Hồi 28b
Bà móc trong túi ra một tập sách trao cho Đào Kỳ:
- Tự cổ Trung-quốc có Khương Thái-công sọan bộ sách triết lý quân chính mang tên Lục-thao. Lục-thao dạy luyện quân, chiến lược, chính lược. Bên Lĩnh-Nam Pương-chính hầu sọan Việt tộc binh pháp. Đó đều là những bộ sách qúi. Sau này Tôn Vũ, rồi Ngô Khởi soạn binh thư, người sau hợp lại thành Tôn Ngô binh pháp. Tôn Ngô không thích hợp với địa lý đất Việt. Mấy năm qua, chị cố gắng tham chước người xưa, hợp với những kinh nghiệm của chúng mình soạn thành bộ Dụng binh yếu chỉ. Em hãy giữ lấy, luyện cho các tướng, đừng để mai một đi.
Đào Kỳ kính cẩn tiếp lấy sách.
Đến đây bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Đào Kỳ, Phương-Dung truyền làm cáng đưa Thánh-Thiên về. Tới Giao-chỉ, Thánh-Thiên mệt quá. Bà cố ngồi dậy, nói với Đào Kỳ:
- Cách đây hơn mười năm, em còn là chú bé Âu-Lạc đánh nhau với võ sĩ Tô Định. Ta chỉ là cô bé nhà quê. Bây giờ em làm đại tư mã. Ta làm đại tướng quân. Khi chiếm lại Lĩnh-Nam, ta biết rằng không ổn. Vì ba vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận thuộc Hán đã trên hai trăm năm. Chín người Hán không có một người Việt. Người Hán dù ở đâu họ cũng tự cho là con trời. Họ nói tiếng Hán, mặc quần áo Hán, hướng về đất Trung-nguyên. Cho nên mấy năm qua, Lĩnh-Nam đối xử với họ tử tế đến đâu, họ cũng vẫn không quên cố quốc. Vì vậy chúng ta phải rút khỏi. Bây giờ, ta bị thương, mệt mỏi quá rồi. Chắc đành bỏ cuộc giữa đường. Hai em hãy nghĩ tình chị Trưng Trắc đối xử như chị em ruột. Cố gắng giữ đất Âu-Lạc, phù Trưng.
Bà mửa ra một búng máu, ngửa mặt lên trời than:
- Trời hỡi trời! Không ngờ Thánh-Thiên lại chết ở đây! Trong khi nợ nước còn nặng chĩu đôi vai. Trời xanh bất công. Chúa tôi là Trưng Trắc đem nhân nghĩa trị dân. Chúa Hán đem gươm đao bắt thiên hạ qui phục. Thế mà chúng tôi...
Bà nhắm mắt lại thiêm thiếp một lúc, rồi lại mửa ra một búng máu. Bà mệt quá không nói được nữa, đưa tay nắm Đào Kỳ, Phương-Dung, rồi nghẹo đầu sang một bên qua đời.
Trời tự nhiên tối sầm lại, sấm sét nổ vang dội. Mưa trút nước xuống như thác. Đào Kỳ, Phương-Dung nhìn xác Thánh-Thiên, nước mắt trào ra. Hai người cho tắm rửa, khâm liệm đem về Giao-chỉ.
Hai hôm sau tới Long-biên. Trưng-đế cùng triều thần để tang. Từ ngày Đặng Thi-Sách tử trận đến giờ. Đây là lần đầu tiên Lĩnh-Nam mất một đại tướng ở cấp cao nhất.
Ghi chú của thuật giả.
Thánh-Thiên võ công không cao. Sử tả dáng người bà ẻo lả, tính tình điềm đạm như một khuê nữ. Bà đọc sách rất nhiều. Huyền sử nói bà có trước tác bộ binh thư tên là:
Dụng binh yếu chỉ.
Gồm ba mươi sáu thiên. Trong đó dạy cách dùng binh. Sách đó thất truyền. Bà vừa có tài quân sư, tài dùng binh. Nếu Phương-Dung đánh trận Trường-an dài trăm dặm. Phật-Nguyệt đánh trận hồ Động-đình bảy mươi dặm. Phùng Vĩnh-Hoa đánh trận Tượng-quận ba trăm dặm. Bà đánh trận Nam-hải trên một diện tích lớn chưa từng có. Kéo dài từ Phúc-kiến, qua đảo Hải-nam, đến vịnh Bắc-Việt, lan tới Thanh-hóa 0. Ấy là chưa kể trên năm trăm dặm công chúa Trần Quốc đánh lên Trung-nguyên. Tính chung, mặt trận dài tới hai ngàn năm trăm cây số. Có lẽ Nam-hải là mặt trận rộng nhất trong lịch sử Việt-Nam. Bà đánh bại mười hai đại tướng danh tiếng Trung-nguyên:
- Phục-ba đại tướng quân, Tân-tức hầu Mã Viện.
- Phiêu-kị đại tướng quân, Phù-lạc hầu Lưu Long.
- Lâu-thuyền tướng quân, Nam-an hầu Đoàn Chí (bị giết)
- Chinh-tây đại tướng quân Chu Long.
- Chinh-nam đại tướng quân Trịnh Sư.
- Uy-viễn đại tướng quân Ngô Anh.
- Trấn-uy đại tướng quân Vương Hùng.
- Long-nhương đại tướng quân Sầm Anh.
- Chinh-di đại tướng quân Phùng Đức.
- Hổ-nha đại tướng quân Mã Anh.
- Trấn-viễn đại tướng quân Mã Huống.
- Bình-man đại tướng quân Mã Dư.
Kể cả trận đánh trong khi bà triệt thoái khỏi Nam-hải, trước sau bà đã loại khỏi vòng chiến bốn mươi lăm vạn quân Hán.
Trước năm 1945, tại Bắc-Việt có năm, sáu đền thờ bà. Nay chỉ còn tại xã Ngọc-lâm, huyện Linh-giang, tỉnh Hà-bắc. Chúng tôi ghi chép ở đây đôi câu đối tại đền thờ bà, tạm dịch sang Việt-ngữ :
Thực hào kiệt, thực anh hùng. Những khi giúp đỡ vua Trưng, mặt nước sông Thương, gươm báu trăng lồng còn lấp lánh.
