Hồi 16b
Triệu Huy nói lớn:
- Cao nhân phương nào xin cho được tương kiến.
Không có tiếng trả lời. Xa xa vọng lại tiếng chim đánh ống dài thê lương dưới trăng. Bọn Đinh Toàn, Triệu Anh cùng chạy xung quanh, bới cỏ, vạch cây tìm, mà nào thấy ai?
Triệu Huy đang lo lắng về cao nhân, bị Thanh-Mai đục một quyền trúng vai, đau thấu xương. Y nổi cộc đánh liền ba chưởng như vũ bão. Thanh-Mai đở được hai chưởng, chân tay rũ liệt, nàng ngã ngồi xuống. Triệu Huy túm cổ áo nhắc bổng nàng lên cao.
Y định quật chết, nhưng nghĩ lại mấy chiêu nhập môn vừa rồi của phái Đông-a, khiến y đã choáng váng, thì với một cao thủ y chịu sao nổi? Phái Đông-a người nhiều thế mạnh, đến Tống đế còn kiêng nể. Nếu y giết con gái yêu của chưởng môn, thì dù có cánh bay lên trời cũng không toàn mạng. Nghĩ vậy y bỏ nàng xuống, quát lớn:
- Trần cô nương chịu thua rồi. Như thế mỗi bên thắng một trận. Vậy trận kết thúc là trận thứ ba. Nào, mời công-chúa Bình-dương xuất thủ dạy dỗ cho nhị sư huynh tôi mấy chiêu.
Giọng nói của y đểu giả vô cùng.
Mỹ-Linh biết mình tuổi còn nhỏ, công lực không được làm bao, muôn ngàn lần không bằng Ngô Tích. Nàng mỉm cười:
- Tôi nghe Ngô đại hiệp nổi tiếng tài kiêm văn võ, được phong tới chiêu-thảo-sứ. Vậy không biết chúng ta đấu văn hay đấu võ.
Vô tình Mỹ-Linh đánh trúng yếu điểm của Ngô. Trong ba sư huynh, sư đệ, thì võ công Ngô kém nhất. Song y tự hào văn chương quán thế, mà rút cục y chỉ được phong chức quan võ. Trong khi Triệu Anh được phong tới lang-trung, Triệu Huy được phong tới an-phủ-sứ là chức tước cả văn lẫn võ. Từ lâu y không nói ra, nhưng vẫn ấm ức trong lòng. Bây giờ Mỹ-Linh thách y đấu văn, thực là dịp y được trổ tài. Y kính cẩn nói:
- Tại hạ xin được hầu tiếp tài nàng Ban, ả Tạ của công-chúa điện hạ.
Trong khi hai người nói truyện, thì Triệu Anh đau đớn khủng khiếp, miệng y rên lên hừ hừ, hai hàm răng đánh vao nhau lộp cộp. Triệu Huy dơ tay lên nói:
- Xin công-chúa nói với quận-chúa Bảo-Hòa trao thuốc giải cho Triệu đại ca. Bằng không, chúng tôi bất chấp luật lệ võ lâm.
Biết không đừng được, Bảo-Hòa móc trong túi ra một viên thuốc, đưa cho Huy:
- Đây là thuốc trừ rắn. Còn thuốc trừ phấn độc, phải dùng châm cứu mà trị. Tôi không biết châm cứu. Trước hết Triệu tam hiệp phải cắt một lỗ nơi vết thương cho máu chảy bớt chất độc ra ngòai. Còn viên thuốc này, thì bỏ vào miệng, vận khí cho mau tan. Khi thuốc tan trong vị, dùng khí dẫn thuốc theo Thủ-thái-âm phế kinh, sau đó lưu chuyển khắp vòng Đại-chu thiên. Trong bẩy lần bẩy là bốn mươi chín ngày không được xử dụng võ công, cũng không được uống rượu, cùng gần đàn bà. Bằng không thì đừng có chê thuốc của tôi không công hiệu.
