Phương Hổ xuất chiêu tấn công Tự-Mai. Nó nhảy lui liền ba bước. Phương Hổ bước ngang qua chỗ Tôn Đản. Tôn Đản thấy em bị tấn công, nó dơ tay tát Hổ một cái. Phương Hổ thấy cái tát thô kệch, tầm thường, nếu có trúng y, cũng như phủi bụi. Y không thèm đỡ, tiếp tục phát chưởng đánh Tự-Mai. Không ngờ bàn tay Tôn Đản tới vai Phương-Hổ biến thành chỉ, điểm vào huyệt Kiên-ngung y đến bộp một cái. Tay phải y bị tê liệt, kình lực biến mất. Y chưa kịp phản ứng, Tôn Đản chĩa ngón tay phóng vào mông y một chỉ, đúng huyệt Hoàn-khiêu. Chân y bị tê liệt. Y ngã lăn xuống đất.
Tôn Đản cười lớn:
- Hai trận. Các vị bị bại cả hai. Vậy các vị nghĩ sao đây?
Tuy chân tay không cử động được, nhưng Phương Hổ vẫn cãi:
- Như vậy không kể. Các vị đánh trộm chứ có phải bản lĩnh chân thực đâu?
Tôn Đản cười hề hề:
- Phương bang chủ. Phải thế nào bang chủ mới phục?
- Nếu như bên người, có ai dùng võ công trực đấu với bên ta mà thắng, chúng ta xin hoàn toàn quy phục.
Khai-Quốc vương ung dung gật đầu:
- Đản! Em giải khai huyêt đạo cho Phương bang chủ.
Tôn Đản chạy đến xoa vào huyệt Hoàn-khiêu, Kiên-ngung của Phương Hổ. Khi chân tay cử động được như thường, y vọt mình dậy định tấn công Tôn Đản. Song y nghĩ:
- Dù gì mình cũng đường đường thống lĩnh một đại bang. Cho có bị người ta đánh bại bằng cách nào, cũng phải tự xử, chứ có đâu lại cãi chầy cãi cối?
Y vẫy tay cho Phương Báo:
- Ta đã bại dưới tay Tôn công tử. Nhị đệ lĩnh giáo cao chiêu của vương gia đi.
Y nói với Khai-Quốc vương:
- Thể lệ võ lâm Trung-nguyên định rằng, trước khi muốn người quy phục, chính bản thân mình phải dùng võ công thắng người. Nếu Vương-gia muốn bọn tại hạ theo về. Xin Vương-gia dạy cho nhị đệ mấy chiêu.
Khai-Quốc vương ngửa tay phải tỏ ý mời chào:
- Xin mời nhị bang chủ.
Phương Báo nghĩ thầm:
- Từ trước đến giờ ta chưa từng nghe võ lâm nói đến võ công của tên Lý Long-Bồ này. Dường như y không biết võ thì phải. Y sắp đấu võ với ta, một chết hai sống, mà thản nhiên thế kia, có khác gì hai tay bưng tính mệnh giao cho ta không?
Y chắp tay hành lễ, rồi phát chưởng. Chưởng của y cực kỳ trầm trọng. Khai-Quốc vương nhận ra chưởng lực y có phần hơn Lê Ba, nhưng kém Hồng-sơn đại phu với Tự-An đôi chút.
Vương từ từ cung hai tay như ôm một vật gì tròn trước ngực, rồi một tay vòng lên cao. Một tay vòng xuống đưới. Chưởng của Phương Báo bị bao vây vào trong, kình lực mất hút. Y kinh hãi nhảy lên cao. Ở trên cao y đánh xuống một chưởng. Hai tay Khai-Quốc vương vẫn như ôm vòng tròn, nhẹ nhàng chuyển sang bên cạnh, rồi đẩy lên. Chưởng của Phương-Báo lại biến mất.
Tự-Mai reo lên:
- Đại ca! Vô trung sinh hữu tuyệt quá.
Khán giả cả hai bên đều thấy chưởng lực của Phương Báo cực kỳ tinh vi, công lực mạnh như núi lở băng tan. Trong khi đó, Khai-Quốc vương cứ ung dung nhàn nhã như múa vũ khúc nghê thường. Thế mà kình lực y biến mất. Khi nghe Tự-Mai la dùng cái trống bên trong, lực sinh ra họ mới hiểu lý thuyết. Nhưng làm thế nào đi tới vô trung sinh hữu, không ai biết phải vận công phát lực sao cho đạt tới nguyên lý đó?
Phương Báo đánh liền ba chưởng. Kình phong làm mọi người muốn ngộp thở. Khai-Quốc vương hỏi Tự-Mai:
- Tự-Mai! Xử dụng lý thuyết gì bây giờ?
- Tá lực đả lực!
Khai-Quốc vương lùi lại. Hai tay vẫn như ôm vòng thái cực. Vương đợi cho chưởng Phương Báo lướt qua, rồi đẩy theo. Thân thủ như người đẩy thuyền, nhẹ nhàng, ung dung.