Còn bâng khuâng, còn phảng phất. Sau lúc đuổi tan giặc Hán, cành hoa bến Ngọc, vòng tay thơm nức vẫn còn đây.
Đông-Kinh. Tôi được nghe kể truyện về bà Thánh-Thiên vào năm mười hai tuổi. Không hiểu sao, nghe kể xong, tôi ôm mặt khóc. Lần thứ nhì, đọc cuốn phổ tại đền thờ bà do Trương Phụ mang cất ở Kim-lăng, người Nhật lấy về. Tôi lại khóc nữa. Từ đấy mỗi khi kể truyện bà cho các bạn, cho con, cho học trò nghe. Tôi lại đọc câu đối trên. Thính giả cũng đều khóc.
Bà Phùng Thị-Chính tử trận năm hai mươi bảy tuổi, vua Trưng sắc phong:
Tuyên từ, chí đức, minh mẫn công chúa.
Hiện nay đền thờ của bà vẫn còn tại thôn Phù-Nghĩa, xã Phù-đổng, huyện Ba-vì, tỉnh Hà-tây.
Sau đám tang Thánh-Thiên, Trưng-đế cùng Đào Kỳ chỉnh bị lại quân mã. Đạo Nhật-nam do Hùng Bảo, Trần Năng thống lĩnh. Đạo Giao-chỉ do Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh thống lĩnh. Đạo Cửu-chân do Đô Thiên, Chu Bá thống lĩnh. Đạo Nam-hải, Quế-lâm nhập làm một do Minh-Giang, Trần-gia tam nương thống lĩnh. Đạo Phù-đổng do Đào Hiển-Hiệu, Đào-Quí-Minh thống lĩnh. Cao Cảnh-Sơn chỉ huy đạo binh Thần-nỏ.
Quang-Vũ vẫn duy trì ba đạo binh đánh Lĩnh-Nam. Đạo thứ nhất do Vương Bá chỉ huy đánh từ Tượng-quận xuống. Đạo thứ nhì do Mã Viện đánh từ Quế-lâm xuống. Đạo thứ ba do Lưu Long đánh vào bờ biển.
Một hôm có quân vào báo:
- Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa với các tướng xin vào yết kiến.
Đào Kỳ vội cùng Phương-Dung ra đón. Trước mặt ông, Phùng Vĩnh-Hoa, Trần Quốc, Chu Tái-Kênh, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Vương Sa-Giang, Đào Nhị-Gia (Sún Rỗ). Người nào trông cũng bơ phờ mệt mỏi. Đào Kỳ hỏi:
- Sư đệ Phúc, Lộc đâu rồi? Ngũ Kiếm ra sao?
Phùng Vĩnh-Hoa kể:
- Đoàn anh hùng lên giúp Ngũ-kiếm đánh chiếm được một số thành. Sau đích thân Ngô Hán đem quân đánh. Quân của Ngũ-kiếm chỉ có mười vạn người hầu hết là quân Hán đầu hàng. Vì vậy đánh trận nào cũng thất bại. Sau khi Quang-Vũ lấy được Trường-sa, y cho Chu Hựu mang quân lên tiếp với Ngô Hán. Trận đánh cuối cùng ở Liêu-đông diễn ra. Ngũ-kiếm đều tử trận. Vương Phúc, Vương Thọ bị trúng tên chết. Đám anh hùng Lĩnh-Nam mở đường máu, cướp chiến thuyền vượt biển về đây.
Nghe tin Vương Phúc chết. Đào Kỳ cảm thấy như bị con dao đâm trúng tim. Ông sai lập dàn, làm lễ tế vọng người em kết nghĩa. Ông truyền đô đốc Trần Quốc lên trấn thủ vùng Lãng-bạc. Chu Tái-Kênh về trấn thủ Thiên-trường. Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa ở lại Long-biên với ông. Còn Phùng Vĩnh-Hoa thì lên Mê-linh giúp vua Trưng, vì Phương-Dung phải trấn thủ Long-biên với ông.
Từ khi lập quốc. Quốc Tổ đặt ra lệ, cứ vào giữa tháng mười, từ sau vụ gặt, đại thần, Lạc-hầu, Lạc-tướng tụ về kinh đô chúc mừng vua. Từ khi tái lập Lĩnh-Nam, tể tướng Nguyễn Phương-Dung lại cho thực hành phong tục cũ.
Bây giờ vào giữa tháng mười năm Nhâm-Dần, tức 42 sau Tây-Lịch. Để chuẩn bị lễ chúc mừng Trưng đế. Tể tướng Phương-Dung đạt thư mời tất cả các Lạc-vương, Lạc-hầu, các đại tướng quân cùng về Mê-linh. Sau lễ chúc mừng hoàng-đế, sẽ có cuộc hội nghị, bàn về kế hoạch phòng thủ Lĩnh-Nam.
Các Lạc-hầu, Lạc-tướng ở xa, lên đường tới trước. Còn các vị ở gần, sáng sớm mới lên đường. Từ Long-biên tới Mê-linh không xa, khoảng hai giờ sức ngựa. Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung lên đường thực sớm, để tới nơi đúng giờ thìn, là giờ cử hành lễ.
Sau khi lễ Quốc-tổ, các anh hùng chúc mừng hoàng đế Lĩnh-Nam. Vua Trưng ban chỉ dụ:
- Trẫm muốn nhân dịp này. Chúng ta duyệt xét lại kế hoạch làm thế nào khiến cho Hán để yên cho chúng ta kiến thiết đất nước. Vậy các anh hùng có ý kiến gì xin đưa ra, cùng bàn luận.
