sa kê. Cho đầu con gối con kê lên đùi. Mẹ cưng con ngủ cho mùi. Chân mẹ làm đệm tay thời ôm con. Ngủ đi, đừng khóc, cha thương!
- Thì ra là một bài hát ru con. Hắn bỗng đổi giọng cà khịa: - Nhưng nghe Sophi hát ru tôi lại... mất ngủ, lạ quá hà!
Cô gái nhại đúng ngữ điệu của hắn:
- Đơn giản vì... anh Sáu có phải là con của Sophi đâu!
- Ờ há! Mà sao lời bài hát lại là cha ru...
- Đố anh Sáu biết?
- Chịu!
- Sophi mất má từ lúc mới lọt lòng, cha phải ru dỗ, nuôi nấng Sophi chớ còn ai khác nữa?
- Thì ra... trước đây ông không hề...
- Cha Sophi mới bị mất tiếng chừng vài năm nay thôi, sau một trận đau liệt giường liệt chiếu tưởng chết hồi còn ở Biển Hồ.
- Ngày xưa ông hát ru Sophi ngủ, bây giờ cô hát ru ai?
- Thì cũng... ru con.
- Hình như bên ghe cô đâu có trẻ con.
- Không trẻ con thì ru búp bê cũng đâu có sao!
Vừa nói cô vừa ngước cái nhìn xa vắng lên trời, hắn cảm thấy rờn rợn như thể trong giây lát sẽ có một đứa trẻ vỗ đôi cánh lấp lánh bảy sắc cầu vồng bay xuống từ những đám mây, và nàng sẽ ẵm nó, sẽ đong đưa nó dịu dàng trong vòng tay mầu nâu sáng, phơn phớt lông tơ, và cất tiếng não nuột hát ru.
Giữa lúc mối giao hảo láng giềng đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp thì chiếc ghe thương hồ ấy đột nhiên vắng bặt, chẳng thấy ghé bến Cây Còng nữa. Tiếng hát ru quen thuộc trở thành nỗi nhớ lúc nào chẳng hay, khiến Sáu Giang Hồ đâm ra bực bõ chính mình, rằng khéo bận tâm vớ vẩn, thế nhưng không ít lúc hắn giật thót, bắt gặp mình lẩm bẩm "nhại" lại những lời ru buồn Sophi từng hát. Tình cờ nghe thấy, ông Tám chẳng nói gì, chỉ nghĩ bụng: "Con hổ" lại nhớ rừng, không khéo nó phải lòng tiếng hát như ngải như bùa ấy mất rồi!
Vắng chiếc ghe chở lời ru buồn về đâu chẳng biết chừng hơn hai con trăng, Sáu Giang Hồ lặng lẽ ra đi, để lại đôi dòng viết nguệch ngoạc trên bề lưng lờ lịch ngày hôm ấy, lén bỏ vào cái khạp da bò, nơi vừa đựng gạo ăn hàng ngày, vừa cất tiền dành dụm của ông Tám Chài: Con mạn phép mượn tía ít tiền, mong tía đừng giận. Chắc chắn có ngày con sẽ trở về. Huỳnh Văn Bé Sáu. Tờ lịch đến nay ông Tám vẫn giữ dưới đáy khạp và, thoáng chốc mới đó mà đã hơn mười năm.

3.
Thằng nhỏ ngoài mui ngủ lúc nào chẳng hay. Nắng nghiêng bóng che mát cả người nó, "con chim" vẫn hồn nhiên chìa lên trời. Cái chong chóng tiếp tục quay mòng. Gió lớn hơn, lá rụng nhiều, cây còng đang mùa thay lá. Trong mui, cuộc nhậu đã tàn, hai người chuyển sang uống trà quạu.
- Nói đi, có phải hồi đó chú mầy chịu hổng xiết cái bịnh tương tư, nên bỏ qua đi tìm... - Ông Tám nói. Sáu Giang Hồ mỉm cười, cái bớt vắt chéo trên chân mày mắt trái đỏ au y tôm luộc:
- Tía biết tỏng rồi còn giả bộ!
