Hồi 22b
Mỹ-Linh đã tìm ra cái chết của mẹ nàng: mẹ nàng bị trúng Nhật-hồ Chu-sa độc chưởng. Chắc người đánh muốn bà phải tuân theo điều kiện phản bội triều đình, mà bà không làm, đành chịu chết. Người chủ trương là Nhật-hồ lão nhân. Một người chỉ nghe tên, mà không ai biết gốc tích, hình dạng lão ra sao. Lão muốn khốâng chế mẫu thân nàng, rồi mẫu thân Lê Văn, không biết để âm mưu gì?
Mỹ-Linh hỏi:
- Cậu có mấy anh chị em? Bố có bao nhiêu vợ?
- Hai đứa. Chị Mai lớn nhất, rồi đến em. Bố em chỉ có một mẹ em thôi. Khi mẹ em chết đoạn tang, bố em tục huyền với một người đàn bà nhỏ hơn ông mười hai tuổi, vừa xấu, vừa đần, vừa ngu.
Mỹ-Linh kinh ngạc:
- Với địa vị của ông, thì thiếu gì những con gái lương gia, sắc nước hương trời. Mà ông lại đi lấy người vợ như vậy?
Lê Văn thở dài:
- Chỉ vì thương bọn em mà ông lầm lẫn như vậy. Ông tưởng lấy vợ con nhà hèn hạ, vừa xấu, vừa ngu, để mụ không dám tàn ác với bọn em. Nào ngờ...
Bảo-Hòa đã từng thay bố mẹ qua lại 207 động bắc biên, nhiều kinh nghiệm sống. Nàng ngắt lời Lê Văn:
- Như vậy là hỏng rồi. Mụ quá ngu, thì không thể nào hiểu được cuộc sống của ông chồng có địa vị cao cả đến tột đỉnh. Mụ đần, dốt hơn em, mà lại là mẹ kế thì sao dạy dỗ em được. Thành ra suốt ngày mụ gây gổ với em. Thế là hai vợ chồng bất hoà vì em xung đột với mụ. Ngoài ra ông bà không thể trao đổi với nhau những khó khăn, những tâm sự.
- Đúng thế. Mới cưới về, ngày nào mụ cũng gây với bọn em. Hồi đầu bọn em còn nể nang. Về sau, bọn em cũng gây lại. Mỗi lần gây nhau, bố em buồn lắm. Mụ gây cả với bố em. Bố em tức mình không thèm nói với mụ câu nào nữa. Hơn nửa năm, mụ bỏ đi.
Nó chỉ về phía nhà bát giác:
- Từ lúc gặp cô Huệ-Phương, bố em như đổi mới. Hôm qua Huệ-Phương nói tryện với bố em cả đêm. Sáng nay hai người dẫn nhau lên đồi thông.
Mỹ-Linh dò la phản ứng của Lê Văn:
- Em có nghĩ rằng bố em say Huệ-Phương không?
- Càng tốt. Huệ-Phương xinh đẹp, lại là người kinh lịch. Chắc chắn sẽ làm cho bố em vui vẻ. Em đã nói truyện với cô ấy. Cô ấy thích em lắm...À thôi, hai chị đi ăn cơm chứ.
Lê Văn dẫn chị em Bảo-Hòa đi về hướng đông, nơi có nhiều dẫy nhà nằm san sát .Ở giữa, một căn nhà rộng, theo hình vuông, cao ba tầng, mái uốn cong, lợp ngói đỏ tươi. Tầng dưới cùng bốn mặt vuông vức. Ngoài hàng hiên có năm cây cột gỗ lim, chạm trổ rất tinh vi. Tiếp nối hàng hiên, từơng xây bằng những tảng đá xanh. Cửa bằng gỗ trắc sơn đỏ chói.
Bảo-Hòa hỏi:
- Nhà cửa trong sơn-trang cao đẹp không kém gì cung điện ở Thăng-long của đức vua. Ai ở đây vậy ?
