Chương 33b
Vương chỉ Bảo-Hoà, Thông-Mai:
- Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng hai đội bốn mươi cao thủ ẩn trên bờ sông, nơi có hai chiến thuyền chở lương từ Hổ-môn tới. Trong khi ngũ sư thúc, Nùng-Đạo trưởng chở đá đi, hai người lén đột nhập chiến thuyền, điểm huyệt hết thủy thủ, rồi ra hiệu cho người của ta xuống. Tất cả lột quần áo thủy thủ Tống mặc vào, cho thuyền ghé vào cửa hang. Bấy giờ ta mới chuyển kho tàng đi, kéo buồm về Hổ-môn. Thuyền của ta là thuyền thủy quân Tống, dọc đường không ai dám kiểm soát. Phải sao cho thuyền tới nơi giữa đêm. Tới Hổ-môn, kéo buồm hướng Hải-Nam. Trên đường đi, có bang Đường-lang hộ tống xa xa cho tới lãnh hải Việt. Tới Lãnh hải Việt, bang Hồng-hà hộ tống về Thăng-long.
Vương nhìn Vương-phi cười:
- Chúng ta tới Khúc-giang công khai, để Khu-mật viện Tống coi thường ta không biết bảo mật. Chúng theo dõi ta vô ích.
Vương hỏi mọi người:
- Có ai thắc mắc gì không?
Tự-Mai đề nghị:
- Hiện bọn Tống tưởng chúng em do Khu-mật viện Việt sai tới. Sau khi thuyền chở kho tàng đi rồi, bọn em quay ra phá phách chính người của mình. Như vậy bọn Tống điên cái đầu lên. Không biết bọn em thuộc phe phái nào của Đại-Việt?
- Ý kiến hay. Nếu cần gây cuộc đấu với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, cùng Lạc-long giáo.
Vương nhìn Thông-Mai, Bảo-Hòa:
- Sau khi hộ tống kho tàng về Đại-Việt, Thông-Mai, Bảo-Hòa trở qua liền. Cả hai bí mật điều động hệ thống tế tác Đông-a, Khu-mật-viện theo dõi mọi hành tung của Lưu hậu, Triệu Thành. Nghĩa là sứ đoàn đóng vai hiền lành, không xử dụng võ công. Trong bóng tối Thông-Mai, Bảo-Hòa lo bảo vệ, thi hành quốc sách Đại-Việt: Mềm với triều Tống, cứng với biên thần, nhất là thẳng tay tàn sát bọn quan lại làm hại ta.
Buổi họp chấm dứt.
Hôm sau, Vương ra lệnh cho thuyền đi thực chậm, để ngắm cảnh. Mỗi khi tới một trấn nhỏ, Vương lại cùng Vương-phi lên bờ mua sắm, ngoạn cảnh, lễ Phật cùng ăn uống. Vợ chồng Phi Lịch cho rằng vị Vương-gia này mới cưới vợ, nên mượn cớ Hoa du, hưởng trăng mật. Cho nên đáng lẽ thuyền chỉ đi đi năm ngày tới Khúc-giang, mà kéo dài tới gần tháng. Sự thực vương lỉnh kỉnh như vậy, để Khu-mật viện Tống thấy vương chưa tới, không đề phòng, trong khi mọi người có thời gian hành động.
Hôm ấy thuyền đến Khúc-giang.
Thị trấn Khúc-giang khá lớn. Trời về đêm, dọc bờ sông hàng nghìn con thuyền đậu san sát, đèn thắp sáng rực. Thuyền trưởng tìm chỗ cho thuyền đậu. Khai-Quốc vương bảo Thanh-Mai:
- Chúng ta lên bờ xem cho biết Khúc-giang về đêm.
