Hồi 28a
Cử mục sơn hà vô Hán tướng,
Thệ tâm thiên địa hữu Trưng vương.
0
Hoàng Thiều-Hoa, cùng thủy đội rút về tới Linh-lăng, được tin báo:
Mã Viện, Liêu-đông tứ-ma, Phùng Đức, Sầm Anh đã đổ xong ba mươi vạn quân vào hồ Động-đình. Nguyễn Tam-Trinh cùng thủy đội tuẫn quốc. Mã đích thân đem quân đánh Trường-sa. Thiên-trường tam kiệt cùng Vi Lan tử chiến cản đường. Bị bao vây, bốn người tuẫn quốc ở Thanh-Sơn. Viện biết ý định dùng nghi binh cản đường tiến quân của Lĩnh-Nam. Y đích thân chỉ huy đội Thiết kị đuổi theo. Đến ngã ba Liên-thủy, Tương-giang bị Xích-Hầu cản lại. Xích-Hầu không chịu rút lui, như lệnh truyền, tử chiến. Cả sư Thần-hầu cùng Xích-Hầu đều tuẫn quốc.
Mã tiến quân đến ngã ba Lục-thủy, Tương-giang bị Vi Pháp-Hải dùng sư Thần-ngao cản đường. Y dùng cung thủy đánh với Thần-ngao. Sau hai ngày cố thủ. Thần-ngao chết hết. Vi Pháp-Hải bị bắt. Mã Viện chiêu hàng. Lão tướng đập đầu vào đá tự tử. Đại quân Mã Viện đang tiến về phía Hành-sơn".
Phật-Nguyệt, Tiên-yên nữ hiệp đề nghị, xin đi tiếp viện Đào Hiển-Hiệu. Sún Hô cùng các tướng Tây-vu tình nguyện đi theo.
Hoàng Thiều-Hoa đồng ý.
Tiên-yên nữ hiệp, cùng Phật-Nguyệt dẫn Sún Hô, Hắc Phong, Trâu Trắng, Trâu Lồng, Trâu Ngáp lên đường. Đến chiều tới Hành-nam. Sún Hô chỉ về phía trước:
- Kìa! Quân mình đang đánh nhau với giặc kìa.
Phật-Nguyệt than:
- Từ Hành-sơn tới Hành-nam cách xa đến hơn trăm dặm. Hiển-Hiệu phục ở Hành-sơn, mà sao lại giao chiến ở đây?
Vừa lúc đó một sư trưởng Lĩnh-Nam phi ngựa tới. Phật-Nguyệt hỏi tự sự. Y đáp:
- Mã Viện đem thiết kị đến ngã ba Mễ-giang, Tương-giang, bị Đào tướng quân tung phục binh đánh. Quân Mã bị cắt làm hai. Nửa đầu bị Thần-hổ, báo, tượng hạ trong nửa giờ. Đào tướng quân định lui binh, thì Sầm Anh, Vương Hùng đem đại quân tới đánh bọc hai bên. Thần-hổ, Thần-báo giết bao nhiêu, chúng có quân khác thay bấy nhiêu. Đánh nhau suốt một ngày. Bên Hán chết hơn ba vạn. Hổ, báo, tượng mỗi sư chỉ còn hơn mười con.
Đào tướng quân dẫn quân rút lui. Khi quân tới Thiên-đài, người dẫn chư tướng lên núi hành hương di tích thời lập quốc. Sau khi lễ, chư tương nhất quyết tử thủ Thiên-đài không chịu rút lui. Đào tướng-quân dàn quân đóng dưới chân núi cố thủ. Đêm, Mã Viện cho quân cướp trại. Sư trưởng Thần-hổ, Thần-báo là Nhất-Trung, Nhị-Trung đều tuẫn quốc. Đến sáng, Tam-giang hầu Hồ Nam sư trưởng Thần-tượng cũng trúng tên chết. Đào tướng quân vừa đánh vừa lui. Quân Hán hao trên ba vạn. Cộng chung, Hán thiệt sáu vạn.
Tiên-yên, Phật-Nguyệt phi ngựa xông vào vòng vây. Ánh kiếm hai bà lấp lánh. Kiếm đến đâu, đầu quân Hán rơi đến đó. Phật-Nguyệt vọt người lên cao, phóng kiếm vào cổ Chu Long. Chu Long bỏ Đào Hiển-Hiệu, nhảy lui liền ba bước. Nhưng kiếm của Phật-Nguyệt theo y như bóng với hình. Y hoảng kinh vọt người lên cao. Phật-Nguyệt quay ba vòng liền. Hơn chục kị mã Hán bị đâm trúng cổ, ngã ngựa. Ánh kiếm của bà vừa quay lại xỉa vào chân Chu Long.
Sầm Anh thấy Chu Long gặp nguy hiểm. Y quát lên một tiếng phóng chưởng đánh vào lưng Phật-Nguyệt. Tiên-yên nữ hiệp đỡ chưởng của Sầm Anh. Bà vận Thiền-công, hai chưởng chạm nhau không có tiếng động. Xùy một tiếng. Sầm Anh bật lui lại. Trong khi Tiên-yên nữ hiệp bay vọt về sau hơn trượng. Hai bên cùng gườm nhau.
Hắc Phong công chúa cho đoàn Thần-phong bay lên xung vào trùng vây Hán. Vòng vây dãn ra. Đào Hiển-Hiệu cùng chiến sĩ Lĩnh-Nam thoát khỏi vòng vây lui về sau. Sún Hô nói:
- Hiển-Hiệu mau dẫn quân rút về Linh-lăng. Để ta cản hậu cho.