Triệu Huy trấn ở biên cương đã lâu, y biết Bảo-Hòa nói thực. Trong trận đánh Như-hồng cách đây mấy năm, đã có nhiều người trúng phấn độc, lương y xem xét rồi dùng châm cứu chữa khỏi. Nhưng phấn thì không nguy hiểm trong chốc lát. Đợi sau việc ở đây kiếm thầy châm cứu cũng còn kịp? Y biết phấn độc này để quá mười ngày mới nguy hại. Còn hiện thời, chỉ làm chân tay tê liệt mà thôi.
Triệu Huy nhét viên thuốc trị nọc rắn vào miệng sư huynh. Y lầm con dao nhỏ rách một vết nhỏ trên vết rắn cắn ,máu chảy ra ngoài đầm đìa. Phút chốc mặt Triệu Anh tươi hẳn lên, y không run rẩy nữa.
Ngô Tích hỏi Mỹ-Linh:
- Xin công chúa cho đầu đề.
Mỹ-Linh moi trong bọc ra một bình son, một cái nghiên, sáu cái bút. Nàng đổ son vào nghiên, cầm bút chấm son, viết trên thành cái bể cạn:
- Nam-sơn trúc bất tận.
Nét bút hoa dạng, sống động, trong cái nhu, có cái sắc sảo. Cả bọn Triệu Huy đều đã sống cạnh những bậc đại danh Nho triều Tống. Những người hoa tay thực không thiếu, nhưng đa số họ đều già. Ở đây, Mỹ-Linh tuổi bất quá mười sáu, lại là con gái, cho nên bọn Huy đờ người ra.
Mỹ-Linh cười:
- Mấy chữ mèo cào không bõ làm trò cười cho bậc danh sĩ đại Tống. Xin mời Ngô tiên sinh đối cho.
Lúc nghe Mỹ-Linh đòi đấu văn, Ngô Tích tưởng nàng sẽ đem ý nghĩa kinh điển ra thi thố với mình. Nào ngờ nàng lại bắt đấu bút pháp, và bắt thù tụng bằng câu đối. Ngô có trí nhớ, đọc thiên kinh, vạn quyển, nhưng bút pháp y lại rất dở. Đã trót, y đành cầm bút suy nghĩ. Thanh-Mai không cho y suy nghĩ, nàng muốn y chia trí, cười nói:
- Này Ngô đại nhân, coi chừng thua cô em tôi thì phiền lắm đấy. Trước kia Tào Thực bẩy bước thành thơ. Từ nãy đến giờ nếu tôi bước thì đã được bẩy trăm bước, mà Ngô đại nhân chưa xong vế đối ư? Để tôi giảng ý nghiã vế trên của Bình-Dương cho đại nhân nghe. Em tôi đề vế câu đối trên bể cạn nhỏ xíu. Trên bể có vài nhánh trúc. Thế mà em tôi ví với rừng Nam-sơn bên qúi quốc là nơi có hàng vạn mẫu, chuyên trồng trúc để làm bút viết.
Nàng chợt dừng lại, vì không muốn trêu Ngô Tích. Bởi trong ba người cùng bọn, Ngô có vẻ ôn hòa, nghiêm trang, tư thái khác phàm. Sở dĩ nàng với Bảo-Hòa bầy ra cuộc đấu là muốn kéo dài thời gian, đợi viện binh. Nay viện binh chưa tới, mà cuộc đấu kết thúc, dù chị em nàng có thắng, bọn chúng cũng phải giết để phi tang. Vì vậy nàng muốn nói mấy câu mua lấy chút cảm tình của Ngô:
- Cây trúc tượng trưng cho người quân tử. Em tôi muốn ví tiên-sinh giống như trúc rừng Nam-sơn đấy.
Ngô Tích quả bị chia trí. Sự thực y có coi câu đối trên ra gì đâu.Y có thể đối lại bằng cả chục vế khác. Ngặt vì nếu y thắng, thì sư đệ của y sẽ giết ba cô gái này. Y là văn nhân, vốn lãng mạn, đa tình. Y đành chịu nhục, chứ không muốn ba cô gái xinh đẹp thế kia phải chết uổng. Y ném bút nói:
- Tại hạ chịu thua công chúa.
Chị em Thanh-Mai kinh ngạc đã đành, bọn Triệu Huy sững sờ người ra. Y hỏi:
- Nhị ca... việc này...