- Không có ai ở hết. Ngôi nhà này có ba tầng. Tầng trên cùng làm nơi thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu, thờ tổ sư. Tầng thứ nhì làm Tàng-kinh các, để đệ tử trong trang đến đọc sách. Tầng dưới cùng làm Đại-sảnh-đường, nơi hội họp. Căn nhà này mang tên Điện Kinh-dương. Trước bốn mặt của điện Kinh-dương, mỗi mặt đều có chín dẫy nhà nằm song song nhau. Tổng cộng 36 dẫy. Mỗi dẫy cách nhau bằng một cái vườn hoa. Đây là nơi cho những bệnh nhân ở xa đau nặng, cần ở lại điều trị. Cả khu mang tên Văn-lang.
Bảo-Hòa đã từng thấy viện dưỡng thương của bố mẹ nàng, dùng trị bệnh cho tướng sĩ vùng biên giới. Tuy to lớn, nhưng so với khu trị bệnh này, thì thua xa. Nàng thắc mằc:
- Tôi xem mỗi dãy có chín phòng. Vậy mỗi phòng chứa được bao nhiêu người ?
- Mỗi phòng mười tám giường. Mỗi dãy 162 giường. Tổng cộng 5832 giường.
Mỹ-Linh ái một tiếng:
- Như vậy có bao gìơ trang nhận bệnh nhân đầy hết số dường không?
- Có chứ. Hiện nay chỉ còn khỏang hơn trăm giường trống mà thôi. Để em chỉ cho các chị biết. Vạn-thảo sơn trang do chính tay bố em dựng lên mới mấy chục năm. Trang chia lam ba khu vực rõ rệt. Khu Văn-lang là khu các chị vừa đi qua. Trong khu có điện Kinh-dương, nhà Thủy-tạ xây trên hồ nước, là nơi bố em ngồi thưởng hoa, ngắm cảnh, cũng như tiếp khách riêng. Hôm trước nếu các chị đến bằng cổng chính, tất sẽ do đệ tử của bố em tiếp nhận, phân loại rồi chữa. Mà các chị đến bằng cửa riêng chỉ dành cho người nhà, nên đụng nhằm bố em. Xui thực xui. Nhưng mà lại hên. Khu thứ nhì là khu Âu-lạc.
Lê Văn dẫn chị em Bảo-Hòa qua một khu nữa. Khu thứ nhì kiến trúc giống như khu Kinh-dương, Lê Văn giới thiệu:
- Khu này tên là Âu-lạc. Ngôi nhà lầu ba tầng tên là điện Âu-cơ. Tầng thứ nhất là Giảng-y-đường. Nơi bố em dạy học. Tầng thứ nhì là Vạn-thảo-đường, nơi chứa thuốc. Tầng dưới cùng là Luyện-đan-đường, nơi chế thuốc. Còn 36 dẫy nhà, dùng làm nơi ăn, ở của đệ tử, cùng những người giúp việc.
Một lát đi qua ngôi nhà kiến trúc rất đặc biệt, từ cột, cho tới tường đều bằng gỗ. Mái không lợp ngói như những ngôi nhà khác, mà lợp bằng rạ. Ngôi nhà hình tròn, có bốn cửa thông ra bốn phía.
Lê Văn giới thiệu:
- Ngôi nhà này có tên Nghinh-tân-các là nơi tiếp khách quí. Đúng ra các chị là tù nhân của sơn trang, thì ở ngôi nhà hôm qua. Sau vì chị Mỹ-Linh thắng chị Mai, nên bố coi trọng hơn, cho các chị ra ở nhà của thượng khách.
Nó chỉ tay lên đồi:
- Khu thứ ba là khu Lĩnh-nam, tức khu trồng hoa, cỏ, cây thuốc, mà các chị đã đi dạo chơi nhiều lần. Khu thứ ba chia làm sáu phần, mỗi phần mang tên vùng đất thời Lĩnh-nam như Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam.