Hiển-Hiệu lui lại. Miệng ông phun ra một búng máu tươi. Ông nằm trên mình ngựa. Sún Hô truyền các tùy tướng hộ vệ Hiển-Hiệu về Linh-lăng trước. Chàng ra lệnh cho lực lượng Tây-vu xung vào trận.
Trâu Trắng, Trâu Lồng, Trâu Ngáp leo lên ba ngọn cây cầm cờ chỉ huy Thần-ưng. Quân Hán bị đánh dạt trở lại.
Mã Viện đứng trên ngọn đồi cầm cờ đốc chiến. Y nghĩ:
- Phật-Nguyệt là đệ nhất kiếm khách Lĩnh-Nam. Thị còn là đại tướng tài không kém gì Ngô Hán, Đặng Vũ. Tiên-yên chưởng lực quái dị, ngang với Sầm Bành, Phùng Dị. Hôm nay ta phải giết hai đứa này, để trừ đi mối lo cho Trung-nguyên.
Y truyền quân sĩ vây hai bà đến ba vòng. Đứng trên cao, nhìn đoàn Thần-ưng, Thần-phong tấn công quân Hán. Y nảy ra ý định:
- Ta cần bắt sống bọn này, khiền cho chúng một trận, bắt phải khai bí quyết điều khiển Thần-ưng, Thần-phong, hầu đánh Phiên-ngung, Mê-linh.
Quân Hán đốt lửa lên, khói bốc mịt mờ. Thần-phong quay trở về các cỗ xe chở tổ ong. Xe cùng các Phong-nữ đã bị quân Hán bắt sống. Chúng không còn chỗ đậu, bay lên cao. Vừa lúc đó quân Hán bao vây Hắc Phong công chúa. Nàng bị bắt sống. Ong không người điều khiển. Chúng theo thói quen bay tản về phương nam.
Sún Hô nhìn trước, nhìn sau, quân Lĩnh-Nam đã rút hết. Thần-phong tản ra. Chỉ còn mình chàng với ba Trâu. Chàng ra lệnhi:
- Bọn Trâu. Chúng mày xuống đất, chạy đi thôi!
Trâu Trắng hỏi:
- Anh có chạy không?
- Tao không chạy.
Trâu Ngáp cười:
- Bọn em cũng không chạy.
Sún Hô quát:
- Tao ra lệnh tụi bay chạy. Không tuân lệnh, tao đánh đòn.
- Bọn em chỉ biết tuân lệnh anh đánh giặc, chứ không biết tuân lệnh chạy trước địch quân. Anh đánh, bọn em đành chịu.
Sún Hô túm tóc Trâu Trắng, chàng liệng nó lên lưng một con ngựa, quát:
- Lui mau!
Trâu Trắng từ mình ngựa vọt lên cây, phút chốc nó đã leo lên cao, tay cầm tù và sai Thần-ưng. Sún Hô lắc đầu thở dài:
-Mình với chúng cùng một lò. Mình không lui, đời nào chúng chịu lui nhỉ? Thôi thì anh em cùng chết với nhau.
Quân Hán đến gốc cây của các Trâu bao vây. Thần-ưng thấy chúa tướng lâm nguy. Chúng nhào xuống đánh xả láng cứu viện. Mã Viện đốc thúc quân Hán tiến lên. Hơn năm trăm quân Hán bị cào rách mặt, móc mắt, ôm đầu lùi lại, đội quân khác lên thay thế. Thần-ưng bị đánh rơi từng loạt một.
Hơn giờ sau, chỉ còn ba Thần-ưng bị thương, đậu trên cây. Mã Viện ra lệnh đốn cây bắt Sún Hô với các Trâu. Cây đổ. Sún Hô với các Trâu bị bắt.
Phật-Nguyệt, Tiên-yên nữ hiệp thấy trận Lĩnh-Nam bị vỡ. Hai người quyết tử chiến, không chịu lui. Phật-Nguyệt dùng một thế kiếm thần tốc, đâm trúng vai Chu Long. Y bỏ trận lùi lại. Bà hướng núi Thiên-đài, mở đường máu chạy lên cùng với Tiên-yên nữ hiệp. Hai người đến một mỏm đá ngang sườn núi ngồi thở. Dưới chân núi quân Hán bao vây trùng trùng, điệp điệp.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
- Chúng ta nghỉ mệt, xung sát một trận rồi chết cho thỏa lòng.
Quân Hán reo hò, leo lên núi tấn công.
Chúng dùng tên bắn lên. Hai bà vung kiếm gạt. Tiên-yên nữ hiệp sơ xuất một chút, tên lọt vòng kiếm quang trúng vai. Phật-Nguyệt vội ôm lấy bà, nhắm đỉnh núi chạy lên.
Tới đỉnh, bà mệt nhoài. Nhớ lại lời Tăng-Giả Nan-Đà: "Khi mệt mỏi hãy nhắm mắt nhập Thiền. Trong khoảnh khắc, bỏ ra ngoài Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý. Cái mệt sẽ biến mất".
Bà với Tiên-yên nữ hiệp xếp chân ngồi vận Thiền công. Bên tai hai người văng vẳng tiếng Tăng-Giả Nan-Đà:
"Thế gian ly sinh diệt,
Do như hư không hoa.
Chí bất đắc hữu vô,
Nhi hưng đại bi tâm".
