Tôi phải tìm gặp ông bằng được, tôi cần biết rõ rằng ông còn nhớ tôi hay không. Còn nếu ông đã chết rồi thì tôi cũng phải tìm được mộ ông. Vâng, vì tương lai của đứa con tương lai của tôi, tôi quyết không bỏ cuộc. Vợ tôi hiểu nên gánh vác mọi việc, chạy vạy tiền của cho tôi. Thế nhưng thấy tôi bỏ gần hết cả những năm sung sức vào cuộc tìm kiếm vô vọng bà đã nói: “Chúng ta sống với nhau hạnh phúc là em mãn nguyện rồi”. Tôi ngẩn người, soi vào gương mới biết tóc trên đầu đã rụng quá nửa. Nàng đã tắt kinh. Tôi đã qua tuổi tri thiên mệnh. Đã ngửi thấy mùi đất ẩm ướt và lạnh buốt. Thế là đã gần đất xa trời. Người phương Tây nói, mọi con đường đều dẫn đến La Mã... Người phụ nữ xinh đẹp ngày nào giờ đã thành một bà già. Bà không cản tôi đi tìm ông Chí nữa. Một lần bà bảo, nghe nói hoạt động bí mật mọi người đều dùng tên giả. Có lẽ Lê Văn Chí là tên giả của ông ấy chăng? Lời bà như một tia chớp loé. Một việc đơn giản như thế mà suốt bao năm trời tôi không để ý là làm sao? Tôi như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm của mình. Mới đây có người mách rằng, ở gần Ao Gỗ có một người khi hoạt động bí mật ở Sài Gòn đã mang tên giả là Lê Văn Chí. Không chần chờ, tôi phóng đến Ao Gỗ ngay.
Hỏi người địa phương thì biết, nhà ông Lê Văn Chí chính là ngôi nhà ngói đỏ cao đẹp nhất vùng. Ngôi nhà đó được gọi là ngôi nhà tình nghĩa do một tập đoàn công nghiệp làm tặng. Đứng trước cổng nhà ông Lê Văn Chí, tôi bỗng thấy hồi hộp lạ. Tôi không biết chuyện gì sẽ xẩy ra khi tôi bước vào và xưng tên, nhưng hy vọng tìm được bằng chứng để chứng minh rằng tôi không phải là kẻ phản bội khiến chân tôi run lên không bước được. Sau khi nghe tôi kể khúc nhôi, người đàn bà đứng tuổi xưng là vợ ông Lê Văn Chí mời tôi vào nhà, dẫn đến bên chiếc giường rủ màn. Tôi chưa hiểu chuyện gì, thì người đàn bà đã vén tấm màn có lẽ để quá lâu không giặt loang nhiều vết ố bẩn. Người đàn bà nói: “Ông Lê Văn Chí bây giờ như thế này đây”. Tôi tự coi mình là người từng trải. Nhiều việc mà người thường không thể tưởng tượng nổi thì tôi đã chứng kiến hoặc đã nếm qua. Thế mà đứng trước cái người được gọi là ông Lê Văn Chí ngày xưa tôi bàng hoàng, chút nữa thì ngất xỉu. Sau đấy là sự thương xót. Có thể gọi đó là một con người được không? Khuôn mặt tê dại mọng nước, đôi mắt mở to nhưng tròng đen không động đậy, mất mọi phản xạ. Đó là một con người thực vật.
Tôi nhận ra rằng, hy vọng vừa lóe lên tìm được bằng chứng giúp tôi xóa đi cái án phản bội treo trên đầu mấy chục năm nay thế là tan như bong bóng xà phòng. Phải mất một lúc lâu tôi mới trấn tĩnh lại được. Dù sao cuối cùng tôi cũng gặp được ông Lê Văn Chí. Người đàn bà đưa tôi một bát nước vối đầy tràn, kể rằng chồng bà nằm như thế đã mấy chục năm nay, tất cả mọi sinh hoạt đều diễn ra trên giường. Bà nói: “Ông ấy bỏ nhà đi hoạt động từ những năm năm mươi, để lại cho tôi hai đứa con nhỏ và gửi về gia đình duy nhất một lá thư báo đang ở chiến trường Nam Bộ. Ngay sau ngày giải phóng Sài Gòn, một hôm vào lúc mờ sáng ông đột ngột trở về, như là từ trên trời rơi xuống. Vợ con mừng tủi, nước mắt ràn rụa. Ông bảo, giải phóng rồi, đoàn tụ rồi phải vui lên. Rồi ông cười, cười không dừng lại được. Rồi ông ngã gục, vẫn còn cười. Chúng tôi không ngờ, sau niềm vui đoàn tụ lại là kết cục như thế này: Ông bị cấm khẩu. Gia đình chạy hết thầy hết thuốc, tuần lễ đầu hình như ông còn nhận ra được tôi, ú ớ cái gì trong họng, nghe như là oăng... oăng. Sau đó thì nằm đây mà như người chết rồi”.