Ngô Tích nhăn mặt:
- Không hiểu sao hôm nay đầu óc ta lộn xộn qúa, nghĩ không ra.
Y nói với Mỹ-Linh:
- Xin công chúa cho thêm vế nữa.
Mỹ-Linh cầm bút viết thêm:
- Đông hải ba vô cùng.
Ngô Tích tấm tắc khen:
- Hay tuyệt, vế này đối với vế trên chan chát: biển Đông sóng không bao giờ hết . Cái bể cạn con con này, mà công chúa ví với biển Đông thì còn gì hay hơn. Khâm phục, khâm phục.
Thanh-Mai, Mỹ-Linh biết Ngô Tích tốt với chị em nàng. Cả hai chắp tay:
- Đa tạ Ngô tiên sinh dạy dỗ.
Ngô Tích nghĩ lại một chút, chợt tìm ra Mỹ-Linh chửi xéo bọn y. Song đã trót. Y biết hai câu trên nàng lấy trong bài biểu đánh Lý Mật đời Đường. Về đời Đường, khi sọan bại biểu kể tội Lý Mật, danh sĩ đã viết rằng:
- Quyết Đông hải chi ba lưu ác bất tận,
Khánh Nam-sơn chi trúc thư tội vô cùng.
Nghĩa là: dù lấy hết nước biển Đông rửa cũng không hết tội ác. Dù cắt hết trúc Nam-sơn cũng không chép hết tội ác.
Ngô Tích ngửa mặt lên trời cười, tỏ ý tha thứ. Mỹ-Linh muốn nói một câu cảm ơn y, mà anh em y không hiểu, nàng nói bâng quơ:
- Quân tử thản, đãng đãng.
Câu này lấy ý trong Luận-ngữ, nghĩa là người quân tử dù gặp việc bất như ý sự, lúc nào cũng thản nhiên.
Ngô Tích chắp tay tạ Mỹ-Linh:
- Đa tạ công chúa quá khen.
Y nói với Triệu Huy:
- Chúng ta thua hai trận. Tuy nhiên vì việc cơ mật, chúng ta cần giữ ba cô này mấy ngày, rồi sau đó thả ra. Như vậy không làm mất lời hứa, lại không hại gì đến công việc.
Triệu Huy có ý định sau ba trận đấu, dù thua, dù thắng, y cũng giết ba người để phi tang. Nhưng một, y sợ trách nhiệm, trái chỉ dụ Tống đế là không được gây hấn với võ lâm Lĩnh-nam. Hai, y sợ đụng tới phái Đông-a. Y đành tuân lệnh nhị sư huynh. Tuy nhiên y cần dọa Bảo-Hòa:
- Bây giờ ta trói ba cô lại. Nếu trong mấy ngày, không tìm ra thầy châm cứu, ta sẽ giết ba cô chôn chung với đại huynh ta. Như vậy đại huynh có chết cũng đỡ cô độc. Ta nói trước, trong khi đi theo bọn ta, các cô phải tịnh khẩu. Nếu các cô mở miệng, ta quyết không tha.
Y quẳng dây cho An-Hòa trói ba người lại. Sau khi trói bọn Bảo-Hòa, An-Hòa còn lấy khăn lụa cột miệng lại. Y nói sẽ vào tai Triệu Anh:
- Triệu đại nhân. Tôi nghi con nha đầu này có thuốc giải, mà y thị không chịu đưa ra. Bây giờ chúng ta đem phấn độc bắt thị ngửi. Nếu thị có thuốc, ắt phải tự cứu mình. Bằng không thì thị chết chung với đại nhân.
Triệu Anh không ngờ gã họ Đàm lại linh mẫn đến thế. Y lục trong bọc Bảo-Hòa, quả có hộp phấn độc, y lấy chiếc lá múc ra một ít, rồi vung chưởng đánh vào đầu Bảo-Hòa. Bảo-Hòa ngộp thở, nàng ngửa mặt lên trời hít hơi. Đúng lúc đó, y bắn phấn độc vào mặt nàng. Bảo-Hòa vốn tính ngang bướng, nàng biết mình trúng độc, mà vẫn nín thinh không nói một lời. Thanh-Mai thấy mồ hôi nàng vã ra, thì hỏi:
- Quận chúa. Có sao không?