Phương Báo bị kình lực mình với kình lực của vương hợp lại, làm người y quay như chong chóng. Phải cố gắng lắm, y mới đứng lại được.
Y điên tiết lên đánh liền bẩy tám chiêu. Khai-Quốc vương vòng tay, bước từ vị trí cung khôn sang cung Chấn. Rồi từ cung Chấn, bước sang cung Ly trong khi tay chuyển xuống dưới. Phương Báo mất hết kình lực, người như chơi vơi trên sóng.
Tự-Mai lên tiếng hoan hô:
- Hay thực! Đại ca, nguyên lý ba chiêu đầu, em hiểu rõ. Còn nguyên lý mấy chiêu sau ra sao?
Khai-Quốc vương tay vẫn như ôm trái cầu, ném vào Phương Báo. Vương giảng:
- Dụng ý bất dụng lực. Ý tập, lực tự sinh. Thái-cực bản vô cực. Bây giờ hiền đệ coi anh xử dụng lý thuyết Thần thông ư bối rồi chuyển sang lưu hành ư khí.
Miệng nói, Vương uốn cong lưng, bật lên cao, sau đó phát chiêu. Binh một tiếng, Phương Báo bật tung lên cao, rơi xuống cách đó hai trượng. Y có cảm tưởng như Vương nhắc y lên, rồi để xuống nhẹ nhàng. Y tự hỏi:
- Chiêu số gì mà kỳ lạ thế này? Dường như thứ võ công y xử dụng chỉ ảo diệu vô lực, hay y cố ý khoan dung không hại ta? Ta cần thử lại mấy chiêu nữa xem sao?
Nghĩ rồi, y phát liền ba chưởng. Chưởng phong có mùi tanh hôi khủng khiếp. Khai-Quốc vương cười thầm:
- Mi dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng với người khác khả dĩ còn có đôi chút kết quả, chứ dùng với ta e vô dụng.
Vương đợi cho chưởng phong bao trùm người, rồi mới lùi ba bước. Một tay chỉ lên trời, một tay tạt ngang, giống như ôm trái cầu, rồi người quay tròn. Một kình phong kinh khủng rít lên giống trâu gầm. Chưởng lực của Phương Báo như chạm phải vách núi. Người y bật tung trở lại, hai mắt toé lửa. Y phải lộn liền một lúc năm vòng mới đứng vững. Toàn thân như muôn nghìn mũi kim đâm phải.
Chỉ thấy thấp thoáng một cái, Khai-Quốc vương đã tiến tới, vỗ lên vai y, chỗ huyệt Kiên-ngung. Toàn thân khí lực bị mất. Y lảo đảo ngã ngồi xuống. Vương ôn tồn như mẹ nói với con:
- Phương huynh bị Chu-sa độc chưởng dội trở lại. Tuy tôi nhẹ tay, nhưng Phương huynh cũng cần ngồi yên. Tĩnh tâm một chút.
Phương Hổ bước tới bắt mạch cho em. Nhưng khi tay y vừa chạm vào tay Báo, người y bị bật tung lại phía sau. Y hít một hơi dài, mới dừng lại được. Y hỏi Khai-Quốc vương:
- Vương gia, võ công vương gia vừa dùng là võ công gì vậy? Dường như... Dường như trên giang hồ chưa từng ai nói tới bao giờ.
Vương không trả lời, đưa mắt cho Tự-Mai.
Tự-Mai cầm viên sỏi búng đến véo một tiếng. Viên sỏi trúng huyệt Hiệp-cốc bàn tay Phương Báo. Y đang ngồi như pho tượng, chân tay cử động được. Y vọt mình tiến lên phóng chưởng tấn công Khai-Quốc vương. Khai-Quốc vương thuận tay đẩy ra chiêu Đông-hải lưu phong trong Đông-a chưởng pháp. Pho chưởng này, Trần Kiệt dạy vương hôm ông tới Thăng-long dự lễ tấn phong Thanh-Mai làm vương phi Khai-Quốc vương.
Nguyên Trần Kiệt là chú, là sư phụ trực tiếp dạy Thanh-Mai. Ông thương yêu nàng vô hạn. Cho nên ông xin phép chưởng môn Tự-An dạy Khai-Quốc vương, coi như món quà cưới.
Chưởng phong rít lên chạm vào chưởng Phương Báo. Phương Báo cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Y bật lui ba bước, miệng oẹ một tiếng, y khạc ra ba búng máu.
Biết công lực mình thua đối phương xa, nhưng y vẫn tiếp tục phát chưởng tấn công.
Đấu được trên năm mươi hiệp, Phương Báo điên tiết lên. Y nhảy vào, tay trái dùng hổ trảo, tay phải dùng ưng trảo vồ Khai-Quốc vương. Chân vương từ phương Càn bước sang phương Khảm, tay trái nắm tay phải của y giật mạnh. Người y lảo đảo như say rượu, quay liền mười vòng, rồi ngã ngồi xuống.