- Rồi có gặp không?
- Dạ có, tía Sophi coi vậy nhưng khó dàn trời, ban đầu ổng nhứt định không chịu, riết con mới làm ổng... mê. Chốc, Sophi đã một lần... gãy gánh nên ổng...
- Chú mầy lấy lòng ổng bằng mấy ngón tay ra dấu hả?
- Dạ không, bằng sự cần mẫn kiên trì bám riết. Chuyện dài lắm, ly kì lắm, nhưng tóm lại là...
- Là... sau cùng chú mày cũng cho con nhỏ cái nó cần?
- Dà!
- Một đứa con để tha hồ ru hỡi ru hời thay vì con búp bê bằng mủ?
- Đại để vậy không chỉ một mà tới hai đứa. Tụi con ăn nên làm ra, và sống rất hạnh phúc, nhưng rồi... - Cảm thấy trái tim cơ hồ bị bóp nghẹt bởi bàn tay phải gió nào, ắng lặng giây lát, hắn lái câu chuyện sang ngõ khác: - Con quả có tội lớn, xưa đã có lần con nói với tía con là thằng hèn, hơn mười năm qua con lại là đứa bất nghĩa không một lần về thăm tía, may mà tía...
- Ờ, may mà qua chưa về quạt nước pha trà hầu tiên tổ dưới chín suối. Chú mầy còn bất nghĩa cả với thằng con trai, thằng Cu Hùm.
- Ơn trời, con đã gặp nó rồi!
Hôm tình cờ gặp Út Cưng ở quán bà Ba Xuân ngoài Bến Củi, dù tránh mặt, nhưng rồi hắn cảm thấy không thể không biết tí tin tức nào về nàng, bèn hỏi bà Ba. Bà này chẳng biết gì nhiều, chỉ nói một cách hờ hững: - Nghe đâu nó ở tuốt trong Rạch Gừa!
Rạch Gừa không hề xa lạ. Đó là nơi ngày xưa hắn rất ngại ghé, bởi mỗi lần thấy mặt là bà Chín Cải lại kiếm cớ chửi chó mắng mèo, xàng thúng đụng nia, rủa xiên mắng xéo, thở vắn than dài rằng nhà bà vô phước, có mỗi mụn con gái rượu sau năm thằng con trai chẳng ra gì, nó lại vớ nhằm đứa đầu trộm đuôi cướp.
Trong căn nhà lá trống trước trống sau, nắng xế trưa dọi qua những lỗ thủng trên mái trên vách đổ xuống mặt sàn ẩm hàng loạt hột gà dẹt, tròn, méo, dị dạng. Trên chiếc giường tre trải manh chiếu cũ, thằng Hùm nằm thu người dưới tấm mền chỉ cũ sờn, dù đã mười bốn tuổi trông nhỏ thó giống đứa trẻ lên chín, mở mắt thao láo trông lên mái lá như thể trông chờ phép lạ nào đó sẽ đến từ cái thiên đường hư ảo trong những truyện kể đêm đêm của mẹ nó và, phép lạ đã đến với nó thật. Chẳng phải đến từ cái nơi có hoa thơm cỏ lạ, cây trổ toàn bánh kẹo, lủng lẳng đủ thứ đồ chơi, lắm thức ăn thức uống ngon lành dành cho những thiên thần xinh ngoan vân vân thoắt ẩn thoắt hiện trên chín tầng mây, mà đến từ những bước chân của Sáu Giang Hồ bước qua khung cửa ọp ẹp mở toang hoang suốt bốn mùa. Thoạt nghe tiếng chân, nó thoáng giật thót, chõi mạnh tay cố nâng nửa phần người phía trên nhổm lên, nghểnh cái cổ ốm o, dài ngẳng trông ra, khẽ nhíu đôi mày thơ dại hỏi khẽ:
- Ai đó?