Hai người mơ mơ tỉnh tỉnh, ngủ đi lúc nào không hay. Đến lúc nghe tiếng chim hót, tiếng thú kêu, giật mình tỉnh giấc. Phật-Nguyệt bàn:
- Trường-sa mất, Động-đình thất thủ. Quân tan, tướng chết. Thôi, chúng ta hãy tự vận để bảo toàn danh tiết.
Tiên-yên nữ hiệp mệt mỏi lắm rồi. Bà gật đầu:
- Chúng ta tự tử ở đây cho đúng đạo lý. Từ ngày xảy ra chiến tranh giữa Hán, Việt chưa từng có một người Lĩnh-Nam hàng giặc. Võ đạo của chúng ta: Thà chết, chứ không chịu khuất phục quân thù.
Phật-Nguyệt hướng về phương nam quì gối lạy bốn lạy:
- Chị Trưng Trắc. Chị em chúng ta nhân cái nhục của Lĩnh-Nam. Người người nổi dậy, phục hồi đất tổ, đánh đuổi bọn tham quan ác độc người Hán. Chị đối với chúng em như ruột thịt. Ngày đêm chung lo bảo vệ dân Việt. Hôm nay thành mất, đất vào tay giặc. Em đành mượn cái chết để rửa nhục. Chị tha cho em cái tội bất tuân chỉ rút lui.
Tiên-yên nữ hiệp hướng về phương nam nói:
- Hoàng thượng ra lệnh cho tôi với Phật-Nguyệt rút khỏi Trường-sa. Nay quân tan, thành mất. Tôi xin mượn lưỡi kiếm, tự xử tội mình. Xin hoàng thượng bảo trọng ngọc thể, chăn dắt muôn dân Lĩnh-Nam.
Hai bà vung kiếm lên. Bỗng một vật gì bay đến, kình lực nhu hòa mạnh vô cùng, khiến hai bà muốn ngộp thở. Vật đó đẩy bay kiếm của hai bà đi. Kiếm tuột khỏi tay, cắm vào cành cây gần đó.
Có tiếng Tăng-Giả Nan-Đà nói:
- Thắng, bại, chẳng qua là cái nghiệp từ vô thủy kiếp trước đưa đến. Hai thí chủ chẳng nên phẫn chí.
Tăng-Giả Nan-Đà, Nguyễn Phan cùng xuất hiện.
Tiên-yên, Phật-Nguyệt vội đến trước ngài, quì gối xuống:
- Đệ tử kính cẩn tham kiến sư phụ.
Phật-Nguyệt bật lên tiếng khóc:
- Sư phụ! Bằng vào luật Nhân-quả, đất Lĩnh-Nam trên từ Trưng đế, xuống đến các quan, đều lấy đức trị dân. Còn Hán thì dùng hình pháp ép thiên hạ theo... Tại sao Lĩnh-Nam lại bị hết nạn này đến nạn kia. Tại sao đệ tử lại bị tai kiếp đến phải tự tử thế này?
Tăng-Giả Nan-Đà mỉm cười:
- Công chúa từ Lĩnh-Nam theo quân đánh thành Xuyên-Khẩu, Bạch-đế. Một lưỡi kiếm giết biết bao nhiêu người? Lại tới trận hồ Động-Đình mấy năm trước. Quân Hán chết ba mươi vạn. Lĩnh-Nam chết năm vạn. Xác lấp sông Trường-giang. Những người chết đó họ có tội gì? Mới đây công chúa cùng Hoàng thái hậu đánh trận Trường-giang. Bầy kế rút lui, phục quân năm nơi. Quân Hán chết có trên mười vạn. Họ có tội gì? Giết, giết! Công chúa vì Lĩnh-Nam. Mã Viện vì Hán. Ai cũng vì nước mình. Chém giết thây chất cao bằng mấy trái núi rồi. Hôm nay quân tan, tướng tuyệt, công chúa muốn tự tử ư? Công chúa ơi, khi nghịch cảnh đưa đến, phải can đảm chịu, mới xóa hết được. Bằng không kiếp sau, nó trở lại hành hạ mình nữa.
Ngưng lại một lúc, ngài tiếp:
- Sinh, tử là hai lẽ lớn. Cứ nghĩ đến sinh, tử thì vẫn chưa thoát khỏi vòng Luân-hồi. Chi bằng bỏ sinh, tử ra ngoài, con người mới thoát khỏi chúng sinh tướng. Hãy bỏ ra ngoài cái ta. Khi cái ta mất đi thì không còn cái người nữa. Khi cái người không còn, thì chẳng có nhiều người. Kinh Kim-cương gọi là giết chết Nhân ngã tứ tướng.
Nguyễn Phan vỗ tay vào đầu Phật-Nguyệt:
- Phật-Nguyệt, con đối với Lĩnh-Nam như vậy là đủ rồi. Bây giờ sư phụ coi như con đã chết. Phật-Nguyệt chết rồi... con hãy suy nghĩ kỹ, thế phát thọ giới Tỳ-kheo, chúng ta trở thành không hết.
Phật-Nguyệt, Tiên-yên cúi đầu ngẫm nghĩ. Một lúc sau, hai bà đến trước Tăng-Giả Nan-Đà:
- Sư phụ! Đệ tử tỉnh ngộ rồi. Bây giờ, sinh, tử không còn trong lòng đệ tử nữa. Đệ tử nguyện xin sư phụ cho được thụ giới.
Tăng-Giả Nan-Đà cầm thanh kiếm đưa lên. Ánh thép lấp loáng. Phút chốc tóc trên đầu Tiên-yên với Phật-Nguyệt bị gọt nhẵn.
Ghi chú của tác giả.