Khai-Quốc vương chờ cho y đứng dậy, mới hỏi:
- Phương nhị hùng. Thế nào?
Nhưng Phương Báo ngồi xuống đất, mắt nhắm nghiền, tỏ vẻ cực kỳ mệt mỏi.
Phương Hổ thở dài:
- Võ công Đại-Việt thực kỳ ảo. Những chiêu thức vương gia xử dụng dường như có thiền công, lại đặt đơ sở trên dịch lý. Thứ võ công này, tiểu nhân chưa từng thấy qua. Mong Vương-gia ban cho vài lời.
Câu hỏi của Phương Hổ cũng là câu hỏi của tất cả mọi người. Khai-Quốc vương đáp:
- Quyền pháp mà tôi dùng mang tên Thái-cực quyền, Bạch-đằng giang thập ngũ thức.
Chu Y kinh ngạc:
- Võ công Đại-Việt tiểu nhân đã nghe biết hầu hết. Đặt trên căn bản khắc chế võ công Trung-nguyên, gồm võ công Long-biên, Cửu-chân. Nay thành Mê-linh. Võ công ảo điệu, dũng mãnh thì của Tản-viên với Phục-ngưu thần chưởng. Võ công cương nhu hợp nhất, phải kể Sài-sơn, nổi tiếng với Thiên-vương chưởng. Võ công đặt cơ sở trên thiền, gồm Đông-a, Tiêu-sơn. Chiêu thức mà Vương-gia vừa xử dụng đều không phải của các phái trên.
- Đúng như Chu tam hùng nói. Pho võ công vừa rồi do chính tôi cùng Tự-Mai, Tôn Đản hợp nhau mới chế ra, còn rất đơn sơ. Mong Chu tam hùng chỉ cho những chỗ khuyết điểm.
Chu Y nghe vương nói, kinh hãi trong lòng. Y hỏi:
- Vừa rồi vương gia đấu với nhị huynh. Tiểu nhân đứng ngoài, nhìn không rõ. Mong vương gia diễn cho anh em tiểu nhân coi một lần cho biết.
Khai-Quốc vương khoan thai đứng dậy, hai tay như ôm vòng thái cực từ đưa ra. Mỗi thức, mỗi tư thức, mỗi biến chiêu... chân tay, thân mình, mắt đều hiệp đồng. Người không biết võ, hoặc người võ công non kém, cho rằng Vương múa một vũ điệu chứ không phải biểu diễn võ công.
Vương giảng:
- Thái cực quyền đặt trên nguyên lý dụng ý bất dụng lực. Cho nên mỗi chiêu không nhất thiết phải thế này, thế nọ, mà chỉ mang ý niệm.
Vương diễn hết bẩy mươi hai chiêu, rồi ngừng lại, ngồi xuống phiến đá gần đó. Vương khoan thai kể:
- Tôi xuất thân từ phái Tiêu-sơn. Nội công Tiêu-sơn đặt cơ sở trên thiền công nhà Phật.
Chu Y gật đầu:
- Bên Trung-nguyên, phái Thiếu-lâm cũng lấy thiền công làm nội công căn bản. Đâu có gì lạ?
- Khác nhau nhiều. Thiền công Thiếu-lâm đặt phát xuất từ kinh Kim-cương. Cho nên đệ tử Thiếu-lâm bị người ta tấn công. Họ chỉ hoá giải. Còn thiền công Tiêu-sơn rút từ yếu chỉ chính trong kinh Lăng-già, Tượng-đầu tinh xá. Khi đệ tử Tiêu-sơn bị người ta tấn công, thì phát chiêu trả đòn. Một phần hoá giải công lực đối thủ, một phần phản công.
Vương quay lại nhìn Tôn Đản, Tự-Mai rồi cười:
- Sau tôi cùng hai vị hiền đệ có cơ duyên học được thần công của công chúa Yên-lãng.
Phương Hổ kinh hãi hỏi:
- Tiểu nhân nghe công chúa Yên-lãng đã phối hợp thần công Tản-viên với Thiền-công vô ngã tướng thành thứ nội công mới, thần diệu vô song. Nhưng đã thất truyền. Nào ngờ vương gia lại học được.
- Đúng vậy. Loại thần công này rất đặc biệt. Ai đánh ta, ta đỡ, vừa phản công đối thủ, vừa hút lấy nội lực họ, làm nội lực mình. Chúng tôi lại luyện nội công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên. Trong khi đó tôi được Nùng-Sơn tử dạy cho về Dịch-lý. Tôi nghiên cứu, hợp tất cả bằng ấy thứ lại, cùng hai sư đệ Mai, Đản bàn luận, rồi chế ra pho Bạch-đằng giang thập ngũ thức.
Vũ Canh lắc đầu:
-- Vừa rồi Vương-gia đấu với nhị ca của tôi đã dùng tới trên trăm thức, thế mà Vương-gia bảo có mười lăm thức ư?
Khai-Quốc vương cười:
- Mười lăm thức, với mười lăm chiêu khác nhau xa. Mười lăm thức là gì? Nó gồm Nhân ngã tứ tướng, Ngũ-uẩn giai không, Lục-tặc đồng biến trong kinh Phật.
