Chương 18b
Chàng ngừng lại cười rung động cả quảng trường, rồi tiếp:
- Cứ mỗi chiêu mi đánh ra, ta đẩy độc tố trở lại người mi. Đúng ra ta đẩy mạnh thêm một chút, ắt mi đau đớn như hai tên Đỗ Xích-Thập, Lê Đức kia rồi. Ta chỉ đẩy sao cho độc chất tới vai mi thôi, rồi giả trúng độc, rên rỉ. Quả nhiên sự việc đúng như ta tiên liệu. Mi trúng kế. Ta vờ lạy, tôn mi làm sư phụ, khống chế tên Tào Lợi-Dụng cho mi. Khi đấu chưởng với Tào, ta vờ bị trúng độc. Bọn mi huênh hoang ra cái điều trị khỏi độc tố cho ta, để kéo những người quanh đây theo bọn mi. Ta chỉ đợi có thế, đẩy chất độc Huyền-âm vào Nhâm-mạch bọn mi. Bây giờ trong cơ thể bọn mi, vừa có độc tố Huyền-âm, vừa có độc tố Chu-sa, không còn ai có thể trị cho mi được nữa.
Nói dứt, chàng đến trước Phan Nam quỳ gối rập đầu:
- Sư phụ! Đệ tử đã khống chế hai tên đại ma đầu. Xin sư phụ phát lạc chúng.
Phan Nam hướng vào mọi người:
- Nếu lão phu giết chết hai tên này, có ai phản đối chăng?
Một thí sinh ứng tuyển phò mã bước ra:
- Tôi phản đối.
Mọi người nhìn lại thì ra Triệu Tiết.
Triệu Tiết vốn là sư huynh công chúa Huệ-Nhu. Suốt mấy năm qua, y thầm yêu trộm nhớ nàng. Vì vậy y luôn săn đón bên cạnh. Nhưng Huệ-Nhu không hề chú ý đến y. Nàng coi y như các sư huynh, sư đệ khác. Trong trận Tản-lĩnh, Tiết bị Tự-Mai đánh cho thập tử nhất sinh. Đau đớn hơn nữa, Huệ-Nhu lại có tình với Tự-Mai.
Khi về Trung-nguyên, y tự an ủi rằng Tự-Mai ở bên Đại-Việt, muôn ngàn lần Huệ-Nhu không thể làm vợ y được. Mối hy vọng của y gần như hình thành, khi Lưu hậu mở võ đài tuyển phò mã. Y nhờ Địch Thanh giúp sức bằng cách thắng các anh hùng thiên hạ, rồi cuối cùng trong trận đấu với y, Địch vờ xẩy tay thua. Kế hoạch định xong, thì Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn lại xuất hiện, rồi Huệ-Nhu được đặc cách gả cho Tự-Mai.
Tuy Tiết vừa được Thiệu-Thái trị Chu-sa độc phấn cho. Nhưng lòng ghen tương làm lương tri mờ đi. Y thấy Thông-Mai là anh Tự-Mai, võ công vô địch, hạ luôn một lúc ba đối đầu ghê ghớm của triều đình. Y bước ra vái chàng:
- Trần đại hiệp. Tiểu bối Triệu Tiết, đệ tử phái Hoa-sơn xin được hỏi đại hiệp mấy câu. Không biết đại hiệp có chịu trả lời cho không?
Thông-Mai đã biết rõ uẩn khúc vụ Triệu Tiết, Huệ-Nhu. Chàng thản nhiên như không biết:
- Triệu huynh đệ hỏi đây là nhân danh triều đình? Hay nhân danh phái Hoa-sơn?
- Tiểu bối nhân danh con dân Đại-Tống mà thôi.
- Xin huynh đệ cứ hỏi.
- Đại hiệp đến Trung-nguyên không có phép của biên cương đại thần. Như vậy rõ ràng tiền bối khinh thị luật lệ Đại-Tống, coi Trung-nguyên không người. Chắc trong lòng tiền bối nghĩ: Ta có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, ta muốn đi là đi, muốn ở là ở, việc gì phải xin phép bọn biên thần? Đó phải chăng là võ đạo Đại-Việt?