Tội nghiệp ông Chí. Có thể những tiếng oăng... oăng mơ hồ mà ông kêu trước khi sống cuộc sống người- thực vật là muốn nhắc đến tôi. Tên tôi là Hoằng, đúng thế. Nghĩa là ở vào lúc cuộc sống của ông chỉ leo lắt như ngọn đèn hết dầu, sắp sửa chỉ còn là gánh nặng đầy thương xót của gia đình, ông còn nhớ đến một người mà số phận mãi mãi gắn với ông. Dù tôi bị khổ ải thế nào thì vẫn cứ sung sướng hơn ông. Trong lòng tôi trào lên niềm ân hận. Nhiều đêm tôi đã nguyền rủa ông. Nghĩ vậy, đôi mắt tôi bỗng ứa lệ. Tôi trở về báo tin ấy cho vợ tôi, nhưng thật vô phúc cho tôi, bà đã chết ở bệnh viện sau khi bị một tên lái xe say rượu đâm phải. Người tuyệt đối tin tôi không cần bất cứ bằng chứng nào, người vợ của tôi đã chết. Tôi dù có mang tiếng là một tên phản bội, nhưng sau khi nhìn tận mặt ông Chí thì tôi biết chắc tôi không phản bội.
Tôi bầy tỏ sự thông cảm với lão già, nói: - Ước gì có một thế giới trong suốt không cần đến những bằng chứng. - Hão huyền, làm gì có một thế giới như thế! Gã đàn ông mặt ngựa ngắt lời tôi. Lão già ngừng kể, tôi nhận thấy đôi giọt sáng trên mắt lão. Gã đàn ông khẽ chớp mắt, tợp một ngụm rượu. Chẳng lẽ gã mủi lòng bởi câu chuyện của lão già? Gã bảo, đến lượt gã kể chuyện. Tôi là kẻ bụi đời, là người của xã hội đen, gã kể. Tôi có một kẻ thù không đội trời chung, hoặc là tôi sống hoặc là nó sống. Có tôi thì không có nó, hoặc ngược lại. Mười năm nay tôi đi tìm nó. Nghe nói nó ở Sài Gòn, tôi vào Sài Gòn thì nó chuồn xuống Cần Thơ. Có tin nó ở Yên Bái, tôi đến Yên Bái thì nó đã sang Thái Nguyên. Mẹ cái thằng, thính mũi thính tai thế. Tôi đi tìm nó ngày này qua ngày khác. Nếu không giết được nó thì tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi.
Gã cầm con dao nhọn bén loang những vết đỏ thẫm như máu giơ lên trước mặt chúng tôi, khiến gã chủ quán đứng đằng xa cũng run bắn người. Gã bảo, gã luôn mang theo con dao ấy bên người, ngày nào cũng mài sắc đến mức sợi tóc kẽ chạm vào là đứt. Hàng ngày tôi mài dao, gã kể, mài để nhắc nhở lòng căm thù, để chuốt nhọn ý chí. Tôi muốn nhìn kẻ thù của tôi chết gục bởi con dao này. Nó phải dập đầu van lạy tôi, phải vừa khóc vừa chết. Nó phải chết trong sợ hãi. Có thế tôi mới hả dạ. Tình cờ tôi đi qua vùng đất này. Có lẽ do quỉ thần xui khiến, cách đây năm hôm tôi đã tìm thấy nó, nghĩa là sau mười năm tròn cộng với năm ngày tôi đã tìm thấy nó. Con ơi, lần này thì mày phải chết. Tôi nghĩ thế và bám theo nó. Năm ngày nay, chiều nào nó cũng đi ra bờ sông, đi một mạch không nhìn trước nhìn sau cảnh giác. Đang mùa nước lớn. Giòng sông cuồn cuộn chảy. Nó bước đến gần mép nước, đứng lặng hồi lâu rồi lại quay trở về nhà trọ nằm lì.