- Cu Hùm có nhà không?
- Tui là Hùm đây, ông... ông...
Thằng nhỏ giương mắt nhìn ông khách chẳng có dấu ấn nào trong kí ức nó.
- Ba đây, ba của con đây!
Thấy thằng nhỏ chẳng tung mền bật dậy, chỉ động đậy mặt mày đã co rúm lại một cách đau đớn, hắn rảo bước tới, vẻ mặt thiểu não của Cu Hùm khiến hắn gần như sụp xuống, quỳ móp bên giường.
- Con bịnh hay sao vậy?
- Con bị... liệt mất rồi! Cu Hùm nở nụ cười méo xệch.
Khựng sững, bất động một giây, hai giây rồi ba giây... Sáu Giang Hồ bưng mặt khóc tấm tức. Tiếng khóc cố nén tải ngầm sự đau khổ cùng cực làm chuyển rung cả ngôi nhà lá. Tiếng khóc phát từ gã đàn ông dãi dầu sương gió, bặm trợn nghe kì quặc làm thằng nhỏ tật nguyền sợ đến sởn ốc, mếu máo khóc theo. Từ năm lên tám, sau một trận sốt li bì, chứng bại liệt đã làm teo cơ đôi chân tội nghiệp của nó.
- Gặp thằng Hùm rồi có gặp má nó không? - Ông Tám chiêu ngụm nước trà nguội ngắc.
- Dạ có, nhưng cũng kể như không! - Sáu Giang Hồ khẽ lắc đầu - Hôm đó ở chợ về không biết nghe lời của đứa ác khẩu nào, ngỡ con bắt cóc mất thằng nhỏ, Út Cưng lồng lộn đi tìm, gặp hai cha con trong một tiệm cơm, nó la toáng lên, nhiếc mắng đủ điều, quăng trả lại tất tần tật những thứ con mua sắm cho thằng nhỏ kể cả chiếc xe lăn, lôi nó lên xe ôm dông biến. Con gom tất cả các thứ quay lại Rạch Gừa. Út Cưng không thèm mở cửa, cái cửa ọp ẹp chỉ cần đạp một cái là... nhưng con cố dằn nén, để các thứ trước hiên. Hổng biết lóng rày mẹ con nó sống ra sao?
- Thỉnh thoảng qua cũng có gặp nó. Giờ nó bán rau quả ngoài chợ, lam lũ lắm, hổng còn ăn trơn mặc láng như xưa.
- Thằng Mãnh Cụt...
- Tiêu rồi, dễ chừng cũng ba hay bốn năm gì rồi, sanh nghề tử nghiệp mà, nó cho nhiều người ăn dao nên đến ngày tận số dao ăn nó cũng là lẽ thường tình, lẽ công bằng của trời đất. Tay anh chị, gã già nhân ngãi non vợ chồng đột ngột mất đi, cái cửa hàng quần áo ngoài phố bị các mụ vợ lớn vợ bé và con cái của gã lấy lại, sang cho người khác. Con Út đành kéo sắp nhỏ về Rạch Gừa nương náu chỗ bà ngoại chúng, bả cũng "đi bán muối" chết từ năm ngoái rồi.
- Sao tía rành quá mạng vậy?
- Ui, cái thị trấn Cù Lao này nhỏ bằng bàn tay, hổng cần đăng nhựt trình chuyện gì ai cũng biết. Vả lại, tuồng như qua có nợ nần gì với má con nó, hễ gặp là cầm lòng không đậu; khi thì vài con cá, lúc mấy cái bánh gởi con Út mang về cho sắp nhỏ, mà nói cho cùng, gặp con Út qua lại nhơ nhớ chú mầy, tuy chưa chấp thuận ngoài miệng nhưng trong lòng qua đã coi chú mầy là con nuôi... mẹ nó rồi! Ngoài cu Hùm, thằng Mãnh Cụt để lại tới năm đứa ba gái hai trai, nuôi hổng nổi, nó cho đi ở đợ hết, còn thằng Út Chót mới bảy tuổi đã đi bán vé số dạo. Thấy thằng nhỏ mặt mày sáng sủa lanh lợi, qua mang về cho nó tiếp tục ăn học. Cái thằng đang ngủ ngoài ngoải đó, nó mắc ngủ nên nãy giờ qua chưa cho chú mầy hay.