Phương Hổ lắc đầu:
- Xin Vương-gia giải rõ hơn.
Khai-Quốc vương hắng rặng một tiếng, rồi nói:
- Thôi được. Tôi xin vì các vị mà nói về mười lăm thức đó. Đầu tiên Nhân ngã tứ tướng rút trong kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã ba-la mật đa tâm kinh, bao gồm bốn tướng của kẻ chấp tướng. Đó là: Ngã tướng tức tướng của ta. Nhân tướng tức tướng của người. Chúng sinh tướng tức tướng của chúng sinh. Thọ giả tướng tức con người đối cảnh sinh tình khác nhau. Đó là bốn thức căn bản của Thái-cực quyền.
Phi Lịch nhăn mặt:
- Như vậy mới có bốn. Còn mười một thức nữa?
- Tiếp theo tới Ngũ-uẩn.
- Ngũ uẩn à ? Tiểu nhân chưa từng nghe qua.
- Ngũ uẩn tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tức năm món tích tụ thành nhân thể, cùng tinh thần con người. Ngũ uẩn che mất chân lý, khiến chúng sinh luân hồi, gặp những điều khổ sở.
- Xin vương gia giải rõ năm uẩn hơn.
- Đầu tiên, sắc. Tức những vật hữu hình, hữu sắc. Thọ do con người đối cảnh, sinh ra tình cảm vui, buồn, sướng, khổ. Thứ ba tới tưởng. Khi con người đối cảnh, nhận ra mầu sắc, hình thể, phân biệt sự vật... thành tưởng. Thứ tư, con người đối cảnh, nảy sinh lòng ham muốn, ghét giận, sinh ra hành. Cuối cùng tới thức. Khi con người đối cảnh, suy tư, hiểu biết gọi là thức. Vậy Ngũ-uẩn tạo ra những con người khác nhau.
Xuyên Dung nghe vương giảng đến đâu, gật đầu đến đó. Nàng hỏi:
- Cuối cùng tới Lục-tặc. Tức sáu thứ giặc. Giặc đó chắc cũng do trong lòng mà sinh ra?
- Đúng thế. Nó còn có tên Lục-trần, Lục-nhập, tức sắc, thanh, hương, súc, vị, pháp. Sáu thứ giặc ở ngoài nhập vào trong chúng ta qua Lục-căn: Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Khi xử dụng Thái-cực chưởng, cần bình tĩnh, chế chỉ tâm thần, sao bỏ ra được Nhân ngã tứ tướng, vượt qua Ngũ-uẩn, rồi sao cho trong người hư không, Lục-tặc không nhập vào người. Đến trình độ đó, đơn điền như cái hồ trống rỗng, bao nhiêu chân khí tụ vào, muốn phát ra lúc nào thì phát.
Thiện-Lãm hỏi:
- Khi đại ca làm được như vậy, thì nào thiền công Tiêu-sơn, nào nội công Đông-a, nào Vô-ngã tướng thiền công, nào nội công Cửu-chân, cũng hoà lẫn với nhau được. Khi tòng tâm xử dụng, lập tức chân khí tuôn ra?
- Đúng thế.
Thanh-Mai hỏi Phương Hổ:
- Phương bang chủ. Xin bang chủ dạy cho một lời!
Phương Báo nói với các em:
- Anh em ta nhân bất phục triều Tống, đứng ra lập bản bang, tiêu dao trên sông Trường-giang. Chúng ta đều sinh ở vùng hồ Động-đình. Hồ Động-đình, nơi phát tích ra Quốc-tổ, Quốc-mẫu tộc Việt. Vì vậy, dù chúng ta nói tiếng Hoa, mặc quần áo Hoa. Bề ngoài thành người Hoa, nhưng gốc vẫn Việt. Chúng ta là người Hoa gốc Việt. Nay gặp minh chúa, chúng ta phải trở về nguốn gốc thôi.
Y hô tất cả anh em cùng quỳ gối khấu đầu trước Khai-Quốc vương:
- Bọn thần từ nay xin được hầu cạnh Vương-gia.
Khai-Quốc vương vẫy tay ra hiệu miễn lễ, rồi nói:
- Bây giờ chúng tôi vẫn đi cùng các vị, tìm kho tàng. Tới Khúc-giang, tôi sẽ nhờ giáo chủ Lạc-long hoá giải độc tố Chu-sa chưởng cho các vị.
Trong Trường-giang thất quỷ, hết bốn người gồm anh em họ Phương cùng vợ chồng Phi Lịch, xuất thân trong bang Nhật-hồ. Vì vậy suốt bao năm qua, dù họ uống thuốc giải, mỗi năm lại bị lên cơn mấy ngày, đau đến chết đi, sống lại. Họ tuy vẫn sống bình thường, mà trong lòng luôn ẩn một niềm đau khổ cùng cực.