Huyền sử thuật : Vua Minh, cháu bốn đời vua Thần-nông, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh 0, kết hôn với nàng tiên đẻ ra một trai, đặt tên là Lộc-Tục. Vua lập đàn tế cáo trời đất, phong cho con trưởng là Nghi, làm vua phương Bắc, sau thành Trung-quốc. Lại phong cho Lộc-Tục làm vua phương Nam, sau là Đại-Việt. Ngài dạy hai hoàng tử rằng : Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam ; lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai con làm vua hai nước, nhưng vốn gốc cùng ở ta, phải lấy hòa hiếu mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam.Kẻ nào trái lời thề sẽ tuyệt tử tuyệt tôn.
Năm 1980, bấy giờ tôi giữ chức vụ tổng thư ký cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa 0. Nhờ ở chức vụ này, tôi lập chương trình trao, tức giảng dạy về Laser thérapie tại đại học Trường-sa. Sau những giờ làm việc, tôi mò vào các thư viện địa phương, cùng đi tìm di tích lịch sử. Tôi đã tìm ra núi Ngũ-lĩnh, tìm ra ngọn núi mà vua Minh lập đàn tế cáo trời đất, đó là núi Thiên-đài.
Trên núi Thiên-đài cón rất nhiều di tích về cuộc tế trời, cũng như trận đánh kinh thiên động địa này. Đền thờ vua Minh đã bị phá hủy, chỉ có một ngôi chùa. Ngay cổng vào có đôi câu đối :
Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc,
Lĩnh-địa niên niên dữ Việt-thường
0.
Lại có câu đối nói về trận đánh khủng khiếp này :
Nhất kiếm, Nam-hồ kinh Vũ-đế,
Thiên-đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long.
0.
Xin xem chi tiết trong bài diễn văn khai mạc niên khóa 1992-1993, tôi đọc tại viện Pháp-Á Paris, in vào phụ lục bộ Anh-hùng Bắc-cương, quyển 4, do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành.
...
Đào Kỳ nghe Thiều-Hoa tường thuật trận đánh kinh thiên động địa. Ông ước tính Hán chết ít nhất mười vạn quân. Còn Lĩnh-Nam bị mất quân đoàn bảy Tây-vu. Đạo quân Hán-Trung bị tử trận mất một nửa. Ông hỏi:
- Đạo quân Hán-trung bị tổn thất ở Hành-sơn mất hai vạn. Số còn lại ba vạn tại sao bị tan?
Hoàng Thiều-Hoa đáp:
- Mã Viện đuổi chị tới Linh-lăng. Chị cho quân thủ thành. Mã đánh không được. Hôm sau y cho tướng trấn thủ hồ Động-đình bắt hết vợ con các tướng sĩ đạo Hán-Trung đem về Linh-lăng. Y đứng dưới gọi lên: "Các tướng sĩ gốc người Hán. Các ngươi nguyên là tướng sĩ của triều Hán. Vì nghe lời Đô Thiên làm phản, theo Lĩnh-Nam. Từ sau trận hồ Động-đình hai năm trước. Đến trận Hành-sơn, các ngươi chết gần hết. Bây giờ vợ con các ngươi bị bắt. Các ngươi mau mở cửa thành đầu hàng. Ta tha chết cho các ngươi cùng vợ con. Bằng không, ta giết chết vợ con các ngươi".
Các tướng sĩ Hán xin vào gặp chị. Họ quì mọp xuống khóc lóc thảm thiết. Họ nói rằng: Từ khi theo Lĩnh-Nam, họ được đối xử như anh em ruột thịt. Thực nằm mơ họ cũng không nghĩ tới. Song bây giờ, trước mối nguy vợ con bị hại. Họ đến xin cho được rời khỏi thành cứu vợ con. Họ thề chỉ cần cứu vợ con. Họ sẽ về quê làm ăn, chứ không theo Hán đánh Lĩnh-Nam. Chị sai mở cửa thành cho họ ra. Họ bước đi, mà khóc như mưa như gió.
Quách A khóc:
- Còn Sún Hô, Trâu Trắng, Trâu Ngáp, Trâu Lồng, Hắc Phong ra sao?
Thiều-Hoa bảo Quách A:
- Trong trận hồ Động-Đình. Ta bắt được hơn hai mươi tướng Hán cùng Mã Huống. Bây giờ ai có thể đi sứ, đổi lấy tử thi các tướng Lĩnh-Nam cùng bọn Đào-ngũ-Gia?
Công chúa Vĩnh-Hòa nói:
- Nếu sư tỷ không chê. Em cùng Quí-Minh xin đi.
Đào Kỳ truyền thắng xe cho công chúa Vĩnh-Hòa với Đào-quí-Minh lên đường.
Hai hôm sau, Quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa trở về. Quách A hỏi:
- Sún Hô đâu?
Đào-quí-Minh đáp:
- Sư huynh Ngũ-Gia, Hắc Phong, Trâu Trắng, Ngáp, Lồng bị bắt. Quang-Vũ dùng lời lẽ ôn tồn dụ hàng. Cả bốn người cùng buông lời chửi Quang-Vũ, rồi đập đầu vào cột đá tuẫn tiết một lượt. Quang-Vũ thấy các tướng Lĩnh-Nam trung liệt, cảm động. Y truyền khâm liệm tử tế. Hiện quan tài đã vào đến thành.
