Sau những gì phải trải qua và chịu đựng, tôi cảm thấy dường như tất cả đều vô nghĩa, đều trống rỗng hoặc nhẹ xốp như một thứ bọt biển mầu xám.
Tôi đi lang thang theo những ngõ ngách tối tăm lờ nhờ, mơ hồ tiếng rúc rích của lũ chuột đói. Ánh sáng từ những ngọn đèn đường heo hắt mù mờ sương khói. Tôi đã tưởng rằng nàng là một tiên nữ giáng trần có thể nhặt những giọt sương sớm mai mà xâu lại thành một chuỗi cườm, có thể se những sợi nắng mà dệt thành tấm áo chống lại mọi giá buốt. A ha, bé cái nhầm. Thời gian xuyên qua ngực tôi như một vệt cháy cần phải có một thứ gì như nước để có thể hoặc là làm dịu đi hoặc dập tắt nó. Tôi đi không rõ bao lâu và bao xa, chỉ biết đôi chân mắc chứng thống phong bắt đầu đau nhức, cử động thấy khó khăn. Bất ngờ hiện ra dòng sông. Tự nhiên tôi không làm sao nhớ nổi tên con sông. Liệu không có tên thì con sông sẽ không phải là sông? Ngay phía bên phải tôi là một quán rượu.
Quán cọ, ngọn đèn điện yếu ớt, vắng hoe. Những quán như thế chẳng là quán rượu thì là quán gì? Tôi bước vào, kéo ghế ngồi bên cửa sổ. Chủ quán là một gã trung niên. Mà thôi, để ý đến gã làm gì. Tôi hỏi rượu. Gã hỏi loại Bầu Sao, Hưng Nghĩa hay Hạ Đan? Tôi bảo cho một bình Hạ Đan, nhớ phải là rượu đựng trong bình làm bằng vỏ bầu. Gã chạy vào nhà trong, lát sau đem ra bình rượu mà tôi yêu cầu. Gã nói rằng tôi sành rượu, giọng chân thật không có vẻ gì đãi bôi. Tôi ngước nhìn qua cửa sổ, thấy có một bóng người lảo đảo từ xa đi tới. Một lão già. Tôi không để ý, đơn giản vì lúc ấy chẳng gì có thể khiến tôi phải để ý. Tôi mở nút bình rượu Hạ Đan, rót đầy li. Mùi thơm dìu dịu của rượu làm tôi ngây ngất. Tợp một hớp cạn, tôi như nhìn thấy dòng rượu trôi qua cổ họng, làm sống lại trong tôi những cảm giác đã tê liệt. Tôi không thể nào tưởng tượng ra rằng lão già đến bên tôi và nói, cho lão xin một li rượu. Nhưng tôi không thấy phiền lòng. Lão đứng đối diện với tôi, dốc li rượu cái ực, rồi kéo ghế ngồi.
Lão suýt soa, thứ rượu ngon thật. Tôi ậm ừ thầm mong lão cút đi cho rảnh mắt. Nhưng lão ngồi im, đưa tay lột chiếc mũ vải cáu bẩn chẳng ra hình thù gì, ném lên bàn. Tôi nhìn thấy một cái đầu hói, chỉ còn lơ thơ mấy sợi tóc trắng muốt. Lão ngập ngừng nói, anh bạn cho tôi xin một hớp nữa được không? Tôi rót cho lão thêm li rượu nữa, nhìn chiếc túi vải lão vẫn còn khoác trên vai, hỏi: - Lão về đâu? Nghe tôi hỏi, lão đang nâng li rượu lên lại đặt xuống. - Thế anh bạn về đâu? Lão hỏi lại khiến tôi ngớ người. Phải rồi, sau đây tôi sẽ về đâu? Mảnh đất khi không còn tình yêu thì trở nên hoang vắng, không có nước uống và thực phẩm, đến không khí cũng loãng khiến người ta ngộp thở. - Làm quái gì có nơi nào mà về.
Lão nói như thể là nói bâng quơ, như là nói với chính mình và cũng chẳng phải nói với chính mình. Nhưng lão nói rành rọt đủ để cho tôi nghe. Giọng lão tinh quái như thể lão đã đọc hết tâm can tôi. Tôi khẽ rùng mình. Lão nói như thế là thế nào? Nơi con người cần đi tới là nơi nào? Có thật có một nơi như thế hay không? Đầu óc mù mờ, tôi không biết chắc lời đáp. Lão già lại lẩm bẩm: - Nhưng có một nơi mà ai ai cũng phải đến, như người ta nói, mọi con đường đều dẫn đến ... Văn Điển. Lúc đó hẳn là khuya lắm rồi, khách trong quán chẳng còn ai, ngoài tôi và lão già. Gã chủ quán đứng sau quầy ngáp ngắn ngáp dài, chán nản vì hai vị khách chưa ai tỏ ý muốn ra đi. Tôi bỗng thấy mình chìm ngập trong một nỗi buồn không thể chia sẻ. Có lão già ngồi bên cạnh cũng là hay. Người dưng có thể giúp cho ta cảm thấy bớt cô đơn. Lão già bụi bậm, nhưng ăn nói như một triết nhân. Tôi nâng bình rượu rót cho mình và cho vị khách không mời. Vào đúng lúc ấy xuất hiện người khách thứ ba, một gã trai lực lưỡng, mặt ngựa, trông dữ dằn. Gã lấy một bình rượu gì chẳng biết, rồi bước thẳng đến chỗ chúng tôi.