Cách đây mấy tháng, họ nghe giáo chủ Hồng-thiết Đại-Việt bị một thiếu niên đánh bại. Thiếu niên được tôn lên làm tân giáo chủ. Tân giáo chủ hoá giải Chu-sa độc chưởng cho tất cả giáo chúng, cải danh thành Lạc-long giáo.
Bốn người trong bang Trường-giang định sang Đại-Việt qui phục Lạc-long giáo, để được điều trị. Không ngờ bây giờ họ gặp Khai-Quốc vương, một đấng anh hùng, vai cậu của Lạc-long giáo chủ, hứa sẽ trị chọ họ. Họ mừng không bút nào tả siết.
Phương Báo mời mọi người xuống thuyền. Thuyền ngược giòng đi về phương Đông. Ban ngày thuyền đi. Ban đêm Khai-Quốc vương cùng Vương-phi lại lên bờ kiếm chỗ vắng luyện võ. Có hôm tới sáng Vương mới trở về. Sau bốn ngày đường, Lê Đài báo cho biết còn hai chục dặm nữa tới Khúc-giang. Khai-Quốc vương bảo các em:
- Năm vị hiền đệ. Các hiền đệ lớn rồi. Anh muốn thử bản lĩnh khôn ngoan của các đệ một lần. Bây giờ anh cho các đệ lên bộ đi Khúc-giang trước. Anh sẽ đi sau.
Nghe được tự do đi với nhau, xa anh cả, không bị kiềm chế, năm đứa trẻ reo mừng. Khai-Quốc vương tiếp:
- Trong năm em, ta giao cho Tôn Đản thống lĩnh, Tự-Mai làm quân sư. Tại Khúc-giang hiện có thiết kị Tống. Bình-Nam vương Triệu Thành, bang Nhật-hồ Trung-quốc, người của các nước Đại-lý, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân-lạp đều hiện diện. Ta cho các hiền đệ nghịch ngợm, phá phách tự do. Làm thế nào trong năm ngày, trấn Khúc-giang náo loạn, đảo lộn hết thì thôi.
Nghe Khai-Quốc vương truyền lệnh phá phách, năm ông mãnh reo hò mừng rỡ. Vương tiếp:
- Có ba điều cấm kị. Một là không được giết người. Hai là không thể để bị quan binh bắt giam. Ba là không được phạm vào tôn giáo, cũng như dân chúng. Trong khi hành sự, theo dõi cặp chim ưng để biết ta ở đâu.
Hà Thiện-Lãm xoè tay trước mặt Thanh-Mai:
- Bà chị cho bạc. Không tiền, bọn em đến đó lấy gì mà ăn?
Lê Văn bẹo tai Thiện-Lãm. Tay chỉ vào cái hộp kim trong túi:
- Ông anh đừng lo! Với hộp kim này, tha hồ cho quan lại, phú gia đem cơm gà, cá nướng cung phụng chúng mình. Tới đó em làm thầy lang trị bệnh cho dân chúng. Thiếu gì người tạ thầy!
Khai-Quốc vương hỏi Tự-Mai:
- Lỡ không ai tin thầy lang trẻ thì làm thế nào?
Tự-Mai cười, nó nói sẽ vào tai vương:
- Anh cả sai bọn em đi, tức chúng em tuân chỉ hoàng-đế làm truyện quốc sự. Mọi chi phí do công nho đài thọ. Hè... hè...
Thiện-Lãm ngơ ngác:
- Công nho à! Nhưng ở Quảng-Đông đâu có quan liêu Đại-Việt, mà họ chi tiền cho chúng ta!
Lê Văn vốn cực kỳ thông minh. Nó lắc đầu mấy cái, miệng kêu sẽ hừ... hừ... :
- Lãm phải nhớ điều này! Đối với chúng ta, Quảng-Đông thuộc lãnh địa tộc Việt. Công nho Quảng-Đông phải chi phí mọi tiện nghi cho chúng ta. Chúng ta tuân chỉ Phụ quốc thái úy, tổng đốc binh mã, cứ đến công khố lấy bạc mà xài. Hè... hè...
Hà Thiện-Lãm chợt hiểu. Nó nói thầm:
- Tức là vào công khố ăn trộm!
Phương Hổ sai dẫn năm con ngựa lên bờ, trao cho năm ông mãnh.
Tôn Đản hô:
- Tạm biệt!
Thanh-Mai dặn với theo:
- Nhớ cẩn thận!
Năm đứa vái Khai-Quốc vương, rồi ra roi cho ngựa phi về hướng Khúc-giang.
Phi Lịch thắc mắc:
- Vương gia! Năm tiểu công tử đang độ khí huyết sung thịnh, nghịch ngợm kinh khiếp. Nay Vương-gia truyền chỉ như vậy, thần e...
- Phi huynh an tâm. Năm tiểu đệ của tôi có căn bản võ đạo rất sâu, lại sớm lăn vào làm việc nước, nên chúng có ý thức cao. Phi huynh đừng sợ. Tôi cần sai chúng khuấy đảo Khúc-giang, để cho tất cả các phe tiềm ẩn bị lộ tông tích. Ta nhờ binh Tống loại họ khỏi vòng tranh chấp với ta.
