Tự-Mai nghe Vương gọi tên nước mình là Đại-Việt, thì biết y thuộc phe chống Lưu hậu, thân với Đại-Việt. Chàng nói thầm:
- Ông này chơi được.
Đức-Dụng tiếp:
- Quốc-công không biện minh được, như vậy là nhận tội. Câu hỏi thứ nhì là: Khi Quốc-công mở ra, thấy rõ ràng trong hộp có thanh kiếm. Đáng lẽ Quốc-công phải buông hộp lùi bước. Lý đâu Quốc-công lại mang kiếm ra đưa vào trước ngực hoàng thượng. Nếu như không có Phiêu-kị đại tướng quân đẩy Quốc-công lui lại...
Ông ta chỉ vào Tự-Mai:
- Hơn nữa thiếu niên này không đem thân đỡ kiếm, có lẽ Hoàng-thượng đã bị hại rồi. Chiếu luật bản triều, tội kiêu căng với quân phụ, cùng tội thí chúa, phải tru di tam tộc.
Tào Lợi-Dụng nghe buộc tội, y kinh hồn táng đởm, nhưng không nói được, chỉ biết lắc đầu, trong khi vẫn quỳ gối.
Nhà vua nghĩ thầm:
- Kể ra với tội trạng tên Tào này làm từ xưa đến giờ cũng đáng tru di tam tộc. Nhưng khốn nỗi y là cố mệnh đại thần, ta không thể giết y ngay được. Hơn nữa hôm qua ta truyền bắt giam con y về tội hà hiếp lương dân. Khi đem việc này ra đình nghị, chắc chắn con y bị xử tử. Y sẽ bị cách chức. Như vậy cũng đủ rồi. Còn hôm nay, y ngay tình, mà ta bắt tội y, e phe đảng y không phục.
Nhà vua quay lại nói với Tự-Mai:
- Tào quốc-công là võ quan, nên thiếu tinh tế. Chứ sự thực không tà ý. Nếu có tà ý, thì đêm qua, trong lúc hội kiến với trẫm Quốc-công đã ra tay gia hại, chứ đâu để đến hôm nay? Tội của Tào quốc-công sẽ đình nghị sau. Nhị đệ buông tha cho Quốc-công.
Tự-Mai khoan thai bước đến trước Tào Lợi-Dụng, nó xoa tay vào huyệt Đại-trùy. Lợi-Dụng rùng mình, chân tay cử động được. Y lườm lườm nhìn Trung-Đạo, rồi về chỗ đứng.
Xuất thân phái Liêu-Đông, Tào dùng võ công lập nghiệp. Trong suốt hai triều Thái-tông, Chân-tông không ai địch nổi Tào. Từ khi Lưu hậu nhiếp chính, Tào giúp bà điều khiển bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản và mười trưởng lão bang Nhật-hồ khống chế triều thần, anh hùng thiên hạ. Tào tuy làm Tả bộc-xạ, nhưng y lấn át Lã Di-Giản làm Hữu-bộc xạ. Khắp quần thần không ai dám chống đối y. Hôm nay y bị viên tổng lĩnh Ngự-lâm quân, cùng thiếu niên vô danh làm nhục, y căm hận vô cùng, tự hứa trong lòng:
- Đêm nay ta sẽ tìm đến chúng bay để đòi món nợ này.
Mọi người cùng đưa mắt nhìn Tự-Mai. Thái-hậu hỏi:
- Thiếu niên trung nghĩa kia là con cháu của bậc đại thần nào vậy? Hãy lại gần đây cho ta nhìn rõ mặt.
Tự-Mai tiến đến trước màn rập đầu bốn lần. Nhưng chàng không nói một lời nào cả. Định-vương lên tiếng:
- Trần hiền đệ. Hiền đệ khấu đầu chưa đủ, lễ nghi bản triều định rằng khi khấu đầu phải xưng tên họ. Hiền đệ xưng tên họ đi.
Tự-Mai lắc đầu nhìn nhà vua. Nhà vua nhắc:
- Nhị đệ! Nhị đệ ra mắt Thái-hậu đi.