Nó đưa mắt nhìn triều thần, thấy các quan như có vẻ đồng ý với nó. Nó tiếp:
- Lại nữa, vụ án Hành-Nam, mấy trăm mạng bị giết, cả đến chó mèo, gà vịt cũng không tha. Người ta nói cũng do tiền bối ra tay. Tiền bối ơi! Dù chúng là dư đảng bang Nhật-hồ, đáng lý tiền bối phải cáo quan bắt chúng. Nhưng đây tiền bối giết như chà kiến cỏ. Đó phải chăng là võ đạo Đại-Việt?
Thấy mọi người lắng nghe, nó dõng dạc:
- Quan chức bản triều định rằng Thị-vệ thuộc hàng tam phẩm. Tam phẩm không phải dễ gì mà trèo lên được. Thế mà tiền bối hiên ngang mặc y phục Thị-vệ. Như vậy rõ ràng tiền bối không coi phép nước tôi ra gì? Đó phải chăng là võ đạo Đại-Việt? Xin tiền bối trả lời cho.
Tuy cùng là con của Côi-sơn đại hiệp, tính tình ngang tàng, trên đầu không có ai. Nhưng Thanh-Mai, Tự-Mai theo bổn sư Tịnh-Huyền lâu năm, thâm nhiễm Phật-giáo, vì vậy hai chị em hành xử mọi việc đều uyển chuyển. Còn Thông-Mai, vì biến cố gia đình, chàng phải ra đi trong niềm bi phẫn, lại gặp sư phụ Phan Nam chứa chất hận thù. Vì vậy tính tình chàng cứng ngắt. Nghe Triệu Tiết hạch hỏi, chàng nghĩ rất nhanh:
- Những điều tên ôn con này hạch ta, thực đúng không sai chút nào. Hẳn có người dùng Lăng-không truyền ngữ mớm nó đây. Ta nhất định không chịu hèn. Ta nhận cho chúng nể mặt.
Chàng nói lớn:
- Trần mỗ là con nhà hiệp nghĩa, thấy bọn ma đầu hại dân, thì bất cứ giá nào cũng phải giết. Khi ở Đại-Việt, mỗ nghe tin bang Nhật-hồ, Trường-giang giết hại lương dân, mỗ chẳng cần biết luật lệ cho phép hay không, mỗ vượt biên sang chinh phục chúng. Nếu Tống triều cho rằng mỗ có tội, thì mỗ chịu. Vả xưa nay, võ lâm hành hiệp tức thế thiên hành đạo, những gì là nguyên tắc, luật lệ lôi thôi, quẳng mẹ nó vào thùng rác cho rồi.
Chàng cười nhạt:
- Sau khi bang Nhật-hồ hồi tỉnh lương tri, biến thành bang Hoàng-đế. Bang Trường-giang qui thuận triều đình. Ai cũng tưởng ác qủi Hồng-thiết tuyệt chủng. Nào ngờ dư đảng còn hoành hành ở Hành-Nam. Điều này làm mỗ suy nghĩ: Không chừng còn nhiều ma đầu luyến tiếc thời giết người, hại dân, tiếp tục tác ác. Vậy cần phải làm theo Khổng-tử.
Triệu Tiết hỏi:
- Tiền bối giết người không gớm tay thì tự mình nhận đi. Đừng đem bậc chí thánh, chí nhân ra làm bia che búa rìu dư luận nữa.
Thông-Mai nổi máu ngang tàng, chàng hừ một tiếng:
- Mỗ hành sự quang minh chính đại, sợ đếch gì dư luận của bọn ngu phu ngu phụ. Bạn nhỏ, bạn có biết khi Khổng-tử cầm quyền ba ngày, ngài giết gian thần Thiều Chính-Mão. Đệ tử hỏi: Thầy là bậc chí nhân, sao lại giết người?. Ngài trả lời: Sát nhất nhân vạn nhân cụ, nghĩa là giết một kẻ gian, vạn kẻ gian sợ. Cho nên mỗ giết dư đảng Nhật-hồ ở Hành-Nam, khiến cho vạn dư đảng khác sợ. Ai muốn trả thù cho chúng thì cứ tìm mỗ. Mỗ đi không đổi họ, ở chẳng thay tên. Mỗ là Trần Thông-Mai, đệ tử phái Sài-sơn thuộc nước Đại-Việt.