Bảo-Hòa cười nhạt:
- Tôi không sao cả.
Bảo-Hòa nhìn về phía con đừơng dẫn vào đền, tuyệt không thấy bóng viện quân. Nàng nghĩ:
- Lát nữa đây chúng sẽ bắt bọn ta đi. Chi bằng ta để lại dấu vết cho anh ta biết mà tìm.
Nàng giả vờ say thuốc, chân tay run rẩy, trong khi đó dùng ngón tay viết xuống mảnh vườn phía sau mấy chữ vùng Tây-vu.
Từ đầu đến cuối, Quách Qùi không nói, không rằng, bây giờ y mới lên tiếng:
- Sư thúc. Cô này viết chữ để lại cho đồng bọn.
Nói rồi y chỉ vào mấy chữ Bảo-Hòa vừa viết:
- Mấy chữ này có nghiã Em bị bọn Tống bắt, hãy hỏi chim ưng để biết đường.
Triệu Huy lấy chân di vết tích mấy chữ ấy đi. Thanh-Mai chữa thẹn:
- Quách công tử. Tổ tiên Quách công tử quả bền chí thực. Lúc đầu ta lấy làm lạ, tại sao Tống đế sai sứ đoàn sang Đại-Việt với một công tác cực mật, mà lại mang một thiếu niên như công tử theo. Thì ra vì công tử biết nói tiếng Việt, và đọc được chữ Khoa-đẩu.
Nàng nói với Bảo-Hòa:
- Xưa kia Quách Quân-Biện bị bắt làm tù binh, y đã dầy công học tiếng Việt, cùng chữ Khoa-đẩu. Y biết rằng quân luật triều Tống rất nghiêm, khi bị giặc bắt, mà không tự tử, lúc được tha về e khó thóat tội bêu đầu. Tống bị thua trận Bạch-Đằng, muốn báo thù ắt phải cần người biết nói, biết viết chữ Việt. Y được tha chết. Y đem chữ Khoa-đẩu dạy con cái. Cho nên Quỳ mới đọc được.
Triệu Huy nói với Đinh Toàn:
- Nào bây giờ chúng ta cùng xuống hầm. Tuy vậy ta cần để Đàm hiệu-úy giữ miệng hầm. Còn ba con cọp cái này, thì phải mang theo. Tôi đi trước, phiền vương gia đi sau coi chừng chúng.
Nhưng chúng chỉ chú ý đến Bảo-Hòa mà quên mất Mỹ-Linh. Nguyên trong phái Mê-linh, các đệ tử đều học văn tự Khoa-đẩu. Thân-mẫu Mỹ-Linh rất giỏi loại văn tự này. Bà đem đạy cho nàng. Trong khi bọn Triệu Huy chú ý đến Bảo-Hòa, thì nàng dựa lưng vào cây chuối, dùng móng tay viết mấy chữ Khoa-đẩu Thiệu-Thái, em với Bảo-Hòa bị nạn. Theo dấu chim ưng tìm bọn em.
Triệu Huy cầm đuốc đi trước. Xuống bẩy bậc thềm thì vào hẳn trong hang động. Hang rộng khỏang mười bước, hình bát giác, mỗi cạnh lại có một cửa ngách. Giữa là bốn tảng đá đặt song song nhau, hình dạng như cái ghế. Triệu Huy cầm đuốc soi vào mấy cái ghế, thấy không có gì lạ, y lại soi tới tám tấm vách đá. Tấm thứ nhất khắc hình cái búa. Bên dưới chằng chịt những chữ. Y không hiểu chữ gì. Y hỏi Đinh Toàn:
- Phải chăng đây là chữ Giao-chỉ?
Đinh Toàn lắc đầu:
- Giao-chỉ không có chữ, từ hơn nghìn năm nay đều dùng chữ Hán như Trung-quốc.
Khi vào đến miệng hầm, Bảo-Hòa đã biết các bia đều chép bằng chữ Khoa-đẩu. Nàng lờ đi như không chú ý tới. Nàng biết Đinh Tòan cũng học chữ Khoa-đẩu như nàng. Có lẽ Tòan không muốn bọn Tống ăn cắp học thuật Lĩnh-nam, y chối cho qua.