Vương nhìn Phương Hổ cười:
- Tất cả bí mật kho tàng, hiện nằm trong tay chưởng môn phái Mê-linh cùng giáo chủ Lạc-long giáo. Hai người đó là cháu tôi. Họ đã đi trước, dò la. Mỗi khi có tin tức gì, họ dùng chim ưng báo cho tôi biết. Hiện đã biết rõ kho tàng dấu ở đâu rồi.
Vương mở tấm khăn thắt lưng, lấy ra mảnh lụa. Trên mảnh lụa vẽ bản đồ Khúc-giang, đủ hết sông ngòi, đình miếu. Vương chỉ vào sườn núi Tuyệt-phong:
- Đây kho tàng ở chỗ này. Cửa vào nằm ngang sườn núi. Từ dưới muốn lên hang, phải qua một nghìn bước. Hang thông sang bên kia sườn núi chỗ có con sông. Đó là nơi trước kia công chúa Yên-Lãng và Nghi-Hoà đem kho tàng từ biển vào.
... Chỗ mỏm này, ta có thể ghé thuyền vào chở về. Công cuộc khai quật kho tàng không phải giản dị đâu. Việc đục đá, vào hang, ta có người phụ trách rồi. Khó khăn nhất của chúng ta phải vượt qua là sao tránh giao tranh với biết bao lực lượng đang rình rập. Tuy khó, nhưng tôi đã có cách. Vậy phiền bang chủ, cùng các huynh đệ quý bang đậu thuyền tại địa điểm này. Khi chúng tôi đục núi thông sang, lập tức cùng lên vận chuyển về Đại-Việt.
Trường-giang thất quỷ thấy mình mới quy phục, mà Khai-Quốc vương đã dám lộ hết cơ mật kho tàng cho mình. Họ cảm thấy độ lượng vị Vương-gia này thực cao cả vô cùng.
Vương tiếp:
- Trong bẩy vị, phiền Trường-giang song hùng đem thuyền chờ chở kho tàng. Động-đình tam ưng huy động bang chúng trải dài từ Khúc-giang tới cửa Hổ-môn, âm thầm bảo vệ thuyền chở của Trường-giang song hùng. Tới Hổ-môn, sẽ có thuyền của bang Đường-lang hộ tống cho đến lãnh hải Đại-Việt. Trong địa phận lãnh hải Đại-Việt, bang Hồng-hà, Đông-hải đảm trách.
Phi-Lịch hỏi:
- Thưa vương gia, thủy quân Đại-Việt không dùng vào việc này ư?
Vương đưa mắt nhìn Vương-phi, rồi lắc đầu:
- Thủy quân Đại-Việt lo tuần phòng lãnh hải, trường hợp thủy quân Tống tràn sang, mới can thiệp mà thôi. Còn Phi huynh với phu nhân khẩn đi cùng tôi, để trị Chu-sa độc ngay, vì để lâu e phạm đến thai nhi.
Đến đó, thuyền phu vào báo:
- Khải tấu Vương-gia cùng bang chủ. Phía trước có bốn con thuyền đậu theo một hàng, phất cờ ra hiệu cho ta dừng lại. Xin Vương-gia, bang chủ định liệu.
Vương hỏi:
- Có phải trên trời của bốn con thuyền có hai con chim ưng bay không?
- Vâng. Quả như Vương-gia tuyên dạy.
- Bốn con thuyền đó của chúng ta. Ta cho thuyền đi như thường, nhưng mở cửa sổ khoang phải. Khi thuyền ta và họ song song, sẽ có người nhảy sang thuyền mình. Phiền các vị tiếp hội lên đây, cùng họp với nhau.
Trường-giang thất quỷ nghe Vương truyền lệnh. Họ kinh hãi, mặt nhìn mặt xấu hổ, tự nói với nhau:
- Lúc đầu rõ ràng vị vương gia này bị mình bắt theo. Không hiểu bằng cách nào, mà điều động mọi việc nhịp nhàng như vậy? Làm thế nào đưa bốn con thuyền lớn thế kia đến đây chờ đợi? Làm thế nào người trên bốn con thuyền biết Vương-gia ở trên thuyền ta? Nghe Vương-gia vừa truyền lệnh, rõ ràng, mọi việc xếp đặt đâu vào đấy rồi. Không chừng đây chỉ có một phần nhỏ kế hoạch. Trung gian còn nhiều chi tiết mà mình chưa được biết.
Bất giác cả bẩy nhìn nhau rùng mình, tự chửi thầm:
- Mình chỉ có bẩy người, đem theo hơn ba trăm bang chúng, mà đòi đánh cướp kho tàng, có khác gì tự tử không?
Lát sau, thuyền phu dẫn vào bốn người. Khai-Quốc vương đứng dậy chào, giới thiệu:
- Vị đạo trưởng này đạo danh Nùng-Sơn. Thầy của tôi.