Dạo một vòng, Thanh-Mai nhận biết trong trấn có không biết bao nhiêu khách lạ. Hai người tìm vào tửu lầu lớn nhất. Tửu bảo thấy một đôi thanh niên nam nữ trang phục sang trọng, tư thái khác phàm. Y cúi rạp người xuống mời lên lầu. Thanh-Mai chọn một bàn trông ra sông, rồi liếc mắt quan sát, nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói với vương:
- Có hai đứa, một nam, một nữ theo chúng mình từ lúc lên bờ. Chúng ngồi phía sau ta. Chắc người của Khu-mật viện Tống. Mình có nên giữ kín thân phận không?
- Không! Mình cứ nói tiếng Việt, như vậy tỏ ra mình đang tìm quan lại người Tống.
Tửu bảo đến trước bàn. Thanh-Mai hỏi bằng tiếng Việt:
- Em có biết nói tiếng Việt không?
Y lắc đầu, vẫy tay gọi một thiếu nữ lại. Thiếu nữ kính cẩn hỏi bằng tiếng Việt:
- Không biết quan gia xơi món gì?
Thanh-Mai nói:
- Chúng tôi từ Đại-Việt qua, muốn dùng mấy món thổ sản xứ Quảng. Cô bảo nên gọi những gì?
Thiếu nữ đáp:
- Gà Khúc-giang hấp nấm hương, hạt điều nổi tiếng nhất ở đây. Sau đến cá hầm Hổ-môn. Thịt lợn rừng ướp ngũ vị hương nướng. Đó là ba món Quảng ngon nhất.
- Cô cho chúng tôi mỗi thứ hai phần ăn.
- Quan khách có dùng rượu không?
- Chúng tôi theo đạo Phật, giới tửu.
Thiếu nữ vừa lui, thì nhạc công cùng ca nhi tới. Nhạc công tuổi trên ba mươi. Ca kỹ tuổi khoảng hai mươi, hai mươi mốt. Nàng có đôi vai tròn, lưng ong, mái tóc thả xuống ngang vai óng mượt. Nhạc công cúi đầu hành lễ. Ca kỹ hỏi:
- Kính mời quan khách thưởng thức âm nhạc!
Thanh-Mai gật đầu:
- Xin cô nương cho biết quý danh?
Thiếu nữ dơ tay vuốt mái tóc, dáng điệu cực thanh nhã. Nàng lễ phép:
- Tiểu nhân tên Thụy-Hương. Còn tiện phu tên Linh-Bảo.
- Hay quá. Chúng tôi muốn được thưởng lãm bài Tỳ bà hành của Bạch Lạc-Thiên, ca theo cổ điệu.
Thiếu nữ thấy Thanh-Mai muốn nghe khúc hát rất tao nhã thời Đường, tỏ ý kính phục:
- Tiểu nữ xin tấu hầu quan gia cùng phu nhân.
Khai-Quốc vương được quan Thái-phó dạy rất kỹ về văn học Hoa, Việt. Song Vương chỉ chú ý về kinh, sử, nhất là chư tử học, hầu áp dụng vào việc trị nước. Đối với thơ văn, Vương liếc qua, rồi bỏ. Vì vậy khi Vương-phi đề cập đến khúc hát này, Vương ngơ ngác. Thanh-Mai biết ý chồng, nàng giảng:
Bạch Cư-Dị là đại thi hào đời Đường. Ông hiệu Lạc-Thiên. Học giỏi, đậu tiến sĩ. Niên hiệu Nguyên-hòa thứ mười (815), bị giáng chức làm Tư-mã ở Cửu-giang. Mùa thu năm sau, nhân tiễn khách ở bến Bồn, giữa đêm nghe tiếng đàn thảm thiết bên sông vọng lên. Hỏi ra mới biết đó là tiếng đàn của đệ nhất danh kỹ đế đô, về già, lấy một lái buôn trà. Lái buôn để nàng trên con thuyền vắng, rồi xuôi ngược bốn phương. Bạch cảm thán cho danh sĩ với giai nhân, cùng kiếp hoa nghiêm nặng nợ» mời nàng qua thuyền mình đánh đàn, hát. Nàng vừa hát vừa kể lại cuộc đời đoạn trường của mình. Nhân đó Bạch làm bài ca này lưu niệm.