Triệu Anh hỏi Quách Quỳ:
- Đồ đệ, người có đọc được chữ này không?
Quách Quỳ liếc qua, y đã biết rất tường tận các tấm bia đều chép bằng văn tự Khoa-đẩu. Tính láu cá nổi dậy, y nghĩ:
- Sư phụ có dạy ta cả đời, thì bất quá võ công cũng bằng người mà thôi. Võ công của Thiếu-lâm muôn ngàn lần không thể so với võ công trong bộ Lĩnh-nam vũ kinh. Chi bằng mình làm bộ không biết, rồi âm thầm chép lấy, đem về luyện tập. Chỉ mấy năm, bản lĩnh mình thành vô địch, bấy giờ sư phụ có khám phá ra, cũng chẳng làm gì nổi mình.
Quỳ làm bộ nhăn mặt, coi đi, coi lại rồi nói:
- Cứ trăm chữ, đệ tử mới đọc được một chữ, thành ra không hiểu gì cả. Mong sư phụ tha tội.
Soi sang tấm thứ nhì, có khắc hình một đứa trẻ cỡi ngựa, tay cầm gậy, con ngựa phun ra những tia lửa dài. Dưới cũng khắc chữ cổ. Tấm thứ ba vẽ một cái xe, bắn ra nhiều mũi tên. Tấm thứ tư vẽ hình con trâu mập. Trên lưng trâu, một người cỡi trong tư thế đánh xuống đầu trâu. Tấm thứ năm vẽ một con sông, cạnh năm ngọn núi. Tấm thứ sáu, vẽ hình tám con vật: khỉ, ong, rắn, voi, chó, ưng, beo, cọp.
Triệu Huy muốn ngộp thở. Y soi tới tấm thứ bẩy có hình con rồng bay lượn. Tấm thứ tám vẽ hình con phượng. Y rút kiếm trao cho Triệu Anh:
- Đại ca hãy cầm thanh kiếm này, đề phòng. Nếu ba cô nương đây có dở chứng thì giết không tha.
Y cầm đuốc cùng Đinh Toàn đi vào đường hầm thứ nhất, cạnh tấm bia vẽ hình đứa trẻ chăn trâu. Đường hầm hẹp khoảng một người đi lọt. Hai bên có nhiều tấm bia. Trên bia khắc chi chít những chữ quái dị cùng đồ hình võ công. Tất cả có ba mươi sáu đồ hình khác nhau. Y quay lại các tấm bia phía sau cũng có ba mươi sáu đồ hình nữa. Y suy nghĩ:
—Đây là võ công gì mà có tới 72 chiêu.
Y hỏi Đinh Toàn:
- Vương gia. Vương gia có biết trong các kho võ công Lĩnh-nam, pho nào có 72 chiêu không?
- Có, đó là kiếm pháp Long-biên. Trong 72 chiêu biến hóa thành âm, dương, hóa ra 144 chiêu... rồi biến thành tới mấy trăm ngàn chiêu theo Bát-quái.
Triệu Huy lẳc đầu:
- Lạ một điều, nếu là kiếm pháp, thì sao đây lại khắc hình chưởng pháp?
Quách Quỳ theo sát chân sư thúc. Nó đọc qua biết trên bia chép Phục-ngưu thần chưởng. Phía trước chép ba mươi sáu chiêu dương. Phía sau chép ba mươi sáu chiêu âm.
Y lui trở ra, theo phía sau tấm bia khắc hình con rồng, thì thấy vẽ những chiêu thức kiếm thuật. Y chán nản lui trở lại, thuật cho Triệu Anh, Ngô Tích nghe. Tuy Anh bị trúng độc, song nhờ công lực mạnh, đầu óc cũng không đến nỗi mê man.
Hai người nhìn Đinh Toàn. Toàn cũng đang vò đầu, vò óc nghĩ không ra.
Đinh Toàn chợt chỉ vào một cái bia nhỏ, ngay cửa đường hầm đi xuống:
- Bia chữ Hán.
