Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ tỉnh dậy nhảy lên trên cây cao nhìn ra thấy dưới chân núi quân địch cờ quạt phất phới, người ngựa chạy qua chạy lại, trong quân tiếng tù và nổi lên đây đó, quả đang điều binh khiển tướng rất là gấp rút. Chàng liền gọi:
- Mẫn muội!
Triệu Mẫn đáp lời:
- Em đây, chuyện gì thế?
Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:
- Không có chuyện gì, anh chỉ thuận miệng gọi em đấy thôi.
Chàng vốn dĩ muốn bàn với Triệu Mẫn cách thức đánh bại quân Nguyên vì nàng túc trí đa mưu hẳn sẽ có kế sách hay nhưng nghĩ lại:?Nàng vốn là quận chúa trong triều đình, bỏ cha bỏ anh đi theo ta, lại bảo nàng tính kế giết chính người Mông Cổ chẳng ép uổng nàng quá lắm hay sao?. Thành thử lời đã đến cửa miệng lại cố nhịn không nói ra. Triệu Mẫn nhìn mặt chàng hiểu ngay tâm sự, thở dài một tiếng nói:
- Vô Kỵ ca ca, mong chàng hiểu được nỗi khổ tâm của em, thiếp chẳng cần nói ra làm gì.
Trương Vô Kỵ quay trở vào phòng, bàng hoàng không biết tính sao, tiện tay lấy ra hai xấp giấy Triệu Mẫn lấy được tối hôm qua, đọc vài chương Cửu Âm Chân Kinh rồi lại quay sang đọc Vũ Mục Di Thư, lướt qua vài đoạn vô tình đọc đến lúc?Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn? trong lòng chợt động, đọc kỹ lại thấy đó Nhạc Phi thuật lại chuyện năm xưa bị quân Kim bao vây thế nào rồi thoát được nguy khốn ra sao, làm thế nào đột xuất kỳ binh, nội ngoại giáp công đi đến toàn thắng, các phương lược đều nói rõ.
Trương Vô Kỵ vỗ bàn kêu lên:
- Đúng là trời giúp mình!
Chàng gập sách lại ngồi suy tính, tình thế trên ngọn Thiếu Thất ngày hôm nay tuy khác hẳn việc Nhạc Phi bị vây tại núi Ngưu Đầu, nhưng cái ý người xưa truyền lại trong phép dụng binh là làm sao xuất kỳ bất ý đánh thắng địch quân. Chàng càng nghĩ càng thêm khâm phục Nhạc Vũ Mục quả là thiên tài, trong khi nguy nan nào có ai nghĩ ra được, lại xem ra dụng binh và võ công cũng cùng một đường, nếu như chưa được cao nhân chỉ điểm, cao thấp khéo vụng thì thật khó mà có thể nghĩ ra được kế này.
Chàng nhúng ngón tay vào nước trà, vẽ lên bàn các địa hình, tuy thấy là làm như thế thật nguy hiểm, không khỏi cầu may nhưng nghĩ bụng lấy ít chống nhiều không thể đường đường chính chính đánh một trận mà thắng được. Tính toán xong xuôi chàng bèn đi qua Đại Hùng Bảo Điện nhờ Không Văn phương trượng chiêu tập quần hùng.
Chỉ giây lát mọi người đã tề tựu đến đầy đủ, Trương Vô Kỵ đứng giữa sảnh nói:
- Hiện nay binh mã Thát tử đã tập trung dưới chân núi, ắt là chẳng bao lâu sẽ tấn công lên. Chúng ta hôm qua tuy thắng được một trận nhỏ, làm nhụt nhuệ khí của quân Nguyên nhưng nếu chúng bất kể sống chết đánh ùa lên thì thật khó mà chống đỡ. Tại hạ bất tài được chúng vị anh hùng cử ra tạm giữ công việc chủ soái.
Hôm nay cùng chung kẻ địch mong các vị nghe lệnh tại hạ.
Mọi người cùng hô to:
- Nếu có lệnh gì nhất nhất tuân theo không dám vi phạm.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hay lắm, Ngô kỳ sứ nghe đây!
Chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Ngô Kình Thảo hiên ngang bước ra, khom lưng nói:
- Thuộc hạ nghe lệnh.
Y trong bụng nghĩ thầm:?Giáo chủ ra lệnh, người đầu tiên sai ngay đến ta, thực là vinh dự biết mấy. Bất kể bảo ta làm gì nguy nan đến đâu, ta nhất quyết xả mệnh thi hành?.
Trương Vô Kỵ nói tiếp:
- Ngô huynh tất lãnh các anh em trong kỳ, chấp chưởng quân pháp, bất kể vị nào không tuân theo hiệu lệnh, trường thương đoản phủ trong kỳ sẽ nhắm ngay người đó mà phóng tới. Dẫu người đó là bậc kỳ túc trong bản giáo, trưởng bối trong võ lâm cũng không ngoại lệ.
Ngô Kình Thảo dõng dạc đáp:
- Đắc lệnh!
Y móc trong bọc ra một lá cờ trắng nhỏ, cầm sẵn trên tay. Võ công tiếng tăm Ngô Kình Thảo vốn dĩ không phải là loại hạng nhất trên giang hồ, người ngoài không coi y vào đâu. Thế nhưng từ hôm Ngũ Hành Kỳ đại hiển thần uy trên bãi đất, mọi người ai ai cũng biết rằng lá cờ trắng trong tay y ném tới đâu lập tức nơi đó sẽ có năm trăm mũi tên, năm trăm chiếc giáo, năm trăm cái búa ngắn đồng loạt tấn công tới, dẫu có bản lãnh thông thiên thì chỉ chớp mắt cũng thành một đống thịt nát thành thử trông thấy lá cờ đó phất phới ai cũng rùng mình.