Tự-Mai lại rập đầu:
- Tên nhà quê Trần Tự-Mai thuộc Đại-Việt xin tham kiến Thái-hậu. Kính chúc Thái-hậu được Trời, Phật hộ trì vạn sự nguyện đắc như sở cầu. Muôn tâu... khi thần tới đây, hoàng thượng ban chỉ dụ: Tuyệt đối không được nói. Dù ai hỏi cũng không trả lời. Vì vậy hạ thần chỉ khấu đầu, mà không thỉnh an Thái-hậu. Mãi tới khi hoàng thượng lên tiếng cho phép, thần mới dám nói.
Thái-hậu trầm ngâm:
- Thiếu niên này dùng võ công gì mà khống chế được Tào Lợi-Dụng, kể cũng lạ. Với tài của y mà ứng tuyển phò mã, thì thực xứng đáng.
Bà hỏi Tự-Mai:
- Cháu bình thân. Thì ra cháu là em của vương phi Khai-Quốc vương. Thức khinh thân vừa rồi của cháu hơi giống võ công Thiếu-lâm. Lúc co chân đá bay kiếm là chiêu gì, ta nhìn không ra. Lại ba chỉ phóng vào Tào Lợi-Dụng kình lực vô song. Ta chưa từng thấy qua.
Tự-Mai đáp:
- Tâu thái hậu, chiêu đó tên Kình ngư nhược thủy thuộc võ công phái Cửu-chân thời Lĩnh-Nam. Còn chỉ đó có tên Lĩnh-Nam chỉ pháp.
Thái-hậu hỏi nhà vua:
- Hoàng nhi, hoàng nhi gặp Tự-Mai ở đâu? Tại sao lại gọi là nhị đệ?
Nhà vua tâu:
- Hài nhi xuất thành vi hành, thăm dân cho biết sự tình. Chẳng may gặp bọn ác nhân nhận diện. Chúng định hại hài nhi. May nhờ Trần Tự-Mai đánh đuổi chúng đi. Hài nhi đã kết huynh đệ với y.
Triều Tống gồm toàn Nho-thần, họ rất trọng những người trung nghĩa. Vừa rồi họ thấy Tự-Mai đem lưng đỡ kiếm cho nhà vua, nên người người đều nhìn chàng với con mắt thiện cảm.
Trương Sĩ-Tổn hỏi:
- Trần công tử. Công tử đem lưng đỡ kiếm cho Hoàng-thượng là cứu một Thiên-tử hay một nghĩa huynh?
Tự-Mai đáp:
- Thưa đại-học sĩ, vãn sinh không chủ tâm đem lưng đỡ kiếm cho ông vua Trung-thổ. Vãn sinh là người Việt, chẳng việc gì phải chết thay cho ông vua Tống triều.
Mọi người tỏ vẻ bực mình:
- Thằng nhỏ này vô phép quá.
Tự-Mai tiếp:
- Nhưng từ lúc vãn sinh theo sứ đoàn sang Tống, đã nghe khắp anh hùng võ lâm, nhân sĩ, dân Hán ca tụng: Trong triều có ông vua cực kỳ hiếu thảo, lại nhân từ, thương dân như thương con. Vì vậy vãn sinh nghĩ mình được chết thay một nhân quân, để nhân quân sống mà ban phúc cho dân, thì vãn sinh sẵn sàng.
Lã Di-Giản hỏi:
- Chú em bảo người ta ca tụng hoàng thượng nhân từ, cùng hiếu thuận, vậy họ có nói nhân từ cùng hiếu thuận ra sao không?
Tự-Mai định trả lời, thì có tiếng Bảo-Hòa dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:
- Tự-Mai ngoan. Hãy nói theo chị. Ta nịnh ông vua cùng quần thần, để dùng họ diệt bọn mưu chiếm Đại-Việt. Nào nói theo chị nào.
Tự-Mai nói:
- Tể tướng thử vãn sinh hẳn? Từ trước đến giờ, cứ mỗi năm vua lại tăng thuế. Thế mà Hoàng-thượng lên ngôi mười năm không những không tăng, mà còn tha thuế ba năm. Hỏi suốt ba trăm năm qua, có vị Hoàng-đế nào nhân từ như vậy không?