Quách A buông tiếng khóc thảm thiết. Rồi thình lình bà rút kiếm tự tử. Hoàng Thiều-Hoa đứng cạnh, bật tay một cái, bà đã bắt được kiếm Quách A. Bà an ủi:
- Sún Hô là sư đệ của ta, là chồng của em. Chúng ta cùng có cái đau đớn như nhau. Song chồng em chết như vậy còn hơn bị giặc cầm tù, làm nhục. Sún Hô thường nói với ta rằng Đầu có thể chặt, chứ không để bị nhục.
Đào Kỳ sai đưa linh cữu các tướng về Giao-chỉ an táng. Khi linh cữu về đến biên giới Giao-chỉ, Trưng đế dẫn triều thần lên đón. Ngài truyền đem về quê an táng, xây đền thờ. Sắc phong như sau:
Nguyễn Tam-Trinh làm:
Văn thành, võ đức Long-biên vương.
Đền thờ của ông trải bao mưa nắng. Nay còn tại thôn Mai-động, huyện Thanh-Trì, tỉnh Hà-Nội. Trước đền thờ có đôi câu đối:
Đình tiền cổ mộc âm sâm, thụ sắc như thôi Tô Bắc khứ,
Từ ngoại hàn dăm thoan kích, thủy thanh do hận Mã Nam lai.
Dịch nghĩa: Cây xưa ở trước miếu um tùm, màu lá xanh biếc như thúc đuổi giặc Tô Định về đất Bắc. Đầm lạnh ngoài đền gợn sóng, tiếng nước reo còn căm hờn Mã Viện đến phương Nam.
Một đôi câu đối khác:
Đức bác thánh văn, truyền Việt địa,
Uy dương thần vũ chấn Nam thiên.
Dịch nghĩa: Đức của ngài rộng rãi, văn tài như thánh còn truyền ở đất Việt. Uy dương vũ dũng như thần, rung động trời Nam.
Nguyễn Lễ được phong:
Trung dũng đại tướng quân, Mai-động công.
Hiện nay không còn di tích đền thờ.
Cao Cảnh-Hào được đưa về Hoa-Lư an táng, sắc phong:
Thần-nỗ đại tướng quân, Trường-yên công.
Hiện nay không còn di tích đền thờ.
Đào Ngũ-Gia tức Sún Hô được phong:
Thiên ưng đại tướng quân, Sơn-tĩnh công.
Đền thờ tại Cửu-chân bị Trương Phụ phá hủy hồi 1407.
Lý Công-An tức Trâu Trắng được phong:
Trung dũng đại tướng quân.
Ngày nay đền tế cầu thờ ông vẫn còn tại xã Hồng-đức, huyện Ninh-giang, tỉnh Hải-hưng.
Xích-Hầu, không rõ tên họ, được phong:
Tây-vu hầu tướng, Lôi-chấn hầu.
Ngày nay đền thờ còn tại thôn Thập-miếu, xã Đồng-tháp, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Lôi Chấn thời Vua bà.
Vi Lan được phong:
Chí đức, thiên tắc công chúa.
Hắc Phong Công chúa không rõ tên họ, được phong:
Chí nhu, dị tài công chúa.
Hai bà được thờ chung. Hiện nay đền thờ hai bà là đền Văn-Lan, thuộc xã Trí-quả, phủ Thuận-thành, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Ả Tắc, Ả Dị.
Hắc-Hổ, Hắc-Báo là anh em sinh đôi. Tử trận cùng ngày. Không rõ tên họ. Chỉ biết sắc phong: Hắc-Hổ làm Nhất-Trung Á Thánh. Hắc-Báo làm Nhị Trung Á Thánh.
Đền thờ hai ông hiện ở xã Can-hựu, huyện Quốc oai, tỉnh Sơn-tây cũ. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Nhất Trung Á, Nhị Trung Á.
Vi Đại-Nham được phong:
Ngao sơn đại tướng quân, Pháp-hải hầu.
Đền thờ ông hiện ở xã Cẩm-giàng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Vi Pháp-Hải.
Hồ Nam sư trưởng Thần-tượng được phong:
Trung liệt đại tướng quân, Tam-giang hầu.
Đền thờ ông hiện ở xã Đại-đồng, huyện Văn-lâm, tỉnh Hải-hưng. Dân chúng thường gọi là đền thờ Tam-giang.
Trâu Trắng, Trâu Ngáp, Trâu Lồng được phong:
Thiên ưng đại tướng quân.
Di tích đền thờ đến nay không còn. Riêng Trâu Mập, không biết tên họ là gì, được phong:
Thiên ưng đại tướng quân, Tam-Ngọ hầu.
Đền thờ của ông tên Bình-hạ, còn ở xã Đồng-quang, phủ Tiên-sơn tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là Đền thờ ông Tam Ngọ thời vua Bà.
Thiên-trường tam kiệt Trần Quốc-Dũng, Trần Quốc-Uy, Trần Quốc-Lực được phong:
Trung liệt đại tướng quân, Thiên-Trường công.
Đền thờ ba ông cho đến cuối năm 1880 hãy còn ở bờ sông Vị-hoàng. Khi người Pháp xây Giáo Hoàng chủng viện và trường học Saint Thomas. Đền thờ các ông bị phá hủy. Dân chúng góp tiền, xây một miếu khác, nhỏ hơn ở giữa phố hàng Song và hàng Đồng. Trong cuộc đột kích của Việt-Minh vào thành phố Nam-định hồi 1953, thiết giáp của Pháp bắn lầm vào miếu. Miếu bị hủy hoàn toàn.
....