Đúng như Lê Văn nói, khi Mỹ-Linh bước chân vào căn nhà tròn, thì có hai thiếu nữ áo lụa vàng nhạt, quần lụa đen bước ra lễ phép mời vào. Lê Văn nói:
- Hoàng Mai, Hoàng Cúc, đây là công chúa Bình-Dương và quận chúa Bảo-Hòa. Hai người phải lo phục thị chu đáo. Nếu có gì sơ xuất, bố tôi đánh đòn đó. Thế nào cơm đã dọn chưa?
Hoàng Cúc đáp:
- Thưa công-tử, tất cả đã sẵn sàng chờ quí khách.
Lê Văn nhìn bàn ăn, nó mỉm cười:
- Hôm nay hai chị được ăn thêm mấy món đặc biệt. À đây là món canh cải bẹ nấu ca rô. Đây là món cá rô kho keo. Ờ, lại còn món nem nữa.
Lê Văn mời Bảo-Hòa, Mỹ-Linh ngồi. Bảo-Hòa thấy trên bàn có bốn đôi đũa. Nàng hỏi:
- Này cậu em, còn ai nữa đây?
Có tiếng đáp thanh thóat:
- Còn Thanh-Mai chứ ai nữa
Thanh-Mai từ ngoài bước vào. Mỹ-Linh mừng quá đứng dậy hỏi:
- Chị Thanh, chị ở đâu?
Thanh-Mai chỉ lên đầu:
- Chị ở trên lầu. Các em cũng sẽ ở đó với chị. Mấy món này chị thân làm để đãi Bảo-Hòa đấy. Canh cải bẹ xanh nấu với cá rô là món ăn hơi cầu kỳ, mà ngon. Cách nấu như thế này. Cá rô đánh sạch vảy, rồi cho vào nồi luộc chín. Sau đó gỡ thịt riêng ra. Còn xương thì cho vào cối dã nhỏ thành bột. Đổ nước vào lọc riêng nước mầu với bã xương. Nước mầu cho vào nồi, thêm một muỗng mắm tôm nấu lên. Cải bẹ xanh thái thực nhỏ như sợi tóc. Đợi khi nước sôi, thì cho rau vào. Chờ khoảng nhai dập miếng trầu, thì bắt ra. Trước khi bắt, giã nhỏ một củ gừng bằng ngón chân cái cho vào.
Mỹ-Linh hỏi:
- Tại sao canh cải bẹ xanh lại phải cho gừng, mà không cho hồ-tiêu?
Thanh-Mai lắc đầu:
- Chị chỉ biết nấu mà không hiểu tại sao.
Lê Văn cười:
- À cái này dễ thôi. Cải bẹ xanh tính vốn co rút, lại mát. Nếu mát qúa thì ăn vào dễ đau bụng. Gừng tính chất phát tán lại nóng, có thể hòa giải tính co rút và mát của cải bẹ xanh.
Mỹ-Linh gắp một con cá rô kho bỏ vào bát. Thanh-Mai cản lại:
- Hôm trước anh Tạ Sơn nói :Mỹ-Linh chưa được ăn cá rô. Vì cá rô xương cứng. Ăn vào dễ bị hóc. Nên ngự trù không giám nấu dâng lên đức vua cùng hoàng-tử, công-chúa. Để chị vẽ cho Linh ăn, nếu không sẽ bị hóc.
Thanh-Mai vẽ xong, Mỹ-Linh gắp ăn. Cá rô ít tanh, lại kho keo, thịt cá dai, cứng như thịt gà, thơm tho, có vị bùi đưa lên mũi.
Mỹ-Linh than:
- Cá rô kho keo ăn ngon như thế này, mà năm nay mười bẩy tuổi em mới được ăn. Chị Thanh, dạy em kho cá đi. Kỳ này về hoàng cung, em sẽ làm cho bố ăn.