Cả triều thần cùng nhìn nhau gật đầu, công nhận lời Tự-Mai nói đúng. Chàng tiếp:
- Khi tiên đế băng hà, xây lăng mộ tốn biết bao? Các vua đời trước đều bắt dân đóng thêm thuế, hoặc lấy công khố ra dùng. Đây Hoàng-thượng lại bắt hậu cung giảm chi. Thế mà số tiền xây lăng vẫn nhiều hơn bao giờ cả. Hỏi trong hơn nghìn năm qua, có vị Hoàng-đế nào nhân từ như vậy không?
Mọi người đều gật đầu. Tự-Mai nói lớn:
- Lại nữa, trong mười năm chấp chính, Hoàng- thượng luôn giảm án cho tù. Khắp nước chưa có vụ xử tử hình nào cả. Hỏi ngay thời vua Văn-vương cũng chưa chắc hơn. Như vậy không phải nhân từ là gì?
Trương Tri-Bạch hỏi:
- Vì thấy Thiên tử Thiên-triều nhân từ, nên chú em mới quyết định bỏ Đại-Việt theo Tống hẳn?
Tự-Mai cười lớn:
- Trương đại học sĩ lầm rồi. Hôm rồi vãn sinh dạo chơi Biện-kinh, thấy người ăn mày dắt con chó. Gặp người nhà giầu, ông ta trả cho lão ăn mày trăm đồng tiền để mua chó. Nhưng sau khi trả tiền, con chó nhất định không theo ông nhà giầu. Chó còn không nỡ tham phú phụ bần, huống chi người? Vãn sinh cứu giá là cứu một ông vua nhân từ. Chứ nếu Hoàng-thượng ác độc như Tùy Dương-Đế, e vãn sinh đá cho một đá chết tốt, chứ đừng nói cứu giá.
Mọi người thấy Tự-Mai nói ngỗ nghịch, nhưng đúng đạo lý, họ đều bật cười. Tự-Mai tiếp:
- Vì lý do đó vãn sinh không thể bỏ chúa Việt theo hoàng thượng. Vì bỏ chúa Việt, vãn sinh không bằng con chó. Huống hồ chúa Việt cũng là ông vua cực kỳ nhân từ. Nhân từ nhất cổ kim.
Lã Di-Giản hỏi:
- Lý Công-Uẩn nhân từ ở chỗ nào?
Tự-Mai dõng dạc kể hết những năm xá thuế, tô tượng làm chùa, đúc chuông, cùng ân xá tù nhân. Rồi nó tiếp:
- Chúa Việt làm vua mười tám năm, mà chỉ thu thuế trước sau có bốn năm. Hỏi còn chúa nào nhân từ hơn? Nhà tù trống trơn. Ngay cả phản thần Đàm Can, mưu thí chúa mà người cũng không bắt tội.
Chàng nói lớn:
- Các vị ở đây đều là đại Nho, trong lòng đầy trung quân. Hàng ngày phò tá đấng quân phụ nhân từ. Nhưng các vị có biết lòng nhân đó trong tâm Hoàng-thượng ở đâu mà nảy sinh không? Theo vãn sinh nghĩ, một là do từ Tiên-đế cùng mẫu hậu truyền lại. Hai là do các vị sư phó giảng dạy. Vãn sinh không biết ông thầy nào đã dạy Hoàng-thượng học? Người đó xứng đáng làm tể thần.
Cả triều đình đều đưa mắt nhìn Định-vương, Vương Khâm-Nhược với Yến Thù.
Trương Sĩ-Tổn hỏi:
- Theo chú em, một vị vua cần nhất đức tính gì?
Tự-Mai vẫn nói theo Bảo-Hòa:
- Theo vãn sinh, một vị Thiên-tử không cần thông minh, chẳng cần võ công cao, văn chương quán thế, mà cần nhất cái đức.
Sĩ-Tổn hỏi:
- Chú em nói thiên tử cần đức. Nhưng có hàng trăm đức: Đức nhu, đức cương, đức dũng, đức liêm. Đức nào cần nhất?
- Thưa trong bộ Thánh-tổ sự tích đại nhân Vương Định-Quốc (1) có luận rồi . Tiên sinh chẳng từng viết :« Than ôi, đấng quân phụ gặp lúc nước loạn cần đức dũng. Xã tắc đói khổ cần đức từ. Khi phải xét người cần đức minh. Nhưng thời nào cũng cần đức nhân. Không nhân thì sao thương dân. Thánh nhân nói: Bậc vua chúa như cha mẹ dân. Lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân ».