Đào Hiển-Hiệu dưỡng thương hơn tháng sau mới khỏi. Anh em đang ngồi bàn truyện chống Hán, thì có sứ giả của Trưng đế tới. Sứ giả là Nguyễn Quý-Lan. Đào Kỳ ra đón vào. Quý-Lan nói:
- Hoàng-thượng cho tôi lên trình với vương gia. Đạo quân nước Hồ Tôn đánh vào phía Nam, bị Nhật-nam vương Lại Thế-Cường, cùng các vị Trương Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang, Trần Khổng-Chúng phá tan. Mặt nam coi như yên. Phía Tây nước Lão Qua đem quân sang đánh. Bị Cửu-chân vương Đô Dương phục binh, dùng hỏa công đốt. Quốc vương cùng cánh quân nước này chết cháy. Hiện Phong-châu song quái cầm đạo quân mười vạn người đánh từ Tượng-quận về Giao-chỉ. Binh bộ thượng thư Chu Bá cùng công chúa Hùng Xuân-Nương cầm quân cố thủ trong thành. Riêng mặt Nam-hải, Lưu Long đem hai mươi vạn quân đánh xuống. Suốt mấy tháng qua, công chúa Thánh-Thiên giữ vững thành trì. Lưu Long chia quân làm hai. Một mặt tiếp tục đánh Nam-hải. Một đạo vượt đường biển chiếm đảo Hải-nam đổ bộ lên vịnh Giao-chỉ, bị Đào Phương-Dung đánh lui.
Bà ngưng lại một lúc tiếp:
- Lê Đức-Hiệp, Ngô Tiến-Hy, Hoàng Thái-Tuế đem quân đánh các trang ấp gốc Hán. Trang ấp nào chống trả, chúng tràn ngập được, đem đàn ông cắt lưỡi, khoét mắt thả ngoài đường. Còn đàn bà, con gái cho lính hãm hiếp. Của cải chia cho lính. Vì vậy hầu hết các trang ấp gốc Hán đều hàng. Công chúa Thánh-Thiên cùng đạo binh Nam-hải rút về Khâm-châu cố thủ. Trong khi đó tại Khúc-giang xảy ra biến cố. Khúc-giang ngũ hùng bị đánh thuốc độc chết. Người Hán tại Khúc-giang nổi dậy đánh nhau với người Việt. Giữa lúc hai phe đại chiến, thì Lê Đức-Hiệp xua quân đến đánh giết cả hai phe. Vì vậy Khúc-giang thất thủ.
Phương-Dung nói:
- Tôi muốn biết thêm về vụ Khúc-giang ngũ-hiệp bị đầu độc?
Quý-Lan thưa:
- Phùng Thị-Chính gửi thư về nói vậy. Vì Khúc-giang bị chiếm, không điều tra được nguyên do. Tể tướng thấy có gì lạ không?
Phương-Dung lắc đầu:
- Tôi không tin Khúc-giang ngũ hiệp bị thuốc độc chết. Vì năm vị đều thuộc loại cẩn thận, công lực cao thâm, không dễ gì trúng độc chết ngay. Hồi đánh trận Nam-hải, ngũ hiệp có tiết lộ với tôi: Nếu không giữ được Nam-hải, năm người không tự tử, mà tìm đến Lạc-dương, giết bọn vua tôi nhà Hán trả thù.
Đào Kỳ hỏi:
- Hoàng thượng có chỉ dụ gì không?
- Có, ngài truyền Vương gia bỏ Phiên-ngung. Chúng ta hãy trở lại với lãnh địa Âu-Lạc. Vương gia đem quân về đóng ở Long-biên.
Phương-Dung nói:
- Chúng tôi hiện bị bức hai phía. Phía tây hai mươi vạn quân của Vương Bá. Phía bắc ba mươi vạn quân của Mã Viện. Trong khi chúng tôi chỉ có tám vạn quân. Bây giờ có rút cũng rất khó khăn. Vì sợ giặc truy kích.
Đào Kỳ truyền mời các tướng vào nghị kế.
Cao Cảnh-Sơn bàn:
- Từ đây về Giao-chỉ ít ra phải đi đến năm ngày. Chúng ta có bí mật mấy, sau ba ngày Vương Bá, Mã Viện cũng biết được. Chúng ắt đem thiết kị đuổi theo. Vậy cần phục binh sẵn cản đường chúng.
Hoàng Thiều-Hoa gật đầu:
- Quang-Vũ ra lệnh đánh chiếm bằng mọi giá. Dù tổn thất bao nhiêu quân cũng đánh. Như trận Hành-sơn vừa rồi. Hiển-Hiệu có ba vạn binh phục sẵn. Mã Viện đem ba vạn kị binh, Vương Hùng ba vạn bộ binh. Sầm Anh bốn vạn. Tổng cộng mười vạn. Quân của Hiển-Hiệu bị thiệt hại ba vạn, trong khi Hán thiệt hại tới sáu vạn. Thế mà Quang-Vũ vẫn thăng thưởng cho các tướng. Bây giờ nếu chúng ta phục ba vạn binh thì Vương Bá, Mã Viện sẵn sàng tung mười lăm vạn vào trận chiến.
Phương-Dung ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Được! Tôi có kế rút binh. Nếu chúng tung quân vào, ta sẵn sàng đổi một lấy mười. Ngay đêm nay ta rút.
Bà hỏi Minh-Giang:
- Đạo binh Quế-lâm hiện có bao nhiêu người Hán?
Minh-Giang đáp:
- Một phần ba.