Trường-giang thất quỷ đã nghe danh Nùng-Sơn tử. Phi Lịch bật lên tiếng reo:
- Phải chăng đạo sư là một trong Long-thành nhị hiệp?
Nùng-Sơn tử đáp lễ:
- Không dám. Phi huynh vẫn mạnh chứ? Tại hạ thường ngâm bài Trường-giang nguyệt lãng và bài Động-đình điểu minh của Phi huynh luôn. Ý từ thực cao ngạo, mà lời nhẹ như gió thu.
Phi Lịch nghe Nùng-Sơn tử ca tụng tài văn chương mình. Y sung sướng ra mặt:
- Đa tạ đạo trưởng quá khen.
Vương chỉ Trần Kiệt:
- Vị này, một trong Thiên-trường ngũ kiệt, sư thúc của tiện thê. Nhưng thực ra bản lĩnh tiện thê do người truyền thụ.
Chu Y kêu lên:
- Úi chà!
Thiên-trường ngũ kiệt danh vang thiên hạ, đến Tống đế còn kính phục. Vì vậy Trường-giang thất quỷ vội cúi đầu hành lễ:
- Trường-giang huynh đệ xin tham kiến Trần đại hiệp.
Bảo-Hoà, Thông-Mai đã bỏ lớp áo hoà thượng. Nàng trở lại y phục thiếu nữ Thăng-long. Còn Thông-Mai trang phục như một nho sinh Trung-quốc. Anh em họ Phương thấy gương mặt Bảo-Hòa, Thông-Mai hơi quen, mà họ nhận không ra hai người đã giả hoà thượng tung phấn độc hại họ. Khai-Quốc vương chỉ giới thiệu sơ sài:
- Vị này, anh của tiện thê. Còn đây, con gái của chị tôi.
Thình lình Xuyên-Dung ôm ngực nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn. Thông-Mai vung tay điểm liền bốn chỉ vào huyệt Nội-quan, Công-tôn của nàng. Cơn đau giảm liền. Phi-Lịch thấy Thông-Mai tuổi trẻ, mà công lực kinh nhân. Y chắp tay:
- Đa tạ thiếu hiệp cứu trợ.
Trời về chiều, nắng thu héo úa đổ lên sông, thành muôn nghìn con rắn vàng lung linh. Phương Hổ truyền bầy tiệc khoản đãi.
Mọi người vào bữa.
Khai-Quốc vương hỏi Nùng-Sơn tử:
- Đạo trưởng. Xin đạo trưởng cho biết tình hình?
- Bang Nhật-hồ Trung-quốc đem toàn lực đến đây. Tuy họ không biết nơi chôn bảo vật. Bang trưởng, Tả-Hữu chấp pháp, ngũ Sứ cùng mười tám Đạo trưởng. Vắng mặt mười Trưởng-lão. Hiện họ ở trong thị trấn Khúc-giang. Bình-Nam vương cùng với tùy tùng chia làm bốn ngả, âm thầm tới. Đồng thời Vương điều một vạn thiết kị với hai vạn binh Quảng-Đông, nhưng phao lên rằng mười vạn, chia ra đóng rải rác khắp vùng. Khu-mật viện Tống, điều đến khá nhiều cao thủ thuộc sáu đại môn phái như Thiếu-lâm, Côn-luôn, Không-động, Nga-mi, Võ-đang, Hoa-sơn. Họ ẩn thân trong lớp áo quan binh. Tây-hạ, Liêu, Cao-ly, đều gửi nhiều cao thủ tới.
- Như vậy Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la không gửi người tham dự. Cuộc tranh dành sẽ diễn ra giữa Khu-mật viện Tống với bang Nhật-hồ cùng Liêu, Cao-ly, Tây-hạ. Ta đứng ngoài tọa thủ bàng quan xem sao đã.
Vương hỏi Bảo-Hòa:
- Còn về phía ta ra sao?
- Đúng như cậu xếp đặt. Chỉ còn chờ ngày giờ hành động.
Vương xoa hai tay vào nhau:
- Tôi với Vương-phi đi cùng Phi huynh phu phụ tới Khúc-giang. Tôi không dấu diếm thân phận, cáo với quan sở tại rõ việc bị bang Trường-giang bắt giữa đường, mới được thả ra, yêu cầu họ tấu về triều, cử người đến hộ tống. Vậy Bảo-Hòa, Thông-Mai trong bóng tối yểm trợ cho năm ông mãnh nhà mình phá phách. Chúng có phá phách, các cao thủ ẩn trong lớp áo quan binh mới bị lộ diện. Quan binh Tống sẽ nhân dịp đó bắt hết các phái đoàn Liêu, Tây-hạ, Cao-Ly. Động-đình tam ưng, bảo vệ con đường Khúc-giang, Hổ-môn. Nùng đạo trưởng cùng ngũ sư thúc theo Trường-giang song hùng đậu ở vách núi, chờ khai thác kho tàng, rồi chở về.