Nhạc công cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu vừa cất lên, khiến cả tửu lầu đang ồn ào, bỗng trở lên im phăng phắc. Tiếng tiêu tuy nhỏ, mà vang đi rất xa. Khi cao lên vút từng mây, khi thấp tiếng thì thầm của đôi tình nhân.
Linh-Bảo tấu xong một đoạn, Thụy-Hương vừa dạo đàn, vứa hát. Tiếng nàng trong dài, cao vút nhưng nhẹ như gió thoảng, hoà hợp với tiếng tiêu như đứt ruột khách đa tình:
Tầm-dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp lô hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân hạ mã, khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
Túy bất thành hoan thảm tương biệt,
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh,
Chủ nhân vong quy khách bất phiết (1)
Ghi chú
(1) Phan Huy-Vịnh dịch như sau:
Bến Tầm-dương cannh khuya đưa khách,
Quạnh hơi Thu lau làch đìu hiu,
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty.
Say luống những ngại khi chia rẽ,
Nước gương trong đượm vẻ gương soi,
Tỳ bà đâu vẳng bên sông,
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.
Thanh-Mai giảng giải:
- Bến Tầm-dương, buổi tối, tiễn khách. Bến sông nghe lá lau cọ vào nhau sàn sạt. Chủ nhân xuống ngựa, khách xuống thuyền. Hai bên cùng cất chén, mà cạn không được. Tuy say, mà không vui, vì phải xa nhau giữa cảnh sông trăng thê lương. Hốt nhiên tiếng đàn từ đâu vọng lại. Khiến chủ nhân không muốn về, khách dùng dằng chẳng cất bước.
Thụy-Hương ca dứt một đoạn, nàng dạo đàn, rồi chuyển sang tiếng Việt, làm Khai-Quốc vương với Thanh-Mai bỡ ngỡ không ít. Cứ thế cho đến câu cuối cùng:
Tựu trung khấp hạ thùy tối đa,
Giang-châu Tư-mã thanh sam khấp.(2)
Ghi chú
(2) Phan Huy-Vịnh dịch như sau:
Lê ai chan chứa hơn người,
Giang-châu Tư-mã đượm mùi áo xanh
Thình lình có tiếng la hét ở dưới vọng lên. Thực khách cùng đổ xô ra nhìn xuống. Bên dưới, một ngư nhân hình dáng rất kỳ dị, chân dài thoòng, mình ngắn đang chạy trước. Phía sau một vị võ quan phùng mang, trợn mắt, tay cầm kiếm đuổi theo. Ngư nhân vừa chạy, vừa quay lại, miệng thè lưỡi ra nhát viên võ quan. Viên võ quan đuổi sát đến sau lưng ngư nhân vung kiếm lên chém.
Ngư nhân trầm người xuống tránh, rồi xé vạt áo viên võ quan đến xoạc một tiếng. Y chạy ngược trở lại, miệng cười ha hả, để tay lên mũi tỏ ý kiêu ngạo viên võ quan.
Viên võ quan lại hùng hổ đuổi theo. Ngư nhân chờ cho y tới gần, xả kiếm chém rồi trầm người tránh, tay vung ra xé áo nữa. Lần này viên võ quan để hở cả ngực, lông lá đen sì. Dân chúng vỗ tay cười ha hả.
Giữa lúc ngư nhân, võ quan rượt bắt, có ba người đi tới. Thoáng nhìn, Thanh-Mai đã nhận ra Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh với Địch Thanh. Dư Tĩnh nhìn thân pháp ngư nhân, nói với Địch Thanh:
- Sư đệ, người thử đoán xem ngư nhân thuộc môn phái nào?