Chàng móc trong túi ra cái thẻ bài:
- Khi mỗ đến Biện-kinh, nghe tin dư đảng Hồng-thiết giáo Đại-Việt hợp với dư đảng bang Nhật-hồ Trung-nguyên, mưu tổ chức cuộc tạo phản. Mỗ tìm gặp Thái-sư trình bầy cho người rõ. Không ngờ người cũng biết hết chi tiết, và ra tay trước rồi. Người nhờ mỗ khuất thân đóng vai Thị-vệ, để âm thầm hộ giá hoàng-đế. Vì vậy huynh đệ bảo mỗ giả Thị-vệ là vô phép. Khi mỗ cần hộ giá hoàng-đế, dù mỗ có mặc phẩm phục của Tể-tướng cũng cứ được đi, xá gì cái phẩm phục Thị-vệ.
Triệu Tiết thấy Thông-Mai nói ngang cành bứa, nó đành im lặng.
Quách Quỳ thấy Triệu Tiết vấn nạn Thông-Mai, nó cũng bước ra hỏi:
- Trần đại hiệp, tiểu bối Quách Quỳ xin đại hiệp trả lời cho mấy câu.
- Huynh đệ cứ hỏi.
- Tiền bối coi bọn Hồng-thiết giáo là ma, là quỷ. Thế mà vừa rồi tiền bối quỳ gối bái lạy Tôn Đức-Khắc làm sư phụ. Dù là mưu kế, nhưng lễ bái sư đã có. Như vậy y cũng thành sư phụ tiền bối rồi. Vừa bái sư xong, tiền bối lại phản sư môn, như thế là chính nhân quân tử ư?
Thông-Mai chỉ xuống sân:
- Huynh đệ là người Tống. Tống dùng Nho làm chủ đạo. Nho mới nói đến chính nhân quân tử. Còn mỗ, mỗ là người Việt. Chủ đạo của tộc Việt lấy thiện nhân, lấy tương thân, tương thuận ăn ở với nhau. Tuy sau này Phật, Nho có truyền vào Đại-Việt, những cũng biến thành Nho-Việt, Phật-Việt. Vì vậy mỗ đếch cần biết cái gì là chính nhân quân tử của Nho. Mỗ chỉ biết hành xử sao cho đúng với thiện nhân là được rồi. Người hãy coi, kìa là chỗ mỗ quỳ gối lạy ma đầu. Người có thấy khi mỗ lạy, chân mỗ viết chữ bất nghĩa là không đúng. Như vậy lễ bái sư coi như vô hiệu.
Mọi người nhìn xuống sân, quả có chữ bất rất lớn.
Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ đã được Thanh-Mai điểm huyệt khiến thân thể cứng đơ. Tuy nhiên chúng vẫn tỉnh táo, nói năng được. Tôn Đức-Khắc nói với Phan Nam:
- Ta tưởng mi đào tạo được tên học trò siêu quần, thoát chúng thế nào, hóa ra chỉ là tên tiểu tử giáo hoạt. Ta tuy bại, nhưng không phục.
Dù sao Phan Nam cũng là đại tôn sư võ học, nổi danh y đạo, võ đạo một thời. Ông bảo Thông-Mai:
- Con hãy giải huyệt cho chúng, để chính tay con dùng võ công giết chúng.
Thình lình có tiếng nói rất lớn:
- Ôi! Đối với bọn đại ma đầu Hồng-thiết, bàn tay đẫm máu hàng trăm vạn người, mà cũng đạo đức với chúng ư? Giết con bà chúng đi cho rồi, cần gì phải đòi chúng phục hay không phục. Không lẽ khi giết con chó điên cũng hỏi nó có phục không, rồi mới giết hay sao? Vương gia, chúng ta xuất hiện thôi.