Đô Dương đứng lên nói:
- Hiện Lĩnh-Nam phải đối đầu với Mã Viện, từ Quế-lâm đánh xuống với ba mươi vạn binh. Vương Bá từ Tượng-quận đánh xuống với hai mươi vạn binh. Lưu Long từ biển đánh vào với hai mươi vạn binh. Ấy là chưa kể đạo binh phản loạn của Lê Đạo-Sinh. Hiện Lê đã cho đám đệ tử lén lút trở về liên lạc với các Lạc-hầu, Lạc-tướng thuộc quyền của y cũ. Hẹn rằng khi quân Hán kéo sang, thì nổi dậy. Chúng ta cần giữ vững thành trì, tuyệt đối không xuất trận. Như vậy một, hai năm quân Hán mệt mỏi. Chúng ta đánh một trận, thế giặc tan. Bấy giờ mới hy vọng Quang-Vũ bỏ ý định đánh Lĩnh-Nam.
Chu Tái-Kênh nói:
- Tôi nghĩ mình nên kéo sang Trung-nguyên, ám sát Quang-Vũ. Quang-Vũ chết, ấu quân lên thay, triều đình rối loạn, tất các tướng ngoài mặt trận không còn ai quyết tâm.
Phùng Vĩnh-Hoa lắc đầu:
- Phàm ông vua Trung-quốc nào cũng nghĩ đến đem quân chinh tiễu thiên hạ. Chúng ta giết Quang-Vũ này, ắt có Quang-Vũ khác. Chúng ta giết Quang-Vũ triều thần dễ dàng mượn cớ đem quân sang đánh chúng ta. Vì vậy chúng ta chỉ cần sao cho nước giầu, binh hùng, mới mong chống được giặc.
Đến đó có tin báo:
- Mã Viện đem quân men theo đường biển, hợp với Lưu Long dẫn thủy quân từ đảo Nam-Hhải tiến vào. Công chúa Gia-hưng Trần Quốc chỉ có năm vạn quân, phải lùi về giữ Lãng-bạc.
Trưng Vương hỏi Vũ Trinh-Thục:
- Đạo quân Lưu Long, Mã Viện bao nhiêu người?
- Lưu đem mười lăm vạn thủy binh. Mã đem hai mươi vạn bộ, mười vạn kị.
Đào Kỳ lắc đầu:
- Trần Quốc chỉ có năm vạn binh, địch sao nổi với bốn mươi lăm vạn ? Đất Giao-chỉ sở dĩ yên được, vì địa thế núi non hiểm trở ở biên giới phía Bắc. Nay Mã Viện, Lưu Long đem quân chiếm Lãng-bạc. Y định hợp với quân Vương Bá từ Tượng-quận đánh xuống, cắt đôi Giao-chỉ. Chúng đánh lối tằm ăn dâu. Như vậy dù muốn dù không, chúng ta phải đánh tan hai cánh quân này.
Trưng Đế hỏi Phương-Dung:
- Sư muội định thế nào?
Phương-Dung nói với Đô Dương, Lại Thế-Cường:
- Một giải Cửu-chân, Nhật-nam cũng rất quan trọng. Xin hai vị vương gia khẩn về trấn giữ yên mặt Nam. Nếu chúng đổ quân vào vùng biển Thiên-trường, đánh phía sau Long-biên, Mê-linh. Xin các vị đem quân từ trong đánh ra. Như vậy chúng tôi yên tâm phía Nam.
Bà gọi Tử-Vân:
- Em khẩn trở về giữ vững bờ biển vùng Giao-chỉ. Không cho giặc theo các nhánh sông đánh vào phía sau Long-biên, Mê-linh.
Bà gọi Minh-Giang, Trần-Gia Tam Nương:
- Các vị đem bản bộ quân mã giữ vững mặt Bắc Giao-chỉ, tiếp với Tượng-quận, ngăn Vương Bá đánh xuống.
Bà nói với Trưng Vương:
- Mã Viện đem quân tới Lãng-bạc, định đánh về Mê-linh. Lưu Long định đánh dọc bờ biển tiến về Long-Biên. Chúng ta cần chia binh làm hai, đánh tan hai đạo binh này. Vậy sư tỷ xử dụng đạo binh Nhật-nam, đạo Cổ-loa nghinh chiến với Mã Viện ở Lãng-bạc, đánh bật chúng ra biển, đuổi về Nam-hải. Còn em xử dụng đạo Giao-chỉ, Phù-đổng tiêu diệt Lưu Long.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
- Đối với đạo binh Vương Bá, chúng ta không sợ. Vì y không có nhiệm vụ đánh Lĩnh-Nam. Bây giờ ta điểm lại các võ tướng, hầu phân chia lực lượng.
Vua Trưng chỉ dụ:
- Đạo quân của Mã có Phùng Đức, Sầm Anh, Liêu-đông Tứ Ma. Cánh quân Lưu Long có Mã Huống, Mã Anh, Mã Dư, Thượng-dung lục hữu.
Ngài thở dài:
- Chúng ta có Đào Kỳ, Phương-Dung, Trần Năng, Chu thái sư thúc, Hoàng sư tỷ. Vậy phải phân phối như thế nào?
Đào Kỳ nói:
- Hiện có hai cao thủ mới, dư sức đánh ngang tay với Liêu-đông tứ ma sư tỷ quên rồi sao?
- Ai?
- Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa.
Phương-Dung gật đầu:
- Còn các sư đệ, sư muội Đào Phương-Dung, Hiển-Hiệu, Quí-Minh. Các sư tỷ Lê Ngọc-Trinh, Trần-gia tam-nương thừa sức thắng bọn Mã Viện, Lưu Long, Thượng-dung lục hữu. Vậy thế này, Chu lão sư bá cùng sư bá Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, thêm Trần Năng, Hùng Bảo đánh Lãng-bạc. Anh Kỳ với tôi thêm sư tỷ Thiều-Hoa, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đánh trận Long-biên.
Ngày hôm đó, chúa tôi vừa ăn, vừa bàn kế hoạch đối phó với quân Hán.
Phùng Vĩnh-Hoa hiến kế:
- Quang-Vũ mang quân nghiêng nước định diệt Lĩnh-Nam. Chúng ta trở về với bài học của Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung thời Âu-Lạc, diệt năm mươi vạn quân Tần. Không biết Đào hiền đệ nghĩ sao?