4.
Nửa đêm về sáng. Khu bến chợ có lắm người Việt làm ăn sinh sống trên dòng Bassac - cách thành phố Tà Keo chẳng bao xa - tối đen như mực, đom đóm lập lòe tựa những quầng mây nhỏ khi tán lúc tụ chấp chới, chợt nháng chợt nhòe trong bóng ghe bóng thuyền cặp mạn kề nhau. Không khí tĩnh lặng bỗng bị phá vỡ bởi tiếng máy đuôi tôm đổ dòn, rồi nhanh như cắt, những chiếc xuồng máy chở đầy bọn mặc đồng phục mầu đen, cổ quấn khăn rằn đỏ trắng ập tới. Tức khắc tiếng la hét, tiếng súng ran lên xáo động cả một vùng sông nước. Thoạt tiên bóng tối bị xé nát, băm vụn bởi những tia lửa khạc từ những nòng súng, đèn pin, sau đó bùng cháy thành những đám nhỏ rồi đám lớn. Trong biển âm sắc hỗn độn, ông Thạch Nu khởi động máy, cố đưa chiếc ghe bầu tách ra khỏi "điểm nóng", Sáu Giang Hồ chống sào tiếp sức Sophi và hai đứa nhỏ trùm chăn kín mít, nín khe trong một góc quây kín hàng hóa mà người mẹ cho là an toàn nhất. Nhưng rồi họ không phải là "ngoại lệ" của cơn lốc đen man rợ, khóa chặt không chỉ từng bước mà cả từng hơi thở riêng tư trong ngực họ. Khi chiếc ghe bầu vừa quay ngang tách mũi ra khỏi đám hỗn loạn chừng vài thước, một báng súng từ phía sau vụt bổ xuống gáy Thạch Nu làm ông đổ gục, ngã tõm xuống sông với tiếng thét xé lòng: Sophi! Âm thanh kì diệu, hiếm hoi cuối cùng được bất ngờ cất lên sau nhiều năm tắc tiếng. Cô con gái từ lòng ghe lao ra, chới với lạc giọng gọi cha, nhưng ông đã khuất dưới mặt nước đục ngầu phù sa pha máu. Hai đứa trẻ bíu lấy gấu sà rông mẹ tựa hai chiếc lá mỏng manh và Sáu Giang Hồ, chiếc sào lúc này chỉ là chiếc que tăm làm sao ngăn bọn thú người đang cơn say máu! Buông sào, hắn liều mạng lăn xả vào một tên, tước lấy súng của nó. Cây AR15 trút hết số đạn còn lại trong băng đẩy lùi được một đợt "tiến công", đợt khác lại tiếp tục xốc tới. Trong khói lửa mịt mù, họ khản giọng tuyệt vọng gọi tên nhau, nhưng không thể bao bọc cho nhau được. Trước khi phóng xuống sông bơi lặn thoát hiểm, hình ảnh sau cùng hắn còn thấy được và mãi mãi khắc ghi trong kí ức: Trong bóng tranh tối tranh sáng hỗn mang, hai đứa trẻ bị dằn một cách man rợ ra khỏi tay mẹ chúng, bị túm chân xách ngược quật vào mạn ghe hệt hai con nhái bén tội nghiệp, và người mẹ thích hát những lời ru buồn bị kềm chặt bởi những bàn tay lông lá, bị chúng bóc trần hệt bóc một quả chuối dưới những cặp mắt thú đói, và hàng tràng cười có thể làm đông lạnh máu trong tim của bất cứ người lương thiện nào.

Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 273
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com