Thấp thoáng, ba người từ bụi hoa gần đó xuất hiện. Một người mặc phẩm phục vương tước Tống triều, hai người mặc y phục nông dân Đại-Việt: Một người đầu chít khăn, quần áo nâu. Một người quần áo xanh đầu đội mũ vải. Cả hai nông dân đeo mặt nạ da người.
Thiên-Thánh hoàng đế hướng người mặc phẩm phục vương tước, bật lên tiếng kêu:
- Bá phụ.
Định-vương gọi lớn:
- Đại huynh.
Duẫn-Thăng, Duẫn-Tín, Duẫn-Thành chạy lại quỳ gối:
- Phụ vương.
Thì ra người mặc phẩm phục vương tước là Sở-vương.
Thanh-Mai, Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh đều đưa mắt nhìn Sở-vương. Cả bốn cùng dụi mắt, tưởng mình nằm mơ, vì Sở-vương chính là hòa thượng Thượng-Quán có biệt tài trồng hoa ở chùa Sơn-tĩnh. Hồi đại hội tế Lệ-hải Bà-vương xong, bốn người theo đại sư Huệ-Sinh lên chùa Sơn-Tĩnh, đã thấy ông đang trồng hoa. Nào ngờ ông lại là Sở-vương cao quý vô cùng của triều Tống.
Mỹ-Linh chắp tay hành lễ:
- A-Di Đà-Phật ! Thì ra đại sư nguyên là hoàng thúc tước phong Sở-vương sao? Đại sư không làm hòa thượng nữa ư?
Sở-vương chỉ vào Phan Nam:
- A-Di Đà-Phật ! Cô gia bị bọn Nhật-hồ ám hại, nên phải mượn người thế thân nằm trong màn giả bệnh. Còn chính mình ngậm đắng nuốt cay mười năm qua, bỏ Tống sang Đại-Việt tìm đại y sư Hồng-Sơn trị bệnh. Hồng-Sơn đại phu sợ cô gia ở trong Vạn-thảo sơn trang e bị lộ hình tích, sẽ nguy đến tính mệnh. Người nhờ vị tiền bối đây trị cho cô gia. Để che mắt bọn Nguyên-Hạnh, cô gia thế phát quy y rồi xin thọ giới sa di. Sau khi khỏi bệnh, cô gia xin các vị chủ trì công đạo, tiêu diệt bọn ma quỷ trong hoàng cung.
Ông cười với Mỹ-Linh như cười với con cháu:
- Công chúa! Hồi giỗ Lệ-hải Bà-vương cũng là ngày bần tăng khỏi bệnh, rồi gặp công chúa trên chùa Sơn-tĩnh.
Sở-vương đến trước Hoàng-đế vái một vái:
- Hoàng thượng! Xin Hoàng-thượng ân xá cho thần tội giả chết. Nếu thần không giả chết thì không thể qua mặt được bọn ma đầu Hồng-thiết giáo.
Những biến chuyển xẩy ra dồn dập, nhà vua từ kinh ngạc này, đến kinh ngạc khác. Ông không ngờ Sở-vương, Định-vương âm thầm tổ chức cuộc diệt phe đảng Lưu hậu cẩn thận, chi tiết đến thế: Một người giả chết, một người giả đi sứ, nhưng đều đến Đại-Việt tìm hậu thuẫn bảo vệ sự nghiệp tổ tiên. Hoàng-đế đáp lễ:
- Hoàng bá còn tại thế, thực... hạnh phúc cho triều đình.
Sớ-vương chỉ tay vào mặt Lưu hậu:
- Con ma nữ này an trí không biết bao nhiêu người trong phủ thần. Khi thần điều tra ra manh mối kẻ ám hại mình, cùng Chiêu-Thành thái tử, chư vị hoàng hậu, con ma nữ này biết hết. Y thị sai người trộn thuốc độc mưu giết thần.