Địch Thanh lắc đầu:
- Khó đoán quá. Cái trầm người lần trước giống thân pháp phái Sài-sơn. Y vung tay xé áo, thuộc ưng trảo phái Đông-a. Khi chạy y dùng khinh công phái Mê-linh. Chắc chắn y người Giao-chỉ chứ không phải người vùng này.
Viên võ quan đuổi không kịp ngư nhân, miệng thở hào hển. Ngư nhân ngừng lại để tay lên mũi cười trêu:
- Này đại nhân. Đại nhân thân làm tới Thiên tướng, mà không giữ lời hứa. Như vậy có xứng đáng không?
Ngư nhân chìa ra cái bọc:
- Thôi trả đại nhân đây.
Viên võ quan chạy lại, dơ tay tiếp cái túi. Khi tay y sắp chạm vào túi, thì ngư nhân lùi một bước. Không hiểu y dùng cách gì, đã đứng sau viên võ quan. Y vỗ tay vào cổ viên võ quan. Viên võ quan đứng im như trời trồng, không động đậy.
Ngư nhân cười xì, rồi chạy vào đám đông. Nhưng thấp thoáng, một người đã đứng trước mặt ngư nhân. Suýt nữa ngư nhân đâm sầm vào người kia. Ngư nhân dừng lại trợn mắt nhìn người đó. Y chính thị Dư Tĩnh.
Thanh-Mai hỏi sẽ chồng:
- Anh có biết ngư nhân là ai không?
- Lê-Văn!
- Đúng đó! Anh ra lệnh cho bọn năm ông thiên lôi tự do phá phách. Em e trấn Khúc-giang này đến nổ tung ra mất.
- Em đừng sợ. Đám sư đệ của mình đều được huấn luyện rất kỹ. Căn bản luân lý, võ đạo cực cao. Sau nhiều biến cố, anh muốn thả chúng ra, hầu biết khả năng chúng đến đâu.
Lê Văn ngửa mặt nhìn Dư Tĩnh:
- Ô hô! Ngài An-phủ sứ Quảmg-Tây! Ngài sang đây làm gì vậy?
Liếc thấy Đông-Sơn lão nhân với Địch Thanh, nó méo miệng trêu:
- Ồ! Lại cả Đông-Sơn đạo sư cùng với Địch trạng nguyên nữa.
Bình-Nam vương Triệu Thành muốn bí mật đem tùy tòng tới Khúc-giang, nên đã phải bầy ra kế cho Phạm Trọng-Yêm bắt đi, rồi đám Đông-Sơn lão nhân, Minh-Thiên chia làm hai, âm thầm đi sau, quỷ không biết, thần không hay. Bây giờ thấy quái nhân gọi đích danh ra giữa chỗ đông. Ba người giật mình đến thót một cái, tự hỏi:
- Quái nhân này lý lịch ra sao?
Dư Tĩnh tuyệt không ngờ ngư nhân nhận được mình. Y hỏi:
- Này ông bạn. Ông bạn đại danh gì vậy?
- Ta không có đại danh, mà chỉ có tiểu danh thôi. Ta họ Lạc. Bố ta tên Lạc-long-Quân, mẹ ta tên Âu-Cơ.
Lê Văn cười ha hả:
- Dư an phủ sứ! Người thân làm biên cương đại thần, tổng trấn Quảng-Tây lộ, nhiệm vụ không nhỏ, người sang đây làm gì vậy?
Dân chúng thấy ngư nhân gọi một khách quan là An phủ sứ, rồi khách quan ứng lời đáp lại. Họ giật mình tự hỏi:
- Vị đại quan này từ Quảng-Tây sang đây làm gì vậy kìa?
Triều Tống, quan lại đối với dân chúng cực kỳ oai vệ. Chức An-phủ sứ, thuộc hàng cực phẩm, quyền hành biên thùy một cõi, có quyền tiền trảm, hậu tấu đối với bất cứ quan dân nào phạm tội. Khi An-phủ sứ đi ra ngoài, tiền hô hậu ủng, hào lại, hương lý phải thắp hương đứng đón bên đường, hai tay chắp lại vái dài. Bây giờ họ thấy Dư Tĩnh an nhàn trong lớp y phục quý tộc. Họ tin ngay.