Đào Kỳ đáp:
- Thời Âu-Lạc, dân mình sống thưa thớt, rải rác. Đường xá vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải chưa có. Đồ Thư đi đến đâu cũng chỉ thấy đất hoang, thú dữ, lam sơn, chướng khí. Trung-tín hầu viết hịch truyền đến dân chúng. Dân chúng bỏ trốn vào rừng, bầu người tuấn kiệt làm người thủ lĩnh. Đêm đêm ra đánh quân Tần. Kịp đến khi quân Tần bị lam sơn, chướng khí bệnh tật, ngài mới đổ quân ra đánh một trận, giết được Đồ Thư. Bây giờ hoàn cảnh chúng ta hơi khác một chút. Dân ta đông gấp mười, sống trong trang ấp. Mỗi trang, mỗi ấp là một cái đồn. Chúng ta có thể ẩn vào dân, đêm đổ ra đánh giặc. Song giặc Hán không cần dân. Đi đến đâu chúng đánh thí mạng. Nghìn mạng đổi lấy một. Cứ như trận Hành-sơn thì rõ. Chúng sẵn sàng biến Lĩnh-Nam thành bãi đất hoang.
Trưng đế ban chỉ dụ:
- Vậy bây giờ Vĩnh-Hoa soạn cho ta bài hịch đánh Hán, truyền tới các trang ấp. Chúng ta thà ngọc nát chứ không chịu có vết. Quang-Vũ muốn diệt Lĩnh-Nam, y cũng phải tốn hàng mấy núi xương sông máu. Ta quyết định, một là giòng giống Việt bị tuyệt diệt, hoặc tồn tại mà không bị Hán cai trị.
Phùng Vĩnh-Hoa cầm bút viết hịch trình lên Trưng đế. Ngài đọc xong, trao cho Phương-Dung:
- Em sao thành nhiều bản, gửi tới các trang ấp.
Phương-Dung cầm lấy đọc lớn:
Từ cổ, đế vương cai trị Thiên-hạ, dùng đức cảm hóa kẻ ác. Dùng hình pháp chẳng qua bất đắc dĩ. Lĩnh-Nam ta từ Quốc-tổ Kinh-dương vương dựng nước, lấy Ngũ-lĩnh làm cương giới Trung-nguyên. Lời thề nam, bắc giữ cương vực hãy còn đó. Suốt hơn hai ngàn năm, bắc, nam sống như anh em, dân chúng hai miền hòa thuận. Khi bạo Tần, dùng cường lực, diệt nước, thu quyền Trung-nguyên vào một mối, đốt sách, chôn học trò. Tưởng dùng bạo lực, bắt mèo sợ chuột, chỉ trâu bảo ngựa, hùng hổ sai Đồ Thư mang năm mươi vạn quân chiếm Âu-Lạc. Trung-tín hầu, đánh một trận bêu đầu Đồ Thư. Rừng Đông-Triều đến nay xương trắng, khí độc, hồn ma u uất chưa tan.
Cuối đời Âu-Lạc, một tên quan bạo Tần là Triệu Đà cát cứ ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, định lập một nước, dùng kế gian manh, đánh nước Âu-Lạc ta, rồi sau con cháu cũng bị tuyệt diệt bởi triều Hán.
Suốt hai trăm năm, người Việt chúng ta bị bọn tham quan triều Hán cai trị, coi như trâu, như chó, muốn sống không được, muốn chết cũng không xong. Chúng bắt người lên rừng tìm gỗ quí, xuống biển mò ngọc trai. Tiếng oán than thấu đến trời. Dân đói mặc dân đói, thiên tai bão lụt mặc thiên tai, chúng chỉ vơ cho đầy túi tham.
Bọn quan lại tham ô Hán đã thế, bọn chó săn, chim mồi người Việt, càng ác độc hơn. Nào phải chúng không có kiến thức, không có võ công? Chúng tự biết luồn cúi người Hán, chà đạp người Việt, để tiếng xấu muôn đời cho thân mình, cho tổ tiên, cho sư môn. Thế mà chúng vẫn làm, vẫn nhẫn tâm hại đồng chúng.
Ta cùng các anh hùng, một thước gươm nổi dậy, chiếm lại lãnh thổ Âu-Lạc. Thừa thắng đòi phần đất Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, mất đã từ lâu. Khắp Lĩnh-Nam, không nhà nào, không người nào mà không vui mừng. Ta đã ban pháp lệnh, đối xử với người Hán như người Việt. Hán, Việt cùng nhau góp công xây dựng Lĩnh-Nam phú cường.
Trong ba năm qua, mùa trúng liên tiếp. Ruộng, đất hoang khai khẩn tăng diện tích canh nông lên gấp ba, gấp bốn. Sưu thuế nhẹ, binh dịch không phiền nhiễu. Học hành được mở mang. Bốn phương, dân chúng ấm no, lúa gạo, trâu bò, gà vịt dư thừa. Dù thời Văn-Lang, Âu-Lạc cũng không hơn.
Trong khi đó bên Trung-nguyên, dân chúng đói khổ, giặc dã khắp nơi. Người Trung-nguyên hướng mắt nhìn về Lĩnh-Nam, những muốn nổi dậy. Vua Quang-Vũ nhà Hán cùng bọn tham quan lo sợ cuống cuống. Chúng xua ba mươi vạn binh xuống Trường-sa. Công chúa Phật-Nguyệt chỉ đánh một trận, Mã Viện bị thương, phải van lạy mới được tha chết. Lưu Long lặn xuống sông, bơi qua Trường-giang, mà hồn phách còn kinh hoàng. Xác quân Hán nghẹt hồ Động-đình, thây phơi khắp phía nam Trường-giang. Đến nay dân Hán còn sợ hãi, dọa trẻ con "Nín đi, nín đi, nữ vương Phật-Nguyệt đến kìa".
Đại tư mã Ngô Hán, cùng các đại tướng Vương Bá, Lưu Thương, Cáp Diên, đem hai mươi vạn quân, xâm lấn Tượng-quận. Công chúa Nguyệt-Đức chỉ đánh một trận, diệt sạch. Ngô Hán chạy đến Cửu-long, lương không còn, gạo hết, phải năn nỉ, mới được tha cho sống.