Chú giải
(1) Người xưa khi nói tới văn gia, thường gọi tên tự để tỏ ý kính trọng. Vương Khâm-Nhược tự là Định-Quốc, vì vậy Bảo-Hòa nhắc Tự-Mai gọi tên tự của ông ra, để lấy lòng.
Hiện nay bốn biển thái bình, trong triều toàn túc Nho, trung thần. Ngoài dân, chỗ nào cũng mở mang truyền bá đạo thánh Khổng. Thiên-tử cần đức nhân hơn cả. Tỷ như vừa rồi, nếu Thiên-tử không nhân, ắt Tào quốc-công bị chặt đầu. Cho nên tiểu sinh nghĩ: Mình theo sứ đoàn để học văn minh Hoa-hạ, không ngờ được thấy một anh quân nhân từ... lại được đọc biết bao sách của Vương đại-nhân, Yến đại-nhân, Trương đại-nhân. Có lẽ tiểu sinh xin Khai-Quốc vương cho ở lại ít năm để học những cái hay của văn minh Hoa-hạ.
Tào Lợi-Dụng vốn ghen tài với Khâm-Nhược. Y hận Tự-Mai điểm huyệt, nên cắt ngang:
- Tên bé con Nam-man kia, mi nói đã đọc sách của Vương Khâm-Nhược, thế mi đã đọc những bộ nào?
Tự-Mai hỏi nhà vua:
- Tâu đại ca. Trong lịch sử Hoa-hạ, chưa đời nào văn học, tư tưởng thịnh bằng bản triều. Tại sao có một đại thần nói năng như phường vô học bất thuật vậy kià. Xin hoàng huynh trao y cho Yến đại-nhân, Vương đại-nhân dạy ít bộ sách. Y bảo đệ là người Nam-man, nhưng đệ dám thách y thi văn chương với đệ.
Triều đình thấy Tào Lợi-Dụng nói năng cục súc, đều cau mặt khó chịu. Nhà vua nói với Lợi-Dụng:
- Trần nhị đệ là em kết nghĩa của trẫm. Quốc-công chẳng nên quá lời.
Nhà vua nghe Lợi-Dụng nói cũng muốn thử kiến thức của Tự-Mai, nên hỏi nó:
- Nhị đệ đã đọc những bộ sách nào của Vương đại học sĩ?
- Đệ mới tới kinh sư hai tháng qua, nên chỉ mới đọc được các bộ: Thiên-thư nghị chế, Thánh-tổ sự tích, Ngũ-nhạc quảng văn ký.
Ba bộ sách trên là ba bộ Vương Khâm-Nhược viết vào thời vua Chân-tông. Triều thần cùng nghĩ rằng: Thư tịch Trung-quốc có hàng nghìn, hàng vạn. Sách của Khâm-Nhược chỉ mới in gần đây, thế mà thiếu niên này mới sang đã đọc hết ba bộ trên, thì e sách khác y đọc đến hàng trăm bộ.
Tự-Mai nói một hồi làm Vương Khâm-Nhược, Trương Tri-Bạch, Yến Thù đều khoan khoái trong lòng. Nó chỉ vào thanh kiếm:
- Tâu hoàng-thượng, xin hoàng-thượng cầm thanh kiếm mà Khai-Quốc vương đem cống. Cam đoan long tâm sẽ vui mừng.
Nhà vua cầm thanh kiếm lên xem, ánh thép lạnh toát tỏa ra. Thoáng nhìn qua, cũng biết thanh kiếm lâu đời lắm. Dưới chuôi kiếm có khắc chữ:
Đại phong khởi hề,
Vân phi dương.
Uy gia hải nội hề,
Qui cố hương,
An đắc mãnh sĩ hề,
Thủ tứ phương.(2)
Ghi chú
Đây là bài ca rất cổ, do Lưu Bang, Cao-tổ nhà Hán làm. Sau khi thắng Hạng Vũ, thống nhất đất nước, Lưu Bang về thăm quê hương, rồi làm ra bài ca này. Tạm dịch:
Gió lớn khởi chừ,
Mây bay cao.