Vương chỉ vào một người bịt mặt mặc áo xanh:
- Giữa lúc đó, vị này xuất hiện, âm thầm cứu thần khỏi chết. Thần mới tương kế tựu kế giả liệt dường, để con ma nữ này yên tâm. Trong bóng tối thần sang Đại-Việt. Mới đây thần trở về Trung-thổ cùng với Định-vương, Khai-Quốc vương bàn tính phương lược diệt tụi Nhật-hồ.
Người bịt mặt áo xanh hỏi người bịt mặt áo nâu:
- Đại huynh nghĩ mình có nên đường đường chính chính dùng võ công giết bọn này chăng?
Người áo nâu cau mặt:
- Huynh nói lạ! Huynh thử nghĩ xem, chúng có còn tư cách của cầm thú không mà dùng võ đạo với chúng. Tội chúng quá nặng nề. Đệ nghĩ, chẳng nên giết chúng. Giết chúng. Giết chúng mau chóng, chẳmg hóa ra giải thoát cho chúng ư?
- Vậy huynh nghĩ xem nên xử chúng như thế nào?
Hiện diện có gần nghìn văn võ Tống triều cùng sứ đoàn. Họ thấy Phan Nam, Ngô Quảng-Thiên, Thông-Mai đã ngang tàng, coi họ như không có. Họ đã lấy làm khó chịu. Bây giờ hai ông này còn ngang tàng hơn. Hai ông coi như không biết tới Hoàng-đế. Hơn nữa, ngay tại Hoàng-thành, mà bàn nhau xử tội nhân, như vậy còn trời đất nào nữa?
- Đệ có cách.
Người bịt mặt áo nâu nói với Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản:
- Nếu ta giết người trong khi người bị điểm huyệt, thì e có kẻ bất phục. Vậy ta sẽ giải khai huyệt đạo, và đánh người ba chưởng. Sau ba chưởng, dù người chết hay sống, cũng được ân xá.
Ông hất hàm cho Thanh-Mai:
- Giải huyệt chúng.
Thanh-Mai líu ríu tiến đến vỗ lên đầu Sử-vạn, Khiếu. Hai người rùng mình đứng dậy. Người áo nâu hất hàm nói với Sử-vạn:
- Người xuất chiêu đi.
Sử-vạn Na-vượng đưa mắt cho Khiếu Tam Bản, rồi cả hai cùng hít hơi vận đủ mười thành công lực đánh vào người áo nâu. Chưởng phong trầm trọng, mùi hôi tanh nồng nặc bốc ra. Mọi người đều bị bật lui lại sau.
Người áo nâu hít hơi đẩy ra một chưởng hướng Sử-vạn Na-vượng. Chưởng của y đổi chiều đánh vào chưởng của Khiếu Tam Bản. Bình một tiếng. Sử-vạn, Khiếu đồng bật lui liền bồn bước. Khí huyết đảo lộn, tai phát ra tiếng kêu o o không ngừng.
Người áo nâu tiếp:
- Một chiêu. Còn hai chiêu nữa.
Sử-vạn, Khiếu nhìn nhau, mỗi người cùng rút trong bọc ra hai thanh nga mi kiếm. Chúng quát lên, rồi hướng người áo nâu bổ xuống. Người áo nâu chìa ngón tay ra. Bốn chỉ veo, veo khiến bốn thanh nga mi kiếm cùng vuột tay chúng bay lên cao. Trong khi đó ông phát hai chưởng. Chưởng phong như sét nổ, khiến cây, cỏ, hoa xung quanh bị áp lực bật rễ bay tung lên cao. Những người hiện diện đều muốn nổ tung lồng ngực.
Sử-vạn, Khiếu vội phát hai chưởng chống lại. Bình, bình, hai người bay tung lên cao. Nhanh như chớp người áo nâu hướng tay lên không móc một cái, bốn thanh nga mi kiếm rơi vào tay ông. Ông bắt lấy, rồi quay tay một cái, bốn thanh kiếm hướng Sử-vạn, Khiếu đang chơi vơi trên không. Hai tên bị kiếm tiện đứt chân. Chúng kêu thét lên như con lợn bị chọc tiết.