Huy, Tích cùng Đinh chạy lại. Một tấm bia nhỏ trên khắc chữ Hán, nét khắc rất thanh tao. Y lấy vạt áo lau bụi, đọc:
Ta vốn sinh, lớn lên trong ở Thục, trong gia đinh võ lâm. Thân phụ ta cùng sáu đồng môn kết thành Thiên-sơn thất hùng. Nhân thời thế lọan lạc, bẩy người rút gươm khởi nghĩa cưú dân, mưu lập nước Nghiêu-Thuấn. Nào ngờ trời không chiều người, sự nghiệp chỉ được vài chục năm rồi tan vỡ.
Quách Quỳ học sử Lĩnh-nam rất kỹ, y nói:
- Sư thúc, đúng rồi. Người khắc bia này họ Vương tên Sa-Giang, gốc đất Thục. Bà ta nổi tiếng hoa khôi thời Đông-Hán. Cha của bà tên Vương Nguyên,làm thừa tướng cho Ngỗi-Hiêu. Khi Thục bị Hán diệt, y còn kháng chiến mấy năm mới bị diệt.
Triệu-Huy đọc tiếp:
Nhân Thục liên kết với Lĩnh-nam, ta găp đấng quân tử Đào Nhị-Gia,kết thành phu phụ. Từ lúc gặp nhau, chúng ta như đôi chim liền cánh. Chàng sủng ái ta cùng cực, tình nghiã như nước, tưởng không bao giờ hết. Ta theo chàng chinh chiến, khi thì Trường-an, khi thì Động-đình, khi thì Nam-hải.
Niên hiệu vua Trưng thứ ba, vua Bà cùng triều đình bị Lê Đạo-Sinh phục binh, dùng muôn nghìn mũi tên sát hại. Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi là tể tướng Lĩnh-nam, muốn đánh một trận cho thỏa lòng rồi chết. Ngặt vì còn con nhỏ, ra đi không đành. Vương là sư huynh của Nhị-Gia. Vương ủy thác hai con là Tử-Khâm cùng Tường-Qui cho trượng phu với ta. Chúng ta vì thế không được tuẫn quốc với người.
Quách Quỳ giảng:
- Đào Nhị-Gia hồi còn bé có tên Sún-Rỗ, học trò Đào Thế-Kiệt. Nhị gia là một đại tướng khét tiếng với đội Thần-ưng.
Triệu Huy mừng quá, muốn đứng tim:
Ngày mười lăm tháng tám. Vương phi hộ tống vợ chồng chúng ta ra khỏi vòng vây Long-biên, dặn ta đem hai con vào Cửu-chân, chịu nhục, ẩn thân nuôi dạy dùm người. Vương còn trao bộ « Lĩnh-Nam vũ kinh » cùng bộ « Dụng binh yếu chỉ » cho trượng phu ta, vì sợ học thuật Lĩnh-nam mai một.
Nay Tử-Khâm, Tường-Qui đều thành người, văn tài lỗi lạc, võ công vô địch. Trong khi đó, tuổi chúng ta đã trên năm mươi. Ta bàn với trượng phu cần khắc tất cả bộ Lĩnh-nam võ-kinh với bộ Dụng-binh yếu-chỉ, rồi chôn một chỗ. Để khỏi làm mất đi biết bao tâm huyết của tiền nhân. Nhân tìm được bãi đất này, chúng ta khắc để lại. Ta tự biết, chôn đâu rồi cũng có thể bị đào lên. Chúng ta mới nghĩ được một kế: các tham quan Hán sang Lĩnh-nam cai trị. Muốn yên thân, họ luôn tự xưng sang giáo hóa man dân. Họ bắt thờ Nhâm Diên, Tích Quang, để dân chúng dễ qui phục họ. Vì vậy nơi thờ Nhâm, Tích không bao giờ người Hán dám động đến. Nhân đó chúng ta bỏ tiền xây đền thờ trên động đá này là ý nghĩa đó.
Đương thời ta được tôn làm « Cầm tiên, tiêu thần ». Sợ rằng sau khi chết đi, nghệ thuật không còn, ta cũng khắc bia để lại. Kẻ hậu thế có duyên thì tìm được mà học, dưới suối vàng, ta cũng đỡ ân hận.
Khắc ngày lành, tháng Giêng niên hiệu Lĩnh-nam thứ ba mươi.