Dư Tĩnh chỉ cái túi trên vai Lê Văn:
- Ông bạn! Cái túi kia không phải sở hữu chủ của vị tướng quân. Nó là túi của đức hoàng-đế ban cho y, trong đựng bằng sắc, ấn tín. Ta muốn ông bạn trả viên võ quan cái túi này!
- Trả ư? Thì tôi trả. Đây, ngài cầm lấy đi.
Nó đưa cái túi cho Dư Tĩnh. Dư Tĩnh tiếp túi.
Thình lình tay Lê Văn phóng chỉ đến véo một tiếng, trúng huyệt Khúc-trì của Dư Tĩnh. Chân tay y cứng đơ. Lê Văn luồn tay, giật cái bọc của Dư, rồi bỏ chạy.
Địch Thanh kinh hoảng vọt mình theo Lê Văn, lập tức Lê Văn phóng lại phía sau một viên thuốc. Thuốc tan thành bột. Địch Thanh tưởng thuốc độc, y kinh hãy nhảy lui liền bốn bước. Lê Văn đã biến mất.
Một đội lính tuần tới. Chúng vội đỡ viên võ quan đem đi. Địch Thanh cũng vác sư huynh rời khỏi đám đông.
Khai-Quốc vương với Thanh-Mai trở về bàn. Nàng ca kỹ Thụy-Hương vẫn còn ngồi đó. Thanh-Mai xin lỗi:
- Chúng tôi sơ ý quá, để uổng phí thời gian nghe giọng vàng của cô nương.
Nàng móc túi tặng Thụy-Hương một nén bạc. Tại Quảng-Đông hồi đó, một nén bạc có mười lượng. Một lượng ăn trăm quan tiền. Một khúc hát, cao nhất khoảng trăm đồng. Như vậy Thanh-Mai trả cao gấp sáu trăm lần. Thụy-Hương cúi đầu cảm tạ.
Thanh-Mai hỏi:
- Cô nương có biết viên võ quan đó lý lịch ra sao không?
- Thưa phu nhân, ông tên Nguyễn Văn-Kiên, chỉ huy đội kị binh trấn này. Nguyên sáng nay có năm ngư nhân câu cá bên sông. Không biết họ từ đâu đến, và dùng thứ mồi gì không rõ, câu được mấy con cá chép cực to. Họ mang lên chợ bán. Văn-Kiên đang uống rượu trên tửu lầu, đòi tửu bảo mua con to nhất, rán cho ông ta ăn. Ngư nhân ra giá một trăm đồng. Văn-Kiên chỉ trả có mười đồng. Thế rồi hai bên gây gổ nhau. Văn-Kiên nổi cộc, dùng sức đoạt con cá. Ngư nhân cười xoà, cầm cần câu vung lên, lưỡi câu móc trúng cái túi trên lưng Văn-Kiên rồi bỏ chạy. Cuộc rượt bắt khắp trấn từ sáng đến giờ mới chấm dứt.
Linh-Bảo tiếp:
- Suốt mấy hôm nay, năm ngư nhân phá phách làm trấn này muốn nổ tung ra được. Có điều ngư nhân chỉ trêu ghẹo bọn cường hào, ác bá, bọn tham quan ô lại. Chứ đối với dân chúng lại cực kỳ lễ độ. Nên ai cũng ưa.
Thụy-Hương móc trong túi ra cái hộp nhỏ:
- Tiểu nhân bị đau cổ suốt tháng nay, không thầy lang nào trị được. Thế mà một ngư nhân bảo tiểu nhân thè lưỡi cho coi, chẩn mạch, rồi ban hộp thuốc này. Lạ thay chỉ uống một ngày bệnh đã hết.
- Thế họ có đòi tiền không?