Hay đâu! Bọn chó săn, chim mồi Lê Đạo-Sinh đem chiếu chỉ của Quang-Vũ đe dọa, dụ đám Lạc hầu người Hán, nổi dậy, "Bình man qui Hán". Vì vậy Tượng-quận mất. Tượng-quận mất, song các tướng Lĩnh-Nam đều tuẫn quốc, không một ai hàng giặc. Khí tiết anh linh của Tượng-quận tam anh, của Đào-thị tam hùng cùng nhiều tướng khác, cho đến nay còn phảng phất trên bến Bồ-lăng.
Tưởng đâu được Tượng-quận, Hán muốn nuốt Lĩnh-Nam, bóp chết như bóp con chim non. Lưu Long, Đoàn Chí, Mã Viện đem bốn mươi vạn hùng binh tràn xuống Nam-hải. Công chúa Thánh-Thiên chỉ đánh một trận. Mã Viện phải qùi dưới gối công chúa Lê Chân để được thoát thân. Lưu Long kinh hồn vỡ mật. Đoàn Chí bị chém đầu trên biển đông. Công chúa Gia-Hưng thừa thắng đánh thẳng về Lạc-Dương, những muốn diệt triều Hán. Ta vì lòng nhân, không muốn chiếm đất người, truyền gọi công chúa Gia-Hưng trở về. Trước sau hơn năm mươi vạn quân Hán bị phơi thây.
Quang-Vũ cùng triều thần Hán càng lo sợ, lấy cớ hai thái hậu Hàn, Mã chết vì Lĩnh-Nam, cho khởi binh nghiêng nước, tiêu diệt giống Việt. Chúng không dấu điều tàn bạo, truyền lệnh cho binh sĩ, đánh đến đâu, cho cướp của, giết người, hãm hiếp. Vì vậy các Lạc-hầu người Hán kinh sợ, xin với ta cho được về Hán. Ta truyền rút bỏ Quế-lâm, Nam-hải.
Nay Quang-Vũ sai Vương Bá đem ba mươi vạn quân, từ Tượng-quận đánh xuống. Mã Viện đem bốn mươi vạn quân, từ Quế-lâm từ ven bờ biển đánh vào. Lưu Long đem hai mươi vạn thủy quân đổ bộ. Kể cả dân phu mấy chục vạn. Quân tướng Hán trên trăm vạn. Trong khi Lĩnh-Nam ta chỉ có mười vạn dũng sĩ. Noi gương Trung-tín hầu thời Âu-Lạc, chỉ có bốn vạn quân, đánh tan năm mươi vạn quân Tần. Chém Đồ Thư ở Đông-Triều. Ta truyền hịch này đến các tướng sĩ, Lạc-hầu, Lạc-tướng. Mọi người, mọi trang, mọi ấp, tùy nghi. Gặp giặc đi lẻ tẻ, xông ra chém giết. Giặc tập trung, ta rút vào rừng, đêm đổ ra đốt lương. Đánh trước, đánh sau, đánh đêm, đánh ngày. Tướng đánh, quân đánh, dân đánh. Cha đánh, con đánh. Đàn ông đánh, đàn bà đánh. Thiếu nhi cũng đánh. Triệu người cùng quyết tâm. Chúng ta thà chết hết, chứ không để đất tổ cho ngoại tộc cai trị.
Vua Trưng truyền thư lại chép thành nhiều bản, gửi đi khắp nơi.
Không hiểu sao, dường như linh tính báo trước điều gì. Phương-Dung chau mày nghĩ ngợi. Bà nói:
- Hay thế này. Trận Lãng-bạc để sư tỷ Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa đánh với Mã Viện. Chị lên Long-biên với chúng em. Tự nhiên mấy hôm nay em thấy tâm thần hoảng hốt, mắt máy, thịt co giật. Chị ra Lãng-bạc cầm quân, em không yên tâm tý nào cả.
Phùng Vĩnh-Hoa thêm ý kiến:
- Em nghĩ đúng. Có lẽ chúng ta để hoàng đế rút lui vào vùng Hoa-Lư ở với phái Hoa-Lư hoặc vào Cửu-chân. Để ngoài này cho chúng ta chống giặc.
Đào Kỳ cũng nói:
- Hoàng đế Hán đi đâu phải có tiền hô hậu ủng, vì võ công y thấp. Còn hoàng đế Lĩnh-Nam võ công cao, chỉ cần vài người hầu là đủ. Bây giờ thế này, Thần-tiễn Âu-Lạc tứ hùng tử trận mất một. Còn ba vị, tôi cử theo hộ giá hoàng thượng, lui vào Hoa-lư. Đợi chúng ta đuổi giặc rồi hãy trở về Mê-linh.
Vua Trưng cảm động:
- Đa tạ các em lo cho chị. Hoàng đế Hán tự coi mình là con trời, mình bằng vàng, da bằng bạc. Ta không thế. Ta là các em, các em là ta. Ta cùng ra trận với các em. Nếu ta có tuẫn quốc, các em lên thay tiếp tục chống giặc. Khúc-giang ngũ hiệp, Thánh-Thiên, Lê Chân tuẫn quốc trước, tại sao Trưng Trắc không tuẫn quốc sau được?
Đào Kỳ vẫn không đang tâm để Trưng đế ra trận. Ông bàn:
- Vậy chị Vĩnh-Hoa hộ tống Hoàng đế giữ Mê-linh. Trưng vương đánh Mã Viện. Tôi với Phương-Dung đánh Lưu Long.
Nguyễn Thành-Công hiên ngang nói:
- Cháu Kỳ! Ta biết lòng dạ cháu với Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, muốn an toàn tuyệt đối cho hoàng đế. Song ta nghĩ hoàng đế võ công cao, tài dùng binh giỏi. Người cần đích thân lâm chiến, hầu khích lệ ba quân chứ. Bên Trung-nguyên, Quang-Vũ, Công-tôn Thuật cũng từng ra trận. Không lẽ hoàng đế Lĩnh-Nam lại thua họ sao?