Thanh-Mai giảng:
- Cá rô phải chọn con lớn. Nếu có trứng càng tốt. Đánh vảy, cắt gai thực kỹ, nhớ cắt mang, lấy go ra. Sau đó rửa với chanh họăc dấm cho hết nhớt. Không cần mổ ruột, ăn cả ruột lẫn mật. Mật cá rô không đắng, trái lại giúp cho bớt mùi tanh. Đem cá ướp muối, kẹo đắng khỏang nửa ngày, rồi đổ nước xấp xỉ bằng cá, đun lửa thực nhỏ. Khi nước sắp khô, phải trở cá luôn. Lúc cá thật keo lại, thì ngừng.
Mỹ-Linh hỏi Lê Văn:
- Tại sao khi ăn cá trê, phải lấy ruột ra. Còn ăn cá quả với cá rô lại ăn cả ruột? Trong y-học có nói về vấn đề này không?
Lê Văn vui vẻ đáp:
- Khoa ăn uống của tổ tiên mình, tất cả đều được đặt trên cơ-sở y học cả. Chị nên biết cá trê thuộc loại ở dưới bùn, không có vảy, nhiều nhớt, thuộc âm tính nhất trong các lọai cá. Thịt nó đã tanh, thì ruột nó còn tanh hơn. Hiện không có loại rau thơm nào hòa giải được cả, nên không thể ăn.
Lê Văn cầm đũa vẽ con cá rô, moi ruột ra bỏ vào bát Mỹ-Linh:
- Còn cá quả cũng như cá rô, chúng là lọai cá dương sống trong âm, bởi chúng nó rất mạnh. Cá quả cũng như cá rô là lọai dương, mà sống trong bùn, trong nước đất thuộc âm, ăn vào thường hay bị sưng chân, nổi mụn ngứa. Cho nên khi làm thịt hai lọai cá này, không nên vứt bộ đồ lòng đi. Cần ăn lòng của chúng, để chống độc chất nhiễm trong thịt chúng. Phải biết rằng hai loại cá sống trong bùn lầy đầy chất độc, thế mà nó chịu đựng được, thì trong thân phải có sức chống âm hàn, chống mùi tanh của bùn. Cơ quan chống lại được bùn lầy của chúng là bộ đồ lòng.
Trong bốn người, thì Thanh-Mai lớn tuổi nhất. Thứ đến Bảo-Hòa, rồi Mỹ-Linh. Nhỏ nhất là Lê Văn. Lê Văn nói truyện rất có duyên. Vì vậy bữa ăn trôi qua thực mau lẹ.
Có một hồi trống vọng về. Lê Văn đứng lên nói:
- Trống tập họp các đệ tử ở đại sảnh đường. Chắc có việc gì quan trọng. Em mời các chị cùng đi cho vui.
Bảo-Hòa trầm ngâm:
- Chúng tôi không phải đệ tử trong trang .Không biết có nên tham dự chăng?
Lê Văn nắm tay Bảo-Hòa kéo dậy:
- Theo tục lệ trang, thì đại hội có nghĩa là cần thông báo một tin tức gì cho tất cả những người hiện diện, ngoại trừ bệnh nhân. Các chị cũng là người cư trú trong trang, các chị cũng có quyền tham dự.
Lê Văn dẫn chị em Thanh-Mai đến đại sảnh đường khu Văn-lang. Mọi người đang lục tục kéo tới.
Lê Văn giảng:
- Các chị phải trông y phục mà phân biệt loại người. Những người mặc quần trắng, áo trắng là đệ tử của sơn-trang. Họ học cả y lẫn võ. Những người mặc quần đen, áo xanh, thì họ là người giúp việc bếp nước, lau chùi, giặt quần áo cho bệnh nhân. Những người mặc quần áo nâu thì là người trồng thuốc, làm vườn. Còn những người không mặc quần áo đồng phục, là gia nhân, họ hàng nhà em. Khi đại hội như thế này, người đệ tử cao niên nhất của bố em đứng triệu tập.
Trong đại sảnh đông nghẹt, mà không một tiếng động. Mọi người như quen với lối sinh hoạt này rồi. Họ âm thầm tìm chỗ ngồi. Thanh-Mai liếc nhìn: họ chia nhau ra ngồi từng khu riêng biệt. Khu áo trắng, khu áo xanh, khu áo nâu và khu... không đồng phục.