Trong khi người Sử-vạn, Khiếu còn quay tròn trên không. Người áo nâu vọt lên cao, bắt lấy bốn thanh kiếm. Ánh kiếm lóe lên, bốn tay của Sử-vạn, Khiếu lại bị tiện đứt. Đến đây chúng vẫn chưa rơi xuống đất. Ông vung tay một cái, thân xác chúng lại bị tung lên cao. Ông chĩa hai ngón tay, bốn chỉ phát ra êm đềm hướng đầu Sử-vạn, Khiếu.
Hai ma đầu rơi xuống đất như hai khúc gỗ: Chân, tay đã bị tiện đứt. Con ngươi mắt lòi ra ngoài. Máu trên người chúng chảy ra xối xả.
Nhanh nhẹn, Thiếu-Mai, Lê Văn lạng người tới điểm vào các yếu huyệt cầm máu cho Sử-vạn, Khiếu, rồi băng bó chân, tay cho chúng. Trong khi chúng la hét thảm thiết.
Thiếu-Mai móc trong bọc ra hộp thuốc trao cho Vương-Văn:
- Đại tướng quân. Tôi đã điểm huyệt trấn thống, cầm máu, cùng băng vết thương cho chúng. Tuy nhiên phương pháp điểm huyệt chỉ có hiệu lực hai giờ. Sau hai giờ chúng sẽ đau đớn vô cùng. Đây là thuốc trấn thống, xin đại tướng quân cho chúng uống. Sáng, trưa, chiều, mỗi lần hai viên. Sau năm ngày, vết thương sẽ lành, không sợ chúng chết nữa.
Người mặc áo nâu nói lớn:
- Hai ma đầu. Từ nay người bị mù mắt, què chân, cụt tay sống như thú vật. Như vậy để bọn mi có thời giờ sám hối. Bây giờ bọn mi mới thấy cái đau đớn, khốn khổ của hàng vạn người bị bọn mi hành hạ dở sống, dở chết.
Ông chỉ vào Tôn, Lê hỏi người bịt mặt áo xanh:
- Hai tên này huynh tính sao?
Người mặc áo xanh chưa kịp trả lời thì Phan Nam đã nói:
- Phái Sài-sơn ta nổi danh y học. Vậy hãy dùng thuốc mà trị chúng.
Lạ thay, người áo xanh ngang tàng là vậy, mà líu ríu tuân theo lệnh Phan-Nam. Ông nói với Tôn Đức-Khắc:
- Ta cũng đánh mi ba chiêu. Nếu sau ba chiêu mà mi vô sự, ta tha cho mi rời khỏi đây.
Ông hất hàm ra lệnh cho Lê Văn. Lê Văn tiến tới vỗ vào huyệt Đại-trùy giải khai huyệt đạo cho Tôn Đức-Khắc. Y rùng mình một cái, rồi vọt mình đứng dậy. Người áo xanh nói:
- Ta phát chiêu thứ nhất đây.
Ông vung tay. Mọi người nhận ra đó là chiêu Lôi đả ân-tặc thuộc Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Ai cũng ngạc nhiên sao chiêu này không lấy gì làm dũng mãnh cho lắm.
Tôn Đức-Khắc vận một chiêu chưởng Cửu-chân tên Loa-thành nguyệt chiếu đỡ. Chưởng phong cực kỳ trầm trọng. Ai cũng nhận ra chưởng của y mạnh hơn chưởng của Sử-vạn nhiều. Xùy một tiếng, hai chưởng gặp nhau. Người mặc áo xanh lùi một bước. Còn Tôn tiến lên một bước.
Người mặc áo xanh đếm:
- Một chiêu.