Hoàng Thiều-Hoa lắc đầu:
- Không hẳn vậy! Trận thế Trung-nguyên, quân hai bên đều ngang nhau. Nếu bên nào có tướng giỏi sẽ thắng. Ngược lại bây giờ quân Hán đông gấp mười quân Việt. Quang-Vũ ban chỉ dụ: Dù Hán chết trăm, Việt chết một, cũng vẫn coi là thắng. Nếu Mã thấy hoàng thượng ra trận. Y sẵn sàng nướng hết hai mươi vạn quân. Lỡ ra hoàng thượng có mệnh hệ nào, Lĩnh-Nam như rắn mất đầu. Phải cẩn thận vẫn hơn.
Bỗng có tiếng nói đâu đó vọng xuống:
- Hoàng đế Trưng Trắc thân làm chưởng môn phái Tản-viên, lớn nhất Lĩnh-Nam mà không dám ra trận, thì có còn là hoàng đế nữa không?
Tiếp theo những tiếng binh, binh, binh trên nóc điện Kinh-dương. Mọi người chạy ra sân xem, Hùng Xuân-Nương, Đặng Thi-Bằng giữ nhiệm vụ canh gác đã bị hai người quần áo nâu, mặt bịt kín, đánh bay xuống đất. Quách A cầm tù và gọi, Thần-ưng bay đến rợp trời. Hơn trăm con chia thành từng đội tấn công hai người kia. Mấy trăm con khác bay lượn, canh phòng. Đội Thần-báo, Thần-hổ trăm con cùng kéo đến. Giáp sĩ vây điện Kinh-dương kín như thành đồng vách sắt. Nguyễn Thành-Công nhận ra họ là một cặp nam nữ, tóc bạc, dường như tuổi khá cao.
Nguyễn Thành-Công vọt người lên nóc điện. Ông chưa đáp xuống, người đàn ông vung chưởng tấn công ông. Ông vội vận khí đỡ. Binh một tiếng, người ông bay bổng xuống đất. Ông lộn đi hai vòng từ từ hạ mình.
Các anh hùng đều kinh ngạc. Vì Nguyễn Thành-Công là thầy của Phong-châu Song-quái. Võ công của ông đâu phải tầm thường ? Thế mà người kia chỉ đánh hời hợt một chưởng. Ông đã bị bại.
Trần Năng vọt người lên. Bà còn ở trên không, thì người đàn bà bịt mặt phóng chưởng tấn công. Bà vận Thiền-công đỡ. Xùy một tiếng, người bà vọt lên cao đáp xuống nóc điện. Chưởng của người đàn bà bịt mặt mất tích. Song Trần Năng cũng bị bật lùi đến hơn trượng.
Người đàn bà bịt mặt ủa một tiếng kinh ngạc, rồi phóng chưởng đánh tiếp. Trần Năng dùng Phục-ngưu thần chưởng chống lại. Hai người thi diễn cuộc đấu. Được hơn mười hiệp, Trần Năng bắt đầu yếu thế.
Đào Kỳ kinh hãi nghĩ:
- Hôm trước Trần Năng đấu ngang tay với Lê Đạo-Sinh. Thế mà bây giờ mới ba mươi hiệp đã thua người đàn bà này. Không biết y thị là ai?
Hoàng Thiều-Hoa nhún mình vọt lên nóc điện. Bà hô lớn:
- Khoan!
Trần Năng lui lại. Hoàng Thiều-Hoa đến trước hai người bịt mặt, chắp tay, lễ phép:
- Chẳng hay quí khách là ai? Đến đây có việc gì? Chúa tôi chuyên dùng nhân nghĩa trị người. Các vị có điều chi không như ý cứ đường hoàng đến trình bày. Tại sao lại che mặt như vậy?
Người đàn bà đáp:
- Ngươi là Hoàng Thiều-Hoa, đệ tử của Đào Thế-Kiệt phải không? Hãy đỡ của ta ba chưởng, rồi nói truyện.
Người đàn bà phóng chưởng chụp xuống đầu Hoàng Thiều-Hoa. Bà hít một hơi vận khí, phát chiêu Thiết-kình phi chưởng đỡ. Bình một tiếng. Hoàng Thiều-Hoa bị lui lại đến ba bước. Còn người đàn bà đứng im, mắt lộ vẻ khủng khiếp:
- Ngươi... ngươi... không phải là học trò Đào Thế-Kiệt. Bản lĩnh ngươi cao hơn Đào Thế-Kiệt nhiều. tuy vậy ngươi vẫn không phải là đối thủ của ta.
Chu Tái-Kênh đến bên Đào Kỳ nói nhỏ:
- Cháu với ta thử xem.
Miệng nói, người bà vọt lên cao. Còn lơ lửng trên không đã phóng chưởng đánh người đàn bà. Người đàn bà vung chưởng đỡ. Hai người đấu với nhau được hai mươi chiêu. Bây giờ người đàn bà mới lộ bản lĩnh chân thực ra. Võ công của bà ta là võ công Tản-viên.
Bên kia Đào Kỳ cũng nhảy lên nóc điện. Ông chắp tay hướng vào người đàn ông:
- Tiểu vương là Đào Kỳ. Xin kính mời tiên sinh quá bộ xuống dưới nhà uống trà đàm đạo. Chẳng hay tiên sinh có chấp thuận không?
Người đàn ông cười:
- Ta sẵn sàng. Nếu ngươi đỡ được của ta ba chưởng.
Đào Kỳ ung dung đáp:
- Xin mời.
Người kia phát chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Đào Kỳ kinh hãi phát chiêu Loa thành nguyệt ảnh đỡ. Binh một tiếng. Cả hai lùi lại bốn bước. Tất cả mọi người đều la hoảng. Vì với bản lĩnh của Đào Kỳ, hiện trong thiên hạ không ai địch nổi. Không ngờ hôm nay lại xuất hiện một cao thủ ngang tay với ông.
Người kia phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Đào Kỳ hít một hơi, vận khí ra Thủ Tam-dương kinh, đỡ. Binh một tiếng, người kia lui lại một bước. Còn Đào Kỳ vẫn ung dung như thường. Người kia ôm tay, đứng suy nghĩ, tần ngần.