Tôi ngạc nhiên, vì thế chưa muốn động thủ. Để xem mày còn dở trò gì, hơn mười năm rồi, mày có sống thêm mấy ngày cũng chẳng sao, tôi nhủ thầm như vậy. Nhưng lòng căm thù thì vô hạn, lòng kiên nhẫn của tôi thì có hạn. Chiều nay nó lại một mình đi ra bờ sông, lại đứng lặng trước dòng nước cuồn cuộn chảy. Nó nghĩ cái gì vậy? Không biết nó có nghĩ rằng trước đây nó gây cho tôi bao nhiêu đau khổ và rồi sẽ đến ngày nó phải đền tội không? Tôi căm thù nó. Tôi lặng lẽ bước đến sau nó. Hình như nó không nhận ra có người ở phía sau. Tôi lạnh lùng cất tiếng: “Thằng chó, mày có nhận ra ai đây không?” “Nó chậm rãi quay lại, nhận ra tôi ngay: “Là mày, mười năm cộng năm ngày rồi phải không?”. Tôi ngạc nhiên thấy nó cười, nụ cười hồn hậu như khi gặp người thân mà cười. Tôi thấy máu trong ngực tôi xôi lên, tôi nghe vang lên trong đầu tôi tiếng thét, hãy giết nó. Vậy là tôi rút dao xọc thẳng nó một nhát đúng tim. Nó ngã vật xuống mặt cát ẩm ướt, nụ cười còn đọng trên môi.
Tôi đứng ngẩn người. Cảm giác của sự trả thù chả lẽ lại vô vị như thế này sao? Tất cả những gì tôi mường tượng ra là tôi sẽ được thỏa mãn khi giết nó đều bay biến đi đâu cả. Tôi đặt tay lên ngực nó, hình như trái tim đã ngừng đập nhưng người vẫn còn nóng. Vô tình tôi chạm phải một vật cứng trong túi áo ngực nó. Móc ra thì là một lọ thủy tinh nhỏ đựng một thứ bột mà những kẻ như tôi sống trong xã hội đen đều biết. Đó là một thứ thuốc độc cực mạnh. Lẽ nào nó lại định tự tử? Vì sao nó lại định tự tử? Và nó định tự tử nhưng chưa đủ gan để ra tay, nghĩa là nó thấy sợ khi đứng trước cái chết? Các người có nghĩ rằng gã kẻ thù không đội trời chung của tôi định tự kết liễu cuộc đời nhưng khi đứng trước cái chết lại run sợ không? Có à. Nghĩa là nó đã quyết định chết, nhưng khi đứng trước cái chết lại ngần ngừ. Cái thằng nhát gan, đồ thỏ đế. Có thể năm ngày qua nó biết tôi đi theo nó. Nó phải biết rõ, có tôi thì không có nó. Tại sao như vậy nhỉ? Các người nói xem nào. Hận thù không làm cho người ta sống yên ổn, nhưng tội ác cũng chẳng để cho người ta yên. Lão nói có lý. Vậy là tôi... Tôi đã...
Bất ngờ một loạt đèn chói sáng bật lên, còi công an rú inh ỏi. Tôi phải nhắm mắt lại vì chói. Nhưng tôi có cảm giác, nhiều họng súng đang chĩa thẳng về phía chúng tôi. Một giọng dõng dạc vang to: - Giơ tay lên! Gã trai ngừng câu chuyện dở dang ở chỗ “Tôi đã...”, bình tĩnh đứng lên, nói: - Tôi đã giết hắn. Hãy bắt tôi đi. Những người cảnh sát bước đến và chúng tôi trở thành đồng phạm... Trước Rằm tháng Bẩy, năm 2000 Sửa lại tháng 7- 2008 Hà Phạm Phú