Oai khắp bốn bể chừ,
Về cố hương.
Sao được mãnh sĩ chừ,
Trấn giữ bốn phương.
Nhà vua trầm ngâm suy nghĩ, rồi tiến đến bên Định-vương:
- Hoàng-thúc. Hoàng-thúc xem này, quý vật mà đức Cao-tổ nhà ta suốt đời tìm kiếm không được, nay đã thấy rồi đây.
Định-vương đỡ lấy kiếm xem qua một lượt, vương hỏi Khai-Quốc vương:
- Nhị đệ, báu vật này nhị đệ tìm thấy ở đâu vậy?
Khai-Quốc vương nói:
- Tâu bệ hạ, nguyên thanh kiếm này của Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang. Khi Cao-tổ khởi nghiệp đã dùng nó chém rắn khởi nghĩa. Lúc thành đại nghiệp, Cao-tổ về đất Bái, họp con em đệ tử, mở tiệc mừng. Trong tiệc ngài hứng chí cầm kiếm múa và làm ra bài ca trên. Cho nên thanh kiếm có tên Đại-phong.
Nhà vua gật đầu:
- Suốt triều Tây-Hán, các vua dùng thanh Đại-phong này làm Thượng-phương bảo kiếm. Từ sau khi Vương Mãng cướp ngôi, Đại-phong kiếm bị tuyệt tích.
Ghi chú
Bộ Đông-Hán cảo lục chép rằng: « Khi Vương-Mãng cướp ngôi nhà Hán, y đoạt thanh Đại-phong. Y đem cất chung vào với bảo vật ở dưới đáy điện Vị-ương, rồi sai người chôn ở hồ Động-đình ».
Thời vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai công chúa Trần Năng, Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đào kho tàng Tần-Hán mang về. Trong kho tàng có thanh Đại-phong. Phái đoàn Lĩnh-Nam chở kho tàng về tới Khúc-giang, bị đoàn cao thủ của Mã hậu đuổi theo. Công chúa Trần Năng đem chôn kho tàng ở Tuyệt-phong.
Khai-Quốc vương sai Bảo-Hòa, Thông-Mai, Tự-Mai đào kho tàng mang về Đại-Việt, nhân đó đem thanh Đại-phong cho Khai-Quốc vương làm lễ vật cống Tống-đế.
Theo tin tức tế tác Đại-Việt, Tống thái tổ Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi của ấu quân nhà Chu. Cho nên trong lòng luôn luôn sợ thiên hạ dị nghị. Ông nghĩ rằng, nếu mình có thanh kiếm Đại-phong trong tay, thì dân chúng sẽ tin rằng trời trao thiên hạ cho. Ông truyền tìm thanh kiếm này khắp nơi mà không thấy. Vì vậy Bảo-Hòa khuyên Khai-Quốc vương nên cống Tống-đế, để mua cảm tình.
Quả nhiên Thiên-Thánh hoàng đế mừng không bút nào tả siết. Ông bảo một võ quan:
- Hoàng-môn chỉ hạp. Khanh đưa thanh kiếm này để bách quan xem một lần cho biết.
Lý Chính vâng mệnh hai tay đỡ kiếm mang đi khắp điện.
Khai-Quốc vương cho mở bốn ống tre ra. Trong mỗi ống có một ống tiêu chạm trổ xà cừ rất tinh vi. Một ống chạm sự tích vua Đế-Minh kết hôn với tiên nữ ở núi Ngũ-lĩnh, sinh ra thái tử Lộc-Tục. Nhà vua cầm ống tiêu xem:
- À, đây là sự tích triều Thần-Nông phân ra Bắc sau thành Trung-nguyên. Nam sau thành Lĩnh-Nam đây.
Ống thứ nhì chạm sự tích vua Đế-Minh tế cáo trời đất ở Thiên-Đài. Ống thứ ba chạm sự tích Lạc-Long quân kết hôn với Âu-Cơ, đẻ ra trăm con.
Nhà vua cầm ba ống tiêu lên coi, tần ngần một lúc, rồi nói:
- Đúng rồi, Hán, Việt vốn gốc cùng ông tổ. Hán là con nhà bác là vai anh. Việt là con nhà chú, là em.