Bỗng Trưng Nhị la lớn:
- Sư phụ! Sư mẫu!
Bà nhảy vọt lên nóc điện Kinh-dương, tay trái nắm tay người kia. Tay phải gỡ khăn bịt mặt. Bà nói lớn:
- Sư phụ! Suốt gần hai chục năm nay người đi đâu? Làm đệ tử nhớ người muốn chết.
Chu Tái-Kênh với người đàn bà bịt mặt đã lùi lại. Vua Trưng vọt người lên nóc nhà. Tay ngài gỡ khăn bịt mặt của người đàn bà.
Người đàn ông bịt mặt tên là Đỗ Năng-Tế. Người đàn bà tên là Tạ Thị-Cẩn. Cách đây hơn hai mươi năm, phái Tản-viên bị chia hai chi phái. Một chi phái do họ Đặng làm chưởng môn. Một chi phái do họ Trưng làm chưởng môn. Đến đời thân phụ Trưng Trắc, Trưng Nhị thì Đỗ Năng-Tế, được cử làm chưởng môn. Võ công cả ông lẫn bà đều cao không biết đâu mà lường. Ông có chí phục quốc. Song phái Tản-viên cứ xảy ra bất hòa. Vì vậy ông bà không dám khởi binh.
Lúc ấy, Lê Đạo-Sinh thuộc chi phái họ Đặng, ra làm đô úy Giao-chỉ. Lê đưa ý kiến đứng ra làm mối cho Trưng Trắc với Đặng Thi-Sách lấy nhau, hầu thống nhất hai chi phái. Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế líu ríu tuân theo. Ngược lại Đỗ Năng-Tế nhận biết rõ bộ mặt ngụy quân tử của Lê. Ông bà không thuận. Một đêm Lê Đạo-Sinh tới gặp ông bà. Y yêu cầu: Hai bên đấu võ với nhau. Nếu ông thắng. Y bắt chi phái Đặng Thi-Kế tuân phục chi phái họ Trưng. Còn ngược lại y thắng. Ông bà phải thuận cho cuộc hôn nhân Trưng, Đặng. Ông bà phải nhường cho Trưng Trắc làm chưởng môn cả hai chi phái.
Ông bà thấy dù thắng hay bại, chi phái của ông cũng làm chưởng môn. Ông đồng ý. Cuộc đấu võ diễn ra. Hai người đấu trên ba trăm hiệp, bất phân thắng bại. Sau ông cùng Lê đấu nội lực. Kết quả ông thua. Ông bèn truyền chức chưởng môn cho Trưng Trắc, rồi ông bà bỏ đi, với lời thề: Nếu ngày nào đó không thắng được Lê Đạo-Sinh. Ông bà quyết không trở về. Bẵng đi hai chục năm. Bây giờ ông bà xuất hiện với võ công cao cường. Dù ông, dù bà đều hơn Lê Đạo-Sinh, ngang với Chu Tái-Kênh.
Trưng-đế thỉnh sư phụ, sư mẫu vào điện Kinh-dương. Đỗ Năng-Tế tóc đã bạc. Ông nói:
- Từ ngày bị thua Lê Đạo-Sinh, ta lên núi Tản-viên ở ẩn, luyện tập võ nghệ. Chúng ta quên thời gian, không còn nhớ gì nữa. Một ngày kia, có hai lão già xuất hiện. Chúng ta đấu với hai lão. Chỉ năm hiệp, hai lão thắng chúng ta. Chúng ta chịu phục. Hai lão xưng tên là Khất đại-phu, Thiên-sơn lão tiên.
Bà Tạ Thị-Cẩn nói:
- Thủa trước ta nghe danh Khất đại phu Trần Đại-Sinh võ công kém Lê Đạo-Sinh một chút. Thế mà bây giờ chỉ năm hiệp lão thắng chúng ta. Lòng chúng ta nguội như tro tàn, vì không còn hy vọng gì thắng Lê nữa. Hai lão cùng chúng ta đàm luận võ công. Bấy giờ ta mới biết thời gian qua, võ học Lĩnh-Nam thay đổi, tiến đến chỗ rực rỡ. Nhờ hai lão, chúng ta thu được kinh nghiệm. Chỉ luyện trong ba năm đã có bản lĩnh này. Chúng ta từ biệt hai lão xuống đây tìm Lê Đạo-Sinh.
Chu Tái-Kênh hỏi:
- Hiện hai người đó ở đâu?
- Cách đây hơn tháng, hai người lên đường đi Thiên-sơn.
Chu Tái-Kênh mặt buồn rười rượi.
Đỗ Năng-Tế nói với Trưng đế:
- Ta biết Lê Đạo-Sinh theo quân Mã Viện đánh Lãng-bạc. Vì vậy chúng ta xuống đây, tìm y để đòi món nợ cũ.
Trưng đế trầm tư một lúc. Ngài phán:
- Võ học Lĩnh-Nam chúng ta tiến đến chỗ cực thịnh, bỏ xa Trung-nguyên. Trước đây phò mã Sơn-Tinh, Vạn-tín hầu chép võ công dấu vào cây gậy đồng. Đào tam đệ có cơ duyên tìm được. Nếu như các ngài không chép lại, có phải chúng ta mất đi biết bao tinh hoa không? Trẫm muốn noi gương tiền nhân, chép tất cả võ công chúng ta, cất một nơi, hầu bảo tồn.
Đỗ Năng-Tế gật đầu:
- Bây giờ chúng ta chép những gì? Trước hết cháu Đào Kỳ, cháu học võ công Tản-viên, sau đó nội công, kiếm pháp Long-biên. Cháu lại phát minh ra lối qui liễm chân khí âm, dương hợp nhất. Cuối cùng lối vận khí bằng kinh mạch của Khất đại phu, phát minh ra Lĩnh-nam chỉ. Cháu tổng thành bản lĩnh vô địch. Cháu hãy cho chép lại hết. Phương-Dung học nội công, kiếm pháp Long-biên, biến đổi thành bản lĩnh riêng. Trần Năng học võ Tản-viên, họp với Thiền-công, thành một bản lĩnh mới. Cuối cùng chép bí quyết luyện tập bắn tên, chế Nỏ-thần của phái Hoa-lư. Phương sách nuôi, dạy dỗ thú vật của Hồ Đề.