Vương Sa-Giang.
Triệu Huy nói với Đinh Toàn:
- Vương gia, quả thực kho tàng học thuật Lĩnh-nam đây rồi. Nhưng tất cả lại chép bằng chữ Lĩnh-nam, đến vương gia cũng không biết, thì ai đọc được bây giờ?
Thình lình Ngô Tích à lên một tiếng:
- Ta hiểu rồi.
Triệu Huy hỏi:
- Hiểu cái gì?
- Hiểu nội dung mấy tấm bia này. Thời Lĩnh-nam, có bẩy phái võ và nhóm Tây-vu là tám. Đây là tám cái bia chép lại di thư tám phái. Bia khắc đứa trẻ cỡi ngựa kia chắc là chép võ công phái Sài-Sơn. Vì tổ sư phái này là Phù-Đổng thiên-vương. Bia khắc xe chở máy bắn tên kia chắc là chép võ công phái Hoa-Lư. Còn mấy bia kia, sư đệ thử đoán xem thuộc phái nào.
Quách Quỳ biết nếu mình chối tuột không biết chữ Khoa-đẩu, e sư phụ nghi ngờ. Y làm bộ đọc được vài chữ:
- Sư phụ. Tấm bia khắc cái búa, chép võ công phái Cửu-chân.
Y làm bộ nghẹo đầu, nghẹo cổ một lúc rồi nói:
- Bia có hình đứa trẻ cỡi trâu chép võ công phái Tản-viên.
Triệu Huy đoán già:
- Tấm bia khắc hình con rồng chắc là chép võ công phái Long-biên. Còn bia khắc hình tám con vật kia, tượng trưng cho tám đội binh thú rừng thời Lĩnh-nam của Tây-vu, hẳn là chép võ công Tây-vu.
Ngô Tích chỉ vào hai tấm bia còn lại:
- Tấm bia khắc con phụng, chắc ghi võ công phái Quế-lâm. Tấm còn lại khắc hình năm ngọn núi hẳn là chép võ công phái Khúc-giang.
Hơn ngàn năm trước, khi vua Trưng ra lệnh chép học thuật Lĩnh-nam để lại, thì Khúc-giang ngũ hùng đã qua đời, vì vậy học thuật phái Khúc-giang thất truyền. Tấm bia khắc năm ngọn núi chính là nơi chép bộ Lĩnh-nam dụng binh yếu chỉ. Còn bia khắc con phụng, chép võ công phái Thiên-sơn, cùng nghệ thuật đàn, tiêu của Sa-Giang. Ngô Tích tuy thông minh, mà đóan cũng không ra.
Lúc ở trên sân đền, Bảo-Hòa viết mấy chữ Khoa-đẩu, bị Quách Quỳ khám phá ra. Từ khi xuống hầm thấy những tấm bia khắc chữ Khoa-đẩu, Quách Quỳ giả bộ không hiểu hết... nàng biết trước sau gì bọn Triệu Huy cũng bắt nàng dịch sang Hán-văn cho chúng. Vì vậy nàng giả bộ trúng độc, nằm thiêm thiếp ngủ. Tuy nhiên vẫn lắng tai nghe ngóng động tĩnh. Quả nhiên Triệu Huy trở lại chỗ ba chị em nàng ngồi, gọi:
- Này quận chúa Bảo-Hòa. Chữ Khoa-đẩu là chữ cổ xưa của Lĩnh-nam. Cô nương biết viết, tất biết đọc. Phiền cô nương dịch sang Hán-văn dùm tại hạ. Tại hạ cam đoan sẽ đem cô nương trở về Lạng-châu an toàn.
Thanh-Mai đỡ lời Bảo-Hòa:
- Quận chúa bị các vị phun phấn độc, hiện đang mê man. Xin các vị chữa cho quận chúa trước, rồi hãy bàn đến dịch võ kinh. Tôi nói cho các vị biết, chữ Khoa-đẩu hiện chỉ còn hai người đủ khả năng đọc được. Một là sư phụ của Bảo-Hòa. Hai là Bảo-Hòa. Sư phụ Bảo-Hòa dường như qui tiên rồi thì phải. Các vị mau chữa cho Bảo-Hòa ngay mới kịp.