Thanh-Mai được Lê Văn mời ngồi vào khu sát bục sân khấu. Nàng thấy bọn Triệu Anh, Đinh Toàn cũng được dẫn tới ngồi vào khu dành cho quan khách, nhưng họ ngồi cách xa nàng. Không thấy Lê Phụng-Hiểu, Thanh-Mai ngạc nhiên hỏi Lê Văn.
Nó nói nhỏ:
- Anh ta là người trong làng Vạn-thảo, bố em không có lý do gì bỏ tù anh ta. Em đã ăn cắp thuốc giải Hàn-ngọc đơn cho anh ta uống, đưa anh ta về rồi.
Một trung niên nam tử mặc quần áo trắng lên bục, dơ tay cho mọi người im lặng, rồi anh ta nói lớn:
- Thưa các vị đồng trang. Hôm nay trang chúng ta có quý khách tới thăm. Qúi khách muốn chúng ta tham dự một việc quan trong thiên hạ. Tôi nhắc lại một việc quan trọng của thiên hạ, chứ không phải việc quan trọng Đại-Việt. Sư-phụ tôi không giám tự quyết, mời các vị cùng nghe, rồi cho ý kiến chung.
Thanh-Mai hỏi nhỏ Lê Văn:
- Đại sư huynh của em tên gì vậy?
- Anh tên Dương Bình. Trước đây anh có người cô ruột làm hoàng-hậu của vua Đinh tên Dương Vân-Nga. Khi vua Đinh chết, bà lại được vua Lê phong làm Đại-thắng hoàng-hậu. Võ công anh rất cao, mà tài phục dược cũng thần sầu.
Thanh-Mai nói nhỏ:
__ Như vậy Dương Bình với Đinh Toàn là con cô con cậu à?
- Đúng thế.
Dương Bình đợi cho tiếng ồn ào giảm bớt, chàng lại nói lớn:
- Nhân tiện đây tôi cũng xin báo cho các vị biềt, sư phụ tôi mới kén được sư mẩu.
Cả sảnh đường im lặng. Mọi người chờ Dương Bình loan tin tiếp xem người ấy là ai. Bởi Hồng-Sơn đại-phu là người võ công đệ nhất đương thời, ngoài ra ông lại là đại-phu nức danh, một tay cứu không biết bao nhiêu người, ân huệ trải khắp thiên hạ, Gần đây hàng trăm người đến mối lái, ông không nhận. Thình lình ông cưới một người đàn bà vừa xấu, vừa đần, vừa ngu, vừa không có đức. Y thị về trang đã gây ra không biết bao nhiêu điều buồn cho mọi người. Thế rồi hơn năm sau mụ bỏ đi. Ai cũng mừng rỡ. Bây giờ lại thấy loan báo trang chủ cưới vợ, thành ra ai ai đều hiện ra nét lo âu.
Dương Bình tiếp:
- Sư mẫu là người trong võ lâm, nhưng không thuộc đại môn phái nào. Tuy tuổi trẻ, nhưng người đã từng hành hiệp suốt một giải biên giới phía bắc Đại-Việt, sang tới vùng Mân-Quảng bên Trung-quốc.
Chiêng trống đánh liên tiếp ba hồi liền. Lê Văn nói nho nhỏ để chị em Thanh-Mai nghe:
- Bố em với khách tới đấy!
Dương Bình hô mọi người đứng dậy. Hồng-Sơn đại phu mặc quốc phục thời vua Hùng. Bên cạnh ông, Huệ-Phương mặc quần lụa đen, áo mầu đỏ chói, cổ choàng chiếc khăn mầu xanh, dây lưng cũng xanh .Lưng nàng đeo bảo kiếm. Đám đệ tử thấy nàng phơi phới như tiên nữ, thì bật liên tiếng súyt xoa. Cạnh đó là ba người khách. Thoáng trông thấy bọn khách, chị em Thanh-Mai suýt bật lên tiếng kêu. Vì họ chính là Triệu Thành, Vương Duy-Chính, và Minh-Thiên
Nàng nói sẽ vào tai Lê Văn:
- Này cậu. Bọn này chính là bọn Tống chị đã nói cho cậu nghe đó.