Đào Kỳ nhìn Trần Quốc:
- Nhất là bản lĩnh Giao-long. Cũng như các nghệ thuật của phái Sài-Sơn. Chẳng nên bỏ qua bất cứ loại nào.
Phương-Dung móc trong bọc ra cuốn sách nhỏ:
- Đậy là yếu chỉ dùng binh của sư tỷ Nguyễn Thánh-Thiên. Chúng ta cũng nên chép lại hết.
Trưng Đế giao cho Phùng Vĩnh-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, Nguyễn Thành-Công hợp nhau biên tập.
Triều đình Lĩnh-Nam lại tiếp tục bàn kế hoạch đánh quân Hán. Đô Dương đưa ý kiến:
- Tôi nghĩ, nếu chúng ta để hoàng thượng xuất trận, lành ít, dữ nhiều. Ngược lại ngài xuất trận, khiến cho tướng sĩ hết lòng. Tôi muốn dung hòa ý kiến của hoàng-thượng, Đỗ, Tạ lão sư với ý kiến Đào Kỳ, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa. Nghĩa là hoàng-thượng vẫn xuất trận, vẫn dùng bài học của Trung-tín hầu thời Âu-Lạc đã diệt Đồ Thư và năm mươi vạn quân Tần.
Đàm Ngọc-Nga biết tài dùng binh của Đô Dương tuy không bằng Phương-Dung, Trưng Nhị. Song kiến thức của ông rất rộng. Bà thắc mắc:
- Ý Đô đại ca muốn...?
- Hoàng-thượng đã truyền hịch đến tất cả các trang ấp, Lạc-hầu, Lạc-tướng, Động-chủ, Trang-chủ suất lĩnh dân chúng bất kể nam nữ, già trẻ, thấy giặc đâu đánh đó. Nếu để giặc tập trung quân, đánh tỉa từng trang, từng ấp, cuối cùng Lĩnh-Nam lâm nguy. Nhược bằng chúng ta tập trung quân đánh. Tướng chúng ta anh hùng, quân chúng ta giỏi. Nhưng chúng hết mười vạn, lập tức có mười vạn khác. Còn chúng ta chết một vạn, không có một vạn khác. Tinh lực của chúng ta chỉ đủ để đánh bốn trận là cùng. Sau bốn trận đó, đành ngồi ngửa cổ cho chúng chặt đầu. Vậy chúng ta cần đánh hai trận, trận Lãng-bạc, Long-biên, làm chúng vỡ mật kinh hồn. Rồi các tướng soái, ai về trang ấp người đó, suất lĩnh dân chúng đánh giặc. Ngày chúng ta ẩn trong rừng, đêm ra đánh, cứ nhằm lương thảo của chúng mà đốt. Đợi khi chúng mệt mỏi. Ta tập trung quân đánh một trận, ắt giặc tan.
Đỗ Năng-Tế gật đầu:
- Đô vương gia bàn thực phải. Ta cứ thế mà làm. Tôi nghĩ cao thủ chúng ta nhiều hơn Hán. Vậy trong trận đánh này, chúng ta phải giết cho được bọn Sầm, Phùng, Liêu-đông tứ ma, Thượng-dung lục hữu, Lưu Long, Mã Viện. Có như vậy mới khiến quân sĩ kinh hồn.
Trưng-đế phán:
- Được, ta phiền Phương-Dung điều quân.
Phương-Dung giữ quyền tể tướng. Bà tuân lệnh đứng lên nói:
- Lực lượng Nhật-nam vẫn giữ nguyên. Đất Nhật-nam vốn anh hùng lại thêm sư bá Lại Thế-Cường với các sư thúc Thủy-Hải, Đằng-Giang, Khổng-Chúng. Giặc muốn đổ bộ, e còn khó hơn bắc thang lên trời. Lực lượng Cửu-chân, rất hùng mạnh. Trường hợp Lưu Long dồn đại quân vào Lục-hải, kéo về Long-biên. Xin Đô đại ca đem đạo Cửu-chân kéo ra Trường-yên, đánh về Thiên-trường, giữ vững mặt sau Long-biên, để Đào đại ca đánh Lưu Long. Đánh tan quân Lưu Long, ắt Mã Viện bị vây ở Lãng-bạc.
Trưng Đế cùng các anh hùng đều đồng ý, tỏ vẻ khâm phục. Phương-Dung tiếp:
- Còn Mã Viện từ Lãng-bạc đánh vào Mê-binh. Với tài dùng binh của sư tỷ Trưng Nhị, ắt Mã Viện thua. Đạo quân của y bị diệt, tất có đạo quân khác tiếp viện. Song đường tiếp viện đã bị Đào đại ca cắt đứt. Nếu y còn sống chạy về Trung-nguyên, cũng phải khó khăn lắm mới tiến quân sang được nữa. Có điều sau khi thắng trận Lãng-bạc, sư tỷ Trưng Nhị cho các anh hùng trở về trang ấp chiến đấu. Một số ít rút về cố thủ. Đối với Mê-linh, chỉ cần một quân đoàn Tây-vu giữ thành, dù Mã Viện có trăm vạn quân cũng vô dụng. Tại Long-biên, Đào lang với tôi cũng áp dụng như vậy.
Bà nhắc lại:
- Hai điều nguy hiểm có thể xảy ra: Một là nếu Đô đại ca không bảo vệ chắc vùng Trường-yên, ắt Long-biên bị lâm nguy. Hai là phải đề phòng thầy trò Lê Đạo-Sinh đột nhập Mê-linh làm nội ứng.
Trưng Đế hỏi Đào Kỳ:
- Đào tam đệ! Tam đệ điều động tướng sĩ.
Đào Kỳ suy nghĩ một lúc, tâu:
- Long-biên có thế nào, cũng không đáng ngại. Ta cần là giữ Mê-linh. Tôi xin các vị Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn, Chu Tái-Kênh đánh trận Lãng-bạc. Còn các anh hùng, ai trấn nhậm đất nào, về đó.