Vương ngừng một lát tiếp:
- Hai con thuyền này trao cho Trường-giang song hùng để chở kho tàng. Bốn con thuyền kia, hai con trao cho Động-đình tam ưng. Hai con cho tôi với Phi phu phụ. Cơm chiều xong, chúng ta lên đường.
Cơm xong, trời tối mịt. Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai, vợ chồng Phi Lịch sang hai con thuyền đậu sẵn bên sông, hướng Khúc-giang mà đi.
Đêm vương cùng Vương-phi lại lên bờ luyện võ. Sau khi Vương lên bờ, thuyền phu rút cầu. Cả hai người dùng khinh công biến vào khu rừng. Vương-phi nói với chồng:
- Chúng ta họp mật trong rừng thế này, đến quỷ cũng không biết, thần cũng không hay.
- Vì vậy ngay từ hôm xuống thuyền, chúng mình giả bộ lên bờ luyện võ. Bọn Trường-giang thất qủy theo dõi bén gót suốt năm đêm liền. Đến đêm thứ sáu, chúng không theo nữa. Nay anh phân tán chúng đi với người của ta. Nếu chúng muốn tách ra cũng khó. Bọn ở trên thuyền ta, đều bị theo dõi. Phải đề phòng vậy mới được.
Trong rừng lập loè ánh đèn leo lét từ căn nhà chiếu ra. Có tiếng cú kêu. Thanh-Mai hú lên một tiếng đáp lại. Cánh cửa căn nhà mở ra. Bảo-Hoà đón hai người vào.
Khai-Quốc vương hỏi:
- Việc canh gác thế nào?
- Trên trời có cặp chim ưng. Dưới đất có hai cặp sói.
- Được rồi.
Trong phòng đủ mặt: Nùng-Sơn tử, Trần Kiệt, Bảo-Hoà, Thông-Mai, năm ông thiên lôi: Tôn Đản, Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Lê Văn.
Khai-Quốc vương mở tấm bản đồ lụa ra cho mọi người xem:
- Mỹ-Linh thăm lăng Khúc-giang ngũ vương, cùng đền hai vị Công-chúa thời Lĩnh-Nam đã tìm ra nhiều chi tiết giống như trong vũ kinh nói. Kho tàng cất trong hang. Hang từ chân ngọn Tuyệt-phong lên một ngàn bước, nơi hai ngọn núi kết thành khe. Cửa hang ngay dưới thác nước.
Vương ngừng lại nhìn Trần Kiệt, Tự-Mai:
- Sư thúc cùng Tự-Mai thông minh nhất sẽ nhập thác nước. Trước thác nước ắt có cao thủ Tống canh gác. Tự-Mai phải nhanh nhẹn điểm huyệt cho chúng mê man. Dưới thác có ba cửa, đều bị đá lấp. Trong ba cửa có hai cửa giả, một cửa thực. Khi khuân năm viên đá ra, mà thấy cửa, chớ đi vào, e nguy hiểm. Khi thấy mười viên cửa mới lộ hãy đi vào. Hang thông sang bên kia núi. Sau khi hành sự, lấp cửa hang, theo bản đồ mở lối khác mà ra.
Vương hỏi Tôn Đản:
- Mấy hôm nay, các em phá phách đến đâu rồi?
- Ngày thứ nhất phá đền Mã Viện. Ngày thứ nhì phá đền Cao Biền. Ngày thứ ba phá đền Triệu Xương. Ngày thứ tư phá phách Tả, Hữu hộ pháp cùng ngũ Sứ bang Nhật-Hồ. Ngay ngày đầu bọn em đã làm lộ cho Khu-mật viện Tống biết mình là người Việt. Chúng theo dõi rất gắt. Sang ngày thứ tư, bọn em đánh lạc chúng hết. Bọn em trêu đám cao thủ Cao-ly, khiến chúng điên lên. Hai bên giao đấu. Khu-mật viện Tống bắt hết đám này. Rồi nhân tiện vồ bọn Liêu, Tây-hạ.
- Như vậy chúng biết rất rõ hành tung Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, cũng như năm em. Giỏi. Trong đầu Phạm Trọng-Yêm, y tưởng ta có vậy. Bây giờ Đản cùng ba em Tông, Lãm, Văn, làm sao đem được một số thùng, với đinh lớn, để đâu đó, gần thác nước. Sau khi ngũ sư thúc với Tự-Mai tìm ra cửa hang. Các chú mang vào. Lập tức lấy đá chất đầy, rồi đóng đinh thực chắc, sau đó mở cửa hang vách múi bên kia, chuyển những thùng đá xuống thuyền. Thuyền đó của bang Trường-giang. Trên thuyền có Trường-giang song hùng với Nùng-Đạo trưởng chờ. Tuy thùng đựng đá. Nhưng hai vị cũng làm như thực, canh coi thực kỹ. Lỡ ra gặp thủy quân khám xét, không chống cự, bỏ thuyền chạy. Họ có mở ra, thấy toàn đá, sẽ tra khảo anh em họ Phương. Chúng thừa sức nói láo hoặc chống cự.