Hồng-Sơn đại-phu mời khách an tọa. Hai nữ đệ tử mặc áo xanh, bưng nước, trái cây mời khách. Triệu Thành thấy bọn thuộc hạ cùng Đinh Toàn ngồi trong đại sảnh, mà y lờ đi như không biết.
Dương Bình hướng xuống dưới, chàng vận nội lực nói lớn:
- Thưa các vị đồng trang. Hôm nay sơn trang chúng ta hân hạnh được đón mấy vị qúi khách đến viếng thăm. Vị thứ nhất là hoàng đệ đức hoàng đế nhà đại Tống. Ngài hiện lĩnh chức Phu-quốc thái-úy, quản Khu-mật-viện tước phong Bình-nam vương. Vương gia cùng sứ đoàn sang Chiêm-quốc, nhân tiện ghé sơn trang thăm sư phụ chúng ta.
Triệu Thành đứng dậy cho mọi người hoan hô.
Dương Bình lại tiếp:
- Tùy tòng vương gia, còn có Minh-Thiên đại-sư, thủ tọa Đạt-ma đường chùa Thiếu-lâm, và đại-nhân Vương Duy-Chính, xuất thân tiến sĩ, cũng là cao thủ phái Võ-đang, hiện đang giữa chức chuyển-vận-sứ vùng Quảng-tây.
Triệu Thành đứng lên vận nội lực nói lớn:
- Thưa Hồng-Sơn tiền bối. Thưa các vị huynh, đệ, tỷ, muội. Bản nhân được chỉ dụ của hoàng huynh kinh lý vùng phía nam hoàng-triều cương thổ. Khi còn ở Trung-nguyên, tại hạ đã nghe danh đại-phu như sét nổ bên tai. Nào võ công đệ nhất Nam-thiên, nào y tài không thua Hoa-Đà, Biển-Thước. Cho nên bản nhân qua đây, xin có chút lễ mọn kính tặng tiên sinh, trước tỏ lòng biết trọng hiền của thiên tử. Sau là trọng thưởng đức cứu nhân độ thế của tiên sinh.
Y vẫy tay một cái, Vương Duy-Chính cởi túi trên lưng ra, mở nút, đổ xuống cái mâm để trước mặt, hai tay đưa cho Hồng-Sơn đại-phu. Đại-phu tiếp lấy bỏ xuống bàn.
Vương Duy-Chính cầm danh thiếp đọc:
- Vàng khối một ngàn lạng. Bạc khối năm ngàn lạng. Ngọc bích mười viên, kim cương mười hạt, hồng ngọc năm hạt.
Vương Duy-Chính tiếp:
- Gấm Thục một trăm tấm, hãy còn để ngoài xe.
Vương Duy-Chính về chỗ ngồi. Hồng-Sơn lão nhân hỏi Triệu Thành:
- Xin vương gia tâu lên đức Hoàng-đế rằng, tên thôn phu Lê Long-Mang này xin có lời đa tạ hoàng đế bệ hạ ban thưởng. Chẳng hay vương gia chỉ ghé thăm ban thưởng, hay còn có chỉ dụ gì khác?
Triệu Thành đứng lên nói:
- Từ khi nhà Đại-tống thuận mệnh trời cai trị thiên hạ đến giờ. Các vị tiên hoàng không ngớt hướng về phương Nam này, là nơi rồng nằm hổ phục, nhân tài như sao sa. Năm trước đây đức hoàng đế mở khoa thi võ. Ngài tuyển một trạng nguyên, hai bảng-nhãn, bốn thám-hoa, và mười lăm tiến sĩ. Cộng chung ba mươi hai người. Ba mươi hai người đang từ một võ-sĩ, phút chốc lên cầm quyền đại tướng quân, hiển hách uy danh.