- Không những không đòi tiền, mà còn cho tiểu nhân cái này nữa.
Nàng trình ra một đồng tiền vàng, trên khắc hình con chim âu với con rồng đó là biểu hiệu của trưởng lão Lạc-long giáo. Thanh-Mai giật mình nghĩ thầm:
- Chắc hai người này do Thiệu-Thái sai đi tìm mình đây.
Vương biết Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đã đến đây từ trước, hàng ngày sai chim ưng thông tin cho vương biết mọi diễn biến xẩy ra. Bây giờ hai người sai Thụy-Hương cầm ống sáo trong bọc đưa ra cho Thanh-Mai, chắc có điều gì trọng yếu.
Hương nói:
- Phu nhân! Duyên may gặp tri âm, xin dâng phu nhân ống tiêu này làm lưu niệm.
Thanh-Mai vội tiếp ống tiêu:
- Đa tạ cô nương.
Linh-Bảo, Thụy-Hương chắp tay vái, xuống lầu.
Khai-Quốc vương cùng Vương-phi trả tiền, rồi xuống lầu, dạo chơi khắp trấn. Đi đến đâu vương cũng nghe đồn về hành trạng của năm ngư nhân, rồi năm thiếu niên Việt, rồi năm bà già, năm ông già. Dân chúng cho rằng những dị nhân đó không ở trong trấn. Có lẽ họ thuộc một bang, một phái nào từ Đại-Việt sang cũng nên.
Thanh-Mai nói nhỏ vào tai chồng:
- Anh coi! Bọn chúng giả trang hay quá, đến nỗi người ta tưởng có bốn bọn khác nhau.
Tới khu vực gần dinh quan tổng trấn, một đám đông người đang vây thành vòng tròn. Phải khó nhọc lắm, hai người mới chen được chân, nhìn vào. Liếc qua, bất giác Thanh-Mai suýt bật thành tiếng cười.
Bên trong, có bốn thầy lang, cùng cô gái trang phục theo lối Quảng. Cô gái chính là Hà- Thiện-Lãm. Tự-Mai đang diễn thuyết:
- Anh em chúng tôi, bốn người làm nghề bán thuốc rong từ Đại-Việt sang đây. Chúng tôi nguyện chữa trị cho dân chúng, không đòi tiền. Tuy nhiên các vị cho tiền do tự nguyện, xin bỏ vào chiếc rá này.
Dân chúng ào ào hỏi:
- Chữa được những bệnh gì?
- Một là chúng tôi không chữa cho người chết sống dậy được. Hai là không chữa được bệnh hủi. Ba là không chữa được bệnh lao. Bốn là không chữa cho người bị cổ chứng. Năm là không chữa được bệnh lại (ung thư ngày nay).
Giữa lúc đó, có tiếng kêu la, rồi người ta rẽ đám đông đi vào. Một trung niên nam tử bồng đứa trẻ nói: - Các thầy lang ơi. Xin cứu con tôi với.
Lê Văn hỏi:
- Bệnh tình cháu ra sao?
- Con ở nhà tôi cho cháu uống thuốc, đã cho cháu uống lầm thuốc nhuộm. Hiện cháu đau bụng khốn khổ từ nãy đến giờ.
Lê Văn chẩn mạch sơ qua rồi nói:
- Không hề gì.
Nó mở hộp lấy kim, vạch áo đứa trẻ, châm vào huyệt Kiên-tĩnh, rồi dồn chân khí vào. Phút chốc, đứa trẻ buồn mửa. Mửa thốc mửa tháo ra.
Đợi đứa trẻ mửa xong, Lê Văn vẫy tay, Tự-Mai trao cho nó bát nước:
- Uống nước đi cháu.