Phương-Dung trao binh phù cho Minh-Giang:
- Tướng quân đem số binh sĩ gốc Hán cùng vợ con họ lên đường đi Giao-chỉ ngay đêm nay. Như vậy tránh trường hợp vợ con họ bị Vương Bá bắt làm áp lực. Tới biên giới Giao-chỉ cho vợ con họ về Long-biên. Còn binh sĩ thì dàn ra phục ở bờ sông Tĩnh-giang. Nếu thấy quân Hán đuổi tới, thì dùng Thần-nỏ nà bắn. Sau khi giặc lui, lập tức rút về giữ thành Tiên-yên.
Phương-Dung trao binh phù cho Cao Cảnh-Sơn:
- Đội quân Phù-Đổng rất tinh nhuệ, trung kiên. Chúng ta chờ trời tối, âm thầm rút đi. Trên mặt thành để thực nhiều hình nộm, giả làm quân gác. Quách A duy trì đội Thần-ưng trăm con, bay thường trưc trên trời, làm như chúng ta ở trong thành, nên có Thần-ưng canh phòng.
Phương-Dung nói với Hiển-Hiệu, Quí-Minh:
- Hai em giúp Hoàng sư tỷ bảo vệ vợ con chiến sĩ, rút bằng đường bộ. Khi về tới Giao-chỉ, sẽ có xe ngựa đón rước.
Bà nói với Hồ Đề, Vũ Trinh-Thục, Đào Kỳ:
- Chúng ta ở lại đây đuổi giặc.
Hồ Đề hỏi:
- Sao kỳ lạ vậy? Trong thành không còn quân sĩ. Chúng ta chỉ có bốn người ắt bị Mã Viện bắt.
Phương-Dung cười:
- Mã Viện, Vương Bá sợ tôi như sợ cọp. Ngày mai tôi cho người đến trại Mã Viện, Vương Bá gửi chiến thư. Thách chúng sau hai ngày đại chiến ở chân thành Phiên-ngung. Vì vậy chúng thấy ta chuyển đàn bà, trẻ con, tưởng rằng chúng ta đem đi cho khỏi vướng chân tay. Chúng chuẩn bị giao chiến với ta. Thình lình bốn chúng ta rút đi.
Vũ Trinh-Thục gật đầu:
- Kế đó lừa được Mã Viện, Vương Bá. Song phải cẩn thận lắm.
Các đạo quân lên đường hết rồi. Trong thành chỉ còn một đội chiến sĩ cảm tử của Cối-giang hơn trăm người, cùng với Đào Kỳ, Phương-Dung, Vũ Trinh-Thục, Hồ Đề.
Suốt hai ngày không động tĩnh. Đêm hôm ấy, bốn người cùng trăm chiến sĩ lấy ngựa âm thầm phi trong đêm. Đến sáng thì gặp đạo quân của Minh-Giang phục ở Long-châu.
Phương-Dung nói:
- Thôi, tướng quân rút vào thành Tiên-yên đi thôi. Cuộc rút quân hoàn tất rồi. Từ nay chúng ta lại trở về với lãnh thổ Âu-Lạc.
Có Thần-ưng từ xa mang thư lại. Phương-Dung mở ra, bà kêu lên:
- Thánh-Thiên gặp cường địch, viết thư cầu cứu với chúng ta.
Đào Kỳ tiếp thư đọc, chỉ vỏn vẹn có mấy chữ:
Ta bị vây trên đồi Vong Thiên.
Đào Kỳ hoảng hốt nói:
- Từ ngày cầm quân đến giờ. Thánh-Thiên lúc nào cũng bình tĩnh. Thánh-Thiên thường nói : Liệu cơm gắp mắm, nghĩa là lực lượng có bao nhiêu, thì tự lo lấy, không bao giờ xin viện binh. Bây giờ phải xin viện binh, ắt tình hình nguy ngập lắm. Thư viết có mấy chữ, hẳn không có thời giờ. Vậy anh đi tiền đội, Dung đi hậu đội. Từ đây đến Vong-Thiên khoảng một giờ sức ngựa.
Ông cùng Minh-Giang mang đội Thiết-kị đi trước. Ngựa phi như bay. Gần một giờ, Thần-ưng dẫn đường báo hiệu rồi lao tới một ngọn núi xa xa. Trên ngọn núi, khói bốc nghi ngút. Tiếng quân reo, ngựa hí, cùng tiếng binh khí chạm nhau vọng lại.
Đào Kỳ, Minh-Giang dẫn thiết kị phi tới. Được khoảng hơn ba dặm, hai người cùng kinh hãi: Trước mặt họ nào xác người, xác ngựa, xe cộ, lương thảo nằm ngổn ngang trên một bãi đất kéo dài đến chân đồi. Minh-Giang nhảy xuống ngựa quan sát. Ông nói:
- Hai bên cùng tử chiến. Chưa phân thắng bại. Xác chết tử sĩ Hán, Việt lẫn lộn với nhau.
Hai người cho đội Thiết kị hướng chỗ khói bốc lên phi tới. Càng đến gần, tiếng ngựa hí, quân reo càng rõ ràng hơn. Khoảnh khắc Đào Kỳ đã thấy trên ngọn đồi, quân Lĩnh-Nam núp vào mô đá, cố gắng cầm cự. Dưới đồi, quân Hán bao vây trùng trùng, điệp điệp.
Ông ra lệnh cho Minh-Giang:
- Đại ca đánh vào bên phải. Tôi đánh vào bên trái. Chọc thủng vòng vây của chúng. Sau đó chúng ta cùng đánh quặt vào giữa.