Y ngừng lại một lát rồi tiếp:
- Tuy nhiên trong ba mươi hai vị đó, không có vị nào người Việt cả. Mà đất Việt vốn là nơi xuất phát nhiều nhân tài. Thời Âu-lạc, Lý Thân được phong Vạn-tín-hầu. Thời Đông-Hán, Đào Kỳ được phong Hán-trung vương. Nghiêm Sơn được phong Lĩnh-nam vương. Đô Dương được phong Đô-đình hầu...đó chẳng là những người vang danh thủa nào ư? Năm tới đây, hoàng thượng lại mở khoa thi võ nữa. Vì vậy bản nhân tới đây mời tất cả các vị thuộc sơn-trang, vào ngày rằm tháng tám sang năm, nhớ đến Biện-kinh ứng thí.
Thanh-Mai ghé tai Lê Văn hỏi nhỏ:
- Tại sao đại-phu không có phản ứng gì vậy?
Lê Văn cười:
- Bố em có cái ưu điểm là bất cứ việc gì ông cũng không phản ứng ngay. Ông suy nghĩ cẩn thận rồi quyết định. Khi ông đã quyết định thì trời gầm ông cũng không đổi. Đối với việc này, lát nữa chị sẽ thấy.
Dương Bình đứng lên hướng vào cử tọa hỏi:
- Các vị đồng trang, các vị có ý kiến gì không?
Một vị mặc quần áo nâu, râu dài, vóc người mảnh mai đứng lên nói:
- Thưa trang chủ, thưa qúi khách. Lão là Lê Anh, chưởng-quản viện Âu-Cơ xin có đôi lời thắc mắc với Bình-nam vương gia. Theo như tiểu nhân được biết, thì niên hiệu Thuận-thiên thứ tám của đức hoàng-đế Đại-Việt, sứ thần Đại-tống phong cho hoàng đế Đại-Việt tước Nam-bình vương. Không hiểu tại sao vương gia đang là Bình-tây vương, cầm quyền chinh phạt Tây-hạ, Thổ- phồn, Tây-liêu, lại được cải phong là Bình-nam vương. Dường như Tống thiên-tử muốn ủy cho vương gia đánh chiếm Đại-Việt thì phải!
Vương Duy-Chính đứng lên:
- Không phải thế đâu. Tước Bình-nam vương của vương gia chỉ với mục đích chỉnh đốn lại cương vực phía Nam mà thôi. Chứ không có ý nghĩa nào khác.
Dương Bình hướng về Triệu Thành lễ hai lễ:
- Như vậy thì coi như nhà Đại-Tống không muốn gây chiến ở phương Nam. Thực là phúc đức.
Huệ-Phương đứng lên. Chiếc áo màu đỏ, phất phới bên chiếc khăn choàng cổ cùng dây lưng vàng, khiến nàng phiêu hốt như tiên nữ. Nàng hướng vào Triệu Thành vái một vái:
- Tiểu nữ có vài thắc mắc xin vương-gia giải đáp cho.
Triệu Thành thấy nàng đẹp như thiên tiên thì ngây người ra:
- Cô nương đây là...
Dương Bình đáp:
- Vị này là sư mẫu của chúng tôi.
Triệu Thành ngây ngất, lắp bắp nói:
- Thì ra Vạn-thảo sơn-trang chủ mẫu, tôi không biết lại tưởng là vị tiên nào giáng hạ. Không biết phu-nhân có điều chi thắc mắc?
Huệ-Phương vẫy tay một cái. Hai nữ đệ tử khiêng ra cái khung dựng đứng. Trên khung có cái trục lớn. Huệ-Phương cởi dây, trục mở ra một tấm lụa lớn bằng bốn cái chiếu, trên vẽ bản đồ. Triệu-Thành nhận ra đó là bản đồ biên giới vùng Hoa-Việt.