Đứa trẻ uống hết bát nước. Lê Văn lại xoay kim. Đứa trẻ tiếp tục mửa. Cứ như vậy bốn lần, Lê Văn cầm kim châm vào huyệt Nội-quan, Công-tôn, Túc-tam-lý, Thái-khê, Thái-xung đứa nhỏ. Tay nó vỗ lưng thằng bé:
- Cháu khỏi đau bụng rồi! Độc đã mửa ra hết.
Nó nói với người cha:
- Ông về lấy một cân đậu xanh, cả vỏ, dã nhỏ, chắt lấy nước sống cho cháu uống. Chiều cháu tiêu chảy, nhưng đừng sợ. Độc chất tôi đã dùng châm cứu trục ra hết, phần còn lại, đậu xanh sẽ hoá giải đi.
Ông bố đứa trẻ chắp tay lạy dài rồi bế con về.
Đám đông có nhiều người đến xin trị bệnh. Lê Văn chữa. Tự-Mai, Tôn Đản, Thuận-Tông phụ giúp. Cô Thiện-Lãm phát thuốc. Tiền trong rá đã đầy ắp.
Bỗng có tiếng hò hét, rồi đám đông rẽ ra. Một đội trưởng dẫn năm người lính đeo đoản đao đi vào. Người đội trưởng hất hàm hỏi:
- Trong năm người, ai cầm đầu?
Tôn Đản bước ra:
- Thưa, tôi.
- Các người là người Việt sang đây phải không?
- Vâng.
- Thẻ bài nhập cảnh đâu?
Tự-Mai hỏi ngược lại:
- Trong trấn này có đến mấy vạn người Việt, đâu cần thẻ bài nhập cảnh!
Đội trưởng lắc đầu:
- Không có thẻ bài nhập cảnh chắc làm gian tế. Mau về gặp quan trấn thủ.
Tự-Mai dốc cái rá tiền vào túi, nháy các bạn rồi hô lớn:
- Hò dô ta! Nào cùng đi!
Năm đứa vung tay, phát chưởng tấn công vào năm người lính. Năm người lính tuyệt không ngờ mấy thầy lang dám đánh quan binh, nên không đề phòng. Họ trầm người xuống tránh. Thì nhanh như chớp bọn Tôn Đản đã biến vào đám đông mất dạng.
Khai-Quốc vương với Thanh-Mai dạo chơi một vòng trấn, rồi về thuyền. Vừa tới thuyền, Phi Lịch báo:
- Khải tấu vương gia, có năm kỳ lão xin yết kiến vương gia, dâng thổ sản. Thần đã mời họ vào khoang chính, chờ Vương-gia nhưng họ từ chối xin về, sẽ tới hầu Vương-gia sau.
- Họ tặng gì vậy?
- Hoa quả, gà nướng, cá nướng, lợn quay, chim hầm.
Khai-Quốc vương vào khoang. Trên bàn có con lợn sữa quay vàng ngậy. Mũi cắm một đóa hoa hồng. Một mâm khác, trong để năm con gà nướng, trang trí theo tư thức đứng. Bốn con mái, chầu vào con trống ở giữa. Một mâm nữa, có năm bát bằng bạc, mỗi bát đựng một con bồ câu hầm thuốc với ngũ đậu. Một mâm khác, đựng cặp cá chép rán vàng, mà miệng vẫn thở hào hển. Hai mâm đựng đủ thứ quả, điểm thêm hoa cao nghệu thực đẹp.
Thanh-Mai hỏi:
- Họ có xưng tên không?
- Không. Họ nói họ sẽ trở lại.
Khai-Quốc vương biết ngay đây là trò hý lộng quỷ thần của năm cậu em. Vương nói với Thanh-Mai:
- Anh cho phép chúng phá, không ngờ hết chỗ phá, chúng phá cả mình.
Thanh-Mai cười:
- Tự anh chỉ cấm chúng không được phá dân chúng. Anh đâu có phải dân chúng, mà bọn quái chừa ra?