Đào Kỳ hú lên một tiếng. Ông phi ngựa dẫn đầu. Đoàn thiết kị xung vào trận. Quân Hán thấy Lĩnh-Nam có viện binh, vội lui xuống chân đồi dàn hàng chờ đợi. Đào Kỳ nhận ra tướng Hán chính là Lưu Long. Ông không nói không rằng, vung tay xử dụng Lĩnh-Nam chỉ. Cứ mỗi chỉ, một tướng Hán thủng đầu, thủng ngực ngã ngựa. Lưu Long thấy Đào Kỳ, hồn vía y bay lên mây. Y lùi vào trận, đứng đốc quân sĩ chống trả. Đào Kỳ cùng đội khiết kị xung sát một lát, vòng vây quân Hán bị vỡ. Tuy vậy quân Hán đông trùng trùng điệp điệp, chống trả mãnh liệt. Đội thiết kị Lĩnh-Nam võ công cao, thiện chiến, đánh ngã lớp quân Hán này, đến lớp quân Hán khác. Khoảng nửa giờ, số quân Hán chết hơn hai vạn, ba vạn. Trong khi đội thiết kị Lĩnh-Nam cũng thiệt hại mấy nghìn.
Đào Kỳ nhìn trận Hán:
- Cơ chừng này Hán ước tới năm, bảy vạn là ít. Làm sao bây giờ?
Thình lình phía sau, đạo quân của Phương-Dung tới. Bà cầm kiếm đứng trên con ngựa Ô chỉ huy. Các dàn Nỏ-thần tiến lên xạ kích. Quân Hán bị bắn ngã từng lớp, từng lớp, chúng vẫn không lui.
Phương-Dung thấy đã bắn đổ gần hai vạn người, mà quân Hán vẫn xung vào trận. Bà nghĩ:
- Quang-Vũ chỉ dụ cho các tướng, dù chết bao nhiêu người, cũng phải thắng Lĩnh-Nam. Vậy ta không thể giết quân, khiến chúng lui, mà phải giết tướng.
Đưa mắt nhìn thấy Lưu Long đang đứng trên một mô đất cao đốc chiến, bá hú lên một tiếng, con ngựa Ô hướng phía Lưu Long lao tới. Ánh kiếm loé lên. Ngựa tới đâu, đầu rơi tới đó. Con ngựa Ô là linh vật đất Tây-vu. Chỉ chớp nhoáng đã tới cạnh Lưu Long. Lưu Long chưa kịp trở tay, Phương-Dung đã tới trước mặt. Đám vệ sĩ liều chết bảo vệ chúa tướng. Còn Lưu Long nhảy lui lại, lẫn vào quân sĩ chạy trốn. Phương-Dung giết hơn mười võ sĩ hộ vệ cứu Lưu Long. Bà quay lại, y đã trốn mất. Quân Hán không người chỉ huy, hàng ngũ rối loạn. Đội thiết kị của Đào Kỳ, Minh-Giang đánh quặt lại. Quân Hán bỏ chạy. Minh-Giang xua quân đuổi theo. Đào Kỳ vội gọi:
- Đại ca! Không nên. Quân Hán quá đông. Nếu chúng đánh quặt lại, thì nguy.
Đào Kỳ, Phương-Dung phi ngựa lên đồi. Đội quân Lĩnh-Nam người bị thương, kẻ mệt lử, nằm la liệt. Đào Kỳ ra lệnh cho Minh-Giang đốc thúc đội thiết kị cứu thương. Ông xuống ngựa, nhảy nhót mấy cái, đã tới chỗ Thánh-Thiên đứng chỉ huy. Ông rất quan tâm tới người chị, đã quen thân từ hồi thơ ấu ở Cối-giang, Cổ-loa, Cổ-lễ, Cỗ-đại. Ông hỏi:
- Chị Thánh-Thiên! Chị có sao không?
Thánh-Thiên oẹ một tiếng, miệng phun ra búng máu. Người bà lảo đảo muốn ngã. Phương-Dung vọt người tới như mũi tên, đỡ ngang lưng bà, đặt xuống bãi cỏ gần đó. Người bà bị một kiếm chém vào ngực khá sâu. Hai mũi tên bắn trúng bụng và đùi.
hương-Dung băng bó cho Thánh-Thiên, một lát bà tỉnh táo hơn. Bà nói trong hơi thở phều phào:
- Ta đóng trong thành Khâm-châu, cùng với Hùng Bảo. Binh sĩ đạo Nam-hải nửa Hán, nửa Việt. Một ngày, các tướng sĩ gốc Hán đến gặp ta. Họ quỳ lạy xin ta tha tội. Vì trang ấp của họ bị Hán chiếm hết. Lưu Long hẹn họ nội trong một tháng phải ra hàng. Nếu không y giết hết vợ con. Do vậy họ không còn lòng dạ nào chiến đấu nữa. Ta đành mở cửa thành cho họ ra. Đêm, ta ra lệnh cho Hùng Bảo rút về Lục-hải. Còn ta với Phùng Thị-Chính, Đàm Ngọc-Nga rút bằng đường bộ. Tới đây, thì Lưu Long đuổi kịp. Chúng ta có hơn vạn người. Trong khi Lưu Long đem bốn vạn thiết kị. Lê Đức-Hiệp đem năm vạn tráng đinh. Ta đánh Lưu Long thiệt hai vạn kị binh. Y vẫn nhất quyết tiến đánh. Ta lên đồi cố thủ. Phùng Thị-Chính trúng tên chết. Đàm Ngọc-Nga bị thương nặng. Ta đứng đốc chiến phòng thủ, viết thư cầu cứu hai em.