Bảo-Hòa, Mỹ-Linh kinh ngạc vô cùng, vì tấm bản đồ này hai người đã thấy ở bản doanh của biên-phòng Bắc-biên và tại Khu-mật-viện Thăng-long.
Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
- Chị Thanh, chị thử đóan xem tại sao Huệ-Phương lại có tấm bản đồ giống hệt như tấm ở bản doanh cô hai cũng như ở Khu-mật-viện?
Thanh-Mai lắc đầu:
- Chị không rõ. Chúng ta cứ chờ xem.
Huệ-Phương chỉ lên bản đồ:
- Thưa vương-gia, hồi vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, ranh giới Đại-Việt tôi Bắc tới tới hồ Động-đình. Tây giáp với Thục. Bây giờ chỉ còn lại một phần năm. Hiện giữa Trung-quốc với Đại-Việt tiếp giáp với nhau bằng 207 khê-động. Những khê-động này, nguyên gốc từ Tây-vu. Sau khi vua Bà tuẫn quốc, các động-chủ, trang chủ vùng đồng bằng bị Mã Viện truất quyền, thành lập làng-xã, quận huyện. Nhưng vùng Bắc biên tòan rừng núi, các trang chủ động chủ cương quyết kháng chiến, thành ra trải hơn nghìn năm Bắc thuộc, nay vẫn tồn tại. Vấn đề được đặt ra là: Hiện những trang, động chủ qui phục hoàng-đế Đại-Việt. Tại sao các quan nam biên của Tống lại cứ tìm cách mua chuộc, đe dọa, bắt họ bỏ Đại-việt theo Tống?
Triệu Thành ngơ ngác:
- Tôi không hề biết truyện này.
Lúc nghe Dương Bình tuyên bố Hồng-Sơn đại-phu mới tuyển được vợ. Mọi người trong trang đều lo sợ sẽ gặp người đàn bà ngu dốt, ương ngạnh như đời vợ trước của đại-phu. Bây giờ thấy Huệ-Phương đã xinh đẹp, sắc sảo, lại tỏ ra hiểu biết đại cuộc. Nàng mới đặt một câu hỏi, đã làm cho Bình-nam vương nhà Tống luống cuống.
Huệ-Phương mỉm cười rất tươi chỉ lên bản đồ:
- Vương gia lịch sự không muốn nói ta chẳng thèm trả lời con nha đầu Nam-man. Chứ sự thực vương gia nào phải không biết. Này vương gia ơi, Khu-mật-viện nhà Tống gồm những đại-thần có tài kinh thiên động địa. Hoàng-đế lại không tiếc tiền, sai hàng chục đoàn do thám sang Đại-Việt. Tể-thần Khấu Chuẩn cũng là danh sĩ Trung-quốc đã từng nói các nước Giao-chỉ, Tây-hạ, Đại-lý... mỗi ngày bò, lợn đẻ thêm bao nhiêu con, Khu-mật-viện đều biết hết. Vương gia trực tiếp chưởng-quản Khu-mật-viện lại không biết thì hơi lạ.
Triệu Thành hỏi Vương Duy-Chính:
- Lạ thực, những việc lớn như thế mà tại sao biên thần không tâu về triều? Có lẽ họ không theo dõi chăng?
Huệ-Phương mỉm cười:
- Vương gia cứ giả tảng hoài. Ngoài Khu-mật-viện ra. Nhà Đại-Tống còn ba cơ quan lớn nữa theo dõi, chỉ huy những đoàn do thám sang Đại-Việt, đó là Quảng-nam lộ, Quảng-tây lộ và Quảng-đông lộ. Mỗi lộ này dân đông hơn dân nước tôi, đất rộng hơn Đại-việt.
Nàng chỉ vào Vương Duy-Chính:
- Vương chuyển-vận-sứ! Có đúng không?
Vương Duy-Chính giả vờ ngơ ngác:
- Ty chức không hiểu. Xin phu nhân nói rõ hơn.
Huệ-Phương cười:
- Vương đại-nhân không muốn nói, thì tiểu-nữ nói vậy.