Tôn Đức-Khắc thấy người mặc áo xanh dùng một thứ nội công âm nhu phát Thiên-vương chưởng, dường như không làm gì được mình. Y phấn khởi phát chiêu thứ nhì. Chiêu này y vận Chu-sa độc. Người kia lại phát chiêu Thiên-vương chưởng bằng âm kình. Xùy một tiếng, ông lại lùi hai bước, trong khi Tôn tiến lên hai bước. Người mặc áo xanh đếm:
- Hai chiêu. Còn một chiêu nữa.
Tôn Đức-Khắc thấp thỏm mừng thầm. Y phát chiêu thứ ba vẫn là võ công Cửu-chân. Người áo xanh vẫn xuất chiêu Thiên-vương chưởng đỡ. Xùy một tiếng. Tôn Đức-Khắc tiến lên ba bước, trong khi người mặc áo xanh lùi ba bước. Ông đếm:
- Ba chiêu. Người có thể rời khỏi đây được rồi.
Tôn Đức-Khắc cười ha hả một tràng dài. Y hỏi người áo xanh:
- Người là ai?
Người áo xanh lắc đầu không trả lời. Tôn Đức-Khắc nói lớn:
- Có còn ai muốn lĩnh Chu-sa độc chưởng của ta không? Bằng không ta đi đây.
Chưa ai kịp trả lời, thì y đưa tay lên dụi mắt, rồi xòe bàn tay ra nhìn vào, rồi lại đưa tay lên dụi mắt.
Thông-Mai cười nhạt:
- Mi mù rồi.
Tôn Đức-Khắc kinh ngạc:
- Ta mù ư?
Thông-Mai cười lớn:
- Mi ngu quá đi. Trong thời gian ngồi ở núi Thần-đầu luyện công trị thương. Sư phụ ta đã chế ra nội công âm nhu, rồi dùng nội công đó luyện Thiên-vương chưởng với dược liệu. Chưởng này có thể đẩy thuốc bổ vào người ta mà trị bệnh, nhưng cũng có thể dùng để trị tội bọn ác bá như mi.
Chàng vẫn cười:
- Vừa rồi sư huynh ta đánh chiêu thứ nhất, đã dùng thần công âm nhu đẩy Ma-hoàng, Quế-chi, Xuyên-khung vào Túc-dương-minh vị kinh. Mà kinh này chạy qua mắt. Do vậy mắt mi bị ba dược vị đó phá tan các mạch máu. Mi trở thành mù rồi.
Ai nghe Thông-Mai nói cũng rùng mình kinh khủng.
Đến đó Tôn Đức-Khắc ngã ngồi xuống. Hai tay rũ ra như người vô lực. Thông-Mai tiếp:
- Chiêu thứ nhì, sư huynh ta đẩy vào kinh Thủ-thái-dương của mi bốn viên Hủ-cân phá cốt hoàn. Loại thuốc này cũng do sư phụ ta nghiên cứu chế đặc biệt dành cho mi. Sau khi thuốc vào người mi, một khắc sau gân cốt chân tay hóa ra mềm xèo. Mi không què cụt, mà cũng giống như què cụt.
Mọi người hướng Phan Nam lấm lét nhìn lão, trong lòng nghĩ thầm:
- Lão này nghĩ ra biện pháp trả thù quá kinh khủng. Thực tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả.
Thông-Mai tiếp:
- Mi biết chiêu thứ ba sư huynh ta làm gì mi không? Người đẩy vào Nhâm-mạch mi ít bột Hủ-mạch-tán. Nhâm mạch thông qua lưỡi. Vì vậy lát nữa đây lưỡi mi sẽ cứng như miếng da khô, mi không nói được nữa. Mi sẽ thành tên câm, mù, què.
Chàng dõng dạc:
- Mi sống như cục gỗ. Đúng ra sư huynh ta định dồn thuốc cho mi điếc nữa. Nhưng sư phụ ta muốn để tai mi còn, hầu hằng ngày nghe được những lời thống mạ của thiên hạ.
Đến đó Tôn Đức-Khắc ú ớ trong miệng, chứng tỏ y câm.
Người áo nâu chỉ tên Lê Lục-Vũ nói với Ngô-Quảng-Thiên:
- Ngô tiền bối. Tên này để tiền bối phát lạc.