Vương truyền Phi Lịch chia cho thuyền phu cùng nhau ăn uống. Còn Vương với Vương-phi lên sàn thuyền ngắm Khúc-giang trong đêm. Vương lấy ống sáo mà Hương-Bảo trao cho đem ra ngắm: Trong ruột có cuộn giấy. Vương moi ra xem. Giữa ống có hơn mười tờ giấy tấu trình của Mỹ-Linh từng chi tiết một về những gì đã xẩy ra. Quan trọng nhất, gồm chi tiết cuộc tìm kiếm vết tích kho tàng ở cửa Sa-khẩu, lăng Khúc-giang ngũ hùng.
Hơn nửa tháng liền, ngày nào cũng có người mang thức ăn trân quý tới, xưng là kỳ lão, dâng thức ngon vật lạ lên Khai-Quốc vương. Thanh-Mai sốt ruột nói:
- Chúng mình đã xuất hiện. Bọn Tôn Đản nhờ nhà hàng làm thức ăn, sai bô lão mang đến. Truyện này chỉ một ngày, cả trấn đều biết anh ở đây. Thế mà bọn quan quân chưa tới. Dường như bọn Triệu Thành âm mưu gì, mới cấm không cho quan quân hỏi đến chúng ta.
Một hôm, Vương với Vương-phi đi lễ lăng Khúc-giang ngũ hùng về, Phi Lịch báo:
- Khải tấu Vương-gia. Bô lão khiêng đến dâng Vương-gia hai cái rương lớn. Họ nói rằng trong có lễ vật cực trân quý. Xin đích thân Vương-gia mở ra.
Khai-Quốc vương cắt dây, mở rương thứ nhất ra. Bất giác mọi người la hoảng. Bên trong rương có một người nằm thẳng cẳng. Người này mắt mở, mà không động đậy được.
Phi Lịch túm áo người đó đem ra. Thanh-Mai kinh hãi, vì y chính là trưởng lão Lê Đức của Lạc-long giáo, có nhiệm vụ tới Khúc-giang liên lạc với giáo chúng đón Thiệu-Thái, Mỹ-Linh.
Vương sai mở rương thứ nhì, người nằm trong là Đào Nhất-Bách. Vương sờ tay vào mũi thấy hai người còn thở. Thanh-Mai bắt mạch hai người. Nàng bật cười:
- Hai người này bị mấy ông em quý của chúng mình điểm huyệt, bắt cóc đến đây hí lộng mình.
Nàng xoa tay giải huyệt. Hai người cử động được liền. Hai trưởng lão hành lễ với Vương. Vương hỏi:
- Hai vị làm sao mà bị giam vào thùng như thế này?
Lê Đức, Đào Nhất-Bách tường thuật tỷ mỷ mình bị ngư nhân điểm huyệt bắt sống trong trường hợp nào. Trước khi cho hai người vào thùng. Một ngư nhân nói nhỏ:
- Tôi xin lỗi hai trưởng lão, khi mời hai trưởng lão bằng lối này. Vì tai mắt Tống tại đây rất nhiều. Chúng tôi đưa hai vị đi giúp Khai-Quốc vương, mà không muốn cho giáo chủ ỉn hay.
Thanh-Mai hỏi Lê Đức:
- Trưởng lão có biết ngư nhân thân thế, lý lịch ra sao không?
- Không! Dường như họ không có ác ý thì phải.
- Đúng thế. Họ rất quen, rất thân với chúng ta. Mai này các vị sẽ gặp họ.
Khai-Quốc vương ghé tai hai người dặn nhỏ hơn một giờ. Hai người vâng dạ. Vương tiếp:
- Tuyệt đối không liên lạc với Thiệu-Thái, Mỹ-Linh. Hành tung họ đã bị lộ rồi.
Ghi chú
Mỹ-Linh ngồi nghe năm cậu em thuật lại những gì diễn ra trong khi nàng với Thiệu-Thái theo bọn Triệu Thành. Sau hồi này phái đoàn Khai-Quốc vương với Mỹ-Linh, Thiệu-Thái hợp làm một.