Chẳng cần biết chúng tôi có đồng ý hay không, gã kéo ghế ngồi xuống. Tôi trong trạng thái bất cần, nên chẳng lấy làm ngạc nhiên. Lão già ngồi bên tôi ánh mắt như cười, một con người từng trải như lão còn cái gì mà lão không biết. Gã trai chậm chạp móc túi đặt lên bàn một con dao loang những vết đỏ thẫm như máu. Gã cất giọng oang oang khiến chủ quán run bắn người. Gã bảo, tôi cùng uống với các vị cho đến khi nào cảnh sát đến. Bụng tôi đầy nghi hoặc, không biết gã thuộc hạng người nào. Lão già mặt lạnh như băng, nhấm nháp li rượu tôi vừa rót. Gã trai uống liền ba chén. Dường như rượu làm cho gã trấn tĩnh lại. Gã nói: - Sao tất cả lại im lặng thế? Ai có chuyện gì kể đi chứ, kể về bản thân mình ấy. Lão già bỗng nhiên nở một nụ cười hồn hậu, dường như lão chờ câu nói ấy từ lâu lắm rồi. Lão bảo: “Tôi kể cho các cậu nghe.” Yên tĩnh vô cùng, dường như đêm cũng nghiêng xuống lắng nghe câu chuyện qua cái giọng kể đều đều của lão già. Tôi là một tên phản bội, lão nói. Các cậu có hiểu phản bội là thế nào không? Người vợ đi ngủ với trai gọi là phản bội chồng. Đem chuyện bí mật của bạn đi kể với người khác gọi là phản bội bạn.
Cùng đá bóng mà bán độ thì gọi là phản bội đội bóng... Những thứ phản bội đó dù nặng nhẹ thế nào rồi dần người đời sẽ quên, có thể rửa sạch. Còn tôi phản bội... cách mạng, có nghĩa là phản bội đất nước thì đời đời không thể rửa sạch. Trong ý thức của mọi người, từ đứa trẻ đến người già, phản bội là vết nhơ không bao giờ gột rửa được. Nghe đồn ở nước Trung Quốc phương Bắc, người Trung Quốc cổ đã xây hẳn bức tượng một tên phản bội để người đời, thế hệ này qua thế hệ khác đến nhổ nước miếng vào. Nhưng... tôi không phải là kẻ phản bội. Để chứng minh rằng mình không phản bội phải có bằng chứng. Phải có bằng chứng, các cậu có hiểu không. Nhưng tôi không có bằng chứng. Có hai người biết rõ tôi không phản bội. Chỉ có hai người! Một người là tôi, còn người kia là ông Lê Văn Chí. Nhưng suốt cả mấy chục năm trời tôi không sao tìm được ông Lê Văn Chí, để ông ấy làm chứng rằng, tôi không phải là kẻ phản bội. Tôi không phản bội, nhưng phải có bằng chứng để chứng minh. Không có bằng chứng, ai tin. Không có bằng chứng, nên tôi là kẻ phản bội.
Lịch sử nước ta các cậu có thuộc không? Để tôi nói cho mà nghe. Sau năm 1954, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền theo hiệp định Giơnevơ, hẹn hai năm sẽ thống nhất. Bố mẹ tôi di cư vào Nam trước năm 1945, sinh tôi ở Sài Gòn. Tôi theo bố mẹ tập kết ra Bắc. Nhưng Mỹ - Nguỵ phản bội hiệp định, gây cuộc chiến tranh chống lại công cuộc thống nhất đất nước. Tôi được điều trở lại miền Nam, về lại Sài Gòn hoạt động bí mật. Người trực tiếp lãnh đạo tôi là ông Lê Văn Chí. Ông giao việc cho tôi làm, còn tôi thì báo cáo với ông. Chúng tôi hoạt động đơn tuyến. Trong tổ chức, ngoài ông Chí, tôi không biết và không được phép biết một ai. Đó là nguyên tắc. Mà nguyên tắc là kỉ luật, là không thể vi phạm, bởi chưng kỉ luật là kỉ luật sắt. Vì thế, tôi chỉ liên lạc với ông Chí, ngoài ra không còn liên lạc với ai.
Ai là chỉ huy của ông Chí, tôi không biết. Ông Chí liên lạc với tôi, còn liên lạc với ai nữa, tôi không dám hỏi vì không được phép hỏi. Nguyên tắc hoạt động đơn tuyến là thế, là nhằm bảo đảm nếu có ai đó trong đường dây bị bắt không chịu được tra tấn mà khai ra thì tổn thất của tổ chức cũng không lớn. Tôi là một người nhiệt tình yêu nước, trung thành với cách mạng, lại thông minh lanh lợi, vì thế ông Chí quyết định đưa tôi vào hoạt động trong hàng ngũ địch với vỏ bọc là kẻ phản bội. Chắc chắn hành động của ông Chí phải được cấp lãnh đạo cao hơn cho phép, nếu không ông làm sao dám tự tiện làm. Những người hoạt động bí mật chúng tôi luôn luôn coi kỉ luật hoạt động bí mật là kỉ luật thép. Cấp trên phê duyệt để ông Chí cử tôi tìm cách lọt vào hàng ngũ địch với cái vỏ bọc kẻ phản bội là ai tôi không dám hỏi. Cấp trên ông Chí là ai đó, nhưng với tôi bấy giờ là tổ chức, là Cách mạng. Thế là quá đủ. Ông Chí bảo, đây là nhiệm vụ cách mạng. Đã là nhiệm vụ cách mạng giao thì không thể chối từ. Ông Chí đã duyệt kế hoạch hành động của tôi, khen là rất kín nhẽ và cho phép thực hiện. Tôi lọt vào hàng ngũ địch. Khỏi phải nói kẻ thù thử thách và theo dõi như thế nào, cũng chẳng cần kể bao lần suýt bị mất mạng. Chỉ biết rằng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ chui vào hàng ngũ địch. Thế nhưng đúng vào ngày đó thì Sài Gòn hoàn toàn giải phóng.
Tôi bị lực lượng cách mạng tóm ngay ngày đầu. Những hồ sơ tài liệu kẻ thù chưa kịp tiêu hủy để lại chứng tỏ tôi là một tên phản bội đê hèn. Vậy là tôi lập tức bị đưa đi trại cải tạo. Ông Chí ở đâu tôi không biết. Có thể do công việc quá bề bộn, có thể do khi mới giải phóng nề nếp công tác chưa được cũng cố, có thể ông Chí bị điều gấp ra Bắc... Tôi không biết. Chỉ biết, tôi chẳng có cách nào liên lạc được với ông Lê Văn Chí. Tôi đi trại cải tạo. Tức là đi tù. Sáu năm tù đầy, sức lực của tôi bị vắt kiệt cùng với cái án vĩnh viễn: phản bội cách mạng. Ra tù tôi bỏ Sài Gòn lần tìm về quê. Nhưng cái tội danh phản bội cách mạng cũng theo tôi về. Tôi lại trở lại Sài Gòn, tìm kế sinh nhai, hy vọng không ai còn nhớ đến tôi, không ai nhận ra tôi, để tôi có thể làm lại cuộc đời. Nhưng tôi vẫn không thoát khỏi tội danh phản bội cách mạng nhục nhã, ê chề. Khi đó tôi đã vào tuổi bốn mươi, cần có một gia đình. Có một phụ nữ tin những điều tôi kể và nhận lời lấy tôi. Chúng tôi sống hạnh phúc.
Rồi người phụ nữ muốn có con. Tôi không nhớ rõ bao nhiêu lần bà nói với tôi, rằng bà cần có một đứa con. Có con ư? Tôi giật mình mỗi khi nghe vang lên trong lòng câu hỏi đó. Tôi nói với vợ rằng, hãy khoan sinh nở, rằng tôi không muốn con tôi mang tiếng là con một tên phản bội. Hiểu nỗi lòng tôi, người đàn bà có tấm lòng trong sáng ấy nghe tôi. Để đem lại danh thơm cho đứa con tương lai của mình, tôi quyết định phải tìm cho ra ông Lê Văn Chí. Vâng, chỉ có thể tìm được ông Chí, để ông chứng nhận cho tôi, rằng tôi không phải là tên phản bội, thì bản án của tôi mới được cất đi, đứa con tương lai của tôi mới có tương lai. Bởi vì mọi thứ cần phải có bằng chứng. Tôi đi gần như khắp nước, tìm gặp tới hàng ngàn ông Lê Văn Chí, nhưng chẳng có ai là ông Chí mà tôi cần tìm. Tôi bắt đầu oán ông, vì ông mà tôi bị đeo tiếng xấu muôn đời.
Ông cũng là một con người, tôi cũng là một con người, hơn nữa ông còn là cấp trên của tôi, tại sao ông lại thờ ơ với số phận của tôi như vậy? Tôi không tin ông lại có thể quên tôi.