Thì ra Trương Vô Kỵ đọc trong Vũ Mục Di Thư thấy điều đầu tiên có chép:?Đạo trị quân, trước hết là lệnh lạc phải nghiêm?. Chàng biết giới giang hồ hào sĩ vốn dĩ tự phụ, muốn làm gì là làm tuy ai ai cũng võ công cao cường nhưng tụ lại cũng chỉ là một bầy ô hợp, nếu không có quân lệnh ước thúc để mọi người tuân theo thì không cách nào kháng cự được với quân Mông Cổ thành thử việc đầu tiên phải làm là sai Nhuệ Kim Kỳ giám lệnh chấp pháp.
Trương Vô Kỵ chỉ vào một bức tường ngang ngay trước điện, nói:
- Các vị anh hùng, những ai khinh công cao cường nhảy một cái lên được trên tường kia thì xin biểu diễn.
Trong số quần hùng không ít người lộ vẻ bất mãn, nghĩ thầm:?Không biết làm trò gì mà lại bảo mình ra nhảy lên hụp xuống, việc chẳng hề liên can đến khẩn cấp cả?? Một số tiền bối cao thủ thì lại nghĩ chàng coi thường mọi người nên không khỏi bực mình.
Trương Tùng Khê vượt mọi người bước ra, nói:
- Tôi có thể nhảy được.
Ông nhảy lên trên tường rồi nhẹ nhàng nhảy qua phía bên kia. Công phu Thê Vân Túng của phái Võ Đương nổi danh thiên hạ, với tài nghệ của Trương Tùng Khê thì nhảy qua bức tường ngang kia thật dễ như thổi tro trong bếp thế nhưng ông không khoe khoang chỉ theo đúng lệnh nhảy qua một cách thật tầm thường.
Kế đó Du Liên Châu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương các cao thủ cũng tuân lệnh thi hành. Chỉ thấy quần hùng như bướm vờn hoa, hết người này đến người khác nhảy qua tường, có người thi triển khinh công trên lưng chừng còn biểu diễn những thức ngoạn mục. Sau khi hơn bốn trăm người nhảy rồi những người còn lại không ai ra thử nữa.
Bức tường chắn đó không phải thấp, nếu như khinh công không cao cường không phải dễ dàng nhảy lên được. Trong số người ở đây mỗi người tập luyện một cách, có người chuyên luyện binh khí quyền cước, khinh công chỉ bình bình. Những nhân vật thành danh ai cũng biết người biết ta, không dại gì lộ cái sở đoản trước mặt mọi người.
Trương Vô Kỵ thấy trong số hơn bốn trăm người đó, tăng chúng Thiếu Lâm chiếm đến tám chín phần mười, nghĩ thầm:?Thiếu Lâm là đệ nhất đại môn phái trong võ lâm, quả thực danh bất hư truyền. Chỉ cần luận riêng khinh công thôi hảo thủ đã đông hơn các môn phái khác?. Chàng bèn truyền lệnh:
- Du nhị bá, Trương tứ bá, Ân lục thúc xin ba vị dẫn các vị khinh công khá trên đây, hư trương thanh thế, giả vờ làm người trong chùa rủ nhau đào tẩu, dụ cho chúng đuổi theo, qua đến hậu sơn rồi cứ như thế như thế.
Du Trương Ân tam hiệp của phái Võ Đương cùng lên tiếng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ từng nhóm từng nhóm phân phái, ai mai phục, ai đoạn hậu, ai tấn công, ai đánh vào ngang hông sắp xếp thật rõ ràng.
Bọn Dương Tiêu thấy chàng bày kế thật khôn khéo, lại dàn binh ngự địch xem ra có phép tắc đâu ra đấy những ai mưu lược đều không khỏi cảm phục, có biết đâu chàng bắt chước theo Vũ Mục Di Thư chỉ nhân địa hình khác biệt, bộ thuộc không giống nên hơi cải biến chút đỉnh cho thích hợp.
Trương Vô Kỵ điều động xong rồi, sau cùng mới nói:
- Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng hai vị xin cùng các vị trong phái Nga Mi, cứu chữa săn sóc cho những người bị thương.
Chu Chỉ Nhược không có mặt trên núi, phái Nga Mi không người dẫn đầu, Trương Vô Kỵ biết mình có hiềm khích rất sâu với phái Nga Mi không tiện chỉ huy nên nhờ hai vị thần tăng đức cao vọng trọng tất lãnh, chắc hẳn các đệ tử phái Nga Mi không dám phản đối. Lệnh đưa ra quả nhiên nam nữ đệ tử phái Nga Mi lẳng lặng thi hành không nói nửa câu.
Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:
- Hôm nay các chí sĩ trung nguyên đồng tâm hiệp lực nhất quyết một phen sống mái với quân Thát tử. Các vị sư phụ của phái Thiếu Lâm lo việc chiêng trống, xin đánh trống gióng chuông cho.
Quần hùng nghe thế đều hoan hô vang dậy, rút đao tuốt kiếm, khí thế bừng bừng. Liệt Hỏa Kỳ đem củi cỏ tích chứa ra xếp thành đống trước cửa chùa, châm lửa đốt lên, chả mấy chốc khói bốc lên thấu trời xanh. Còn Hậu Thổ Kỳ thì đem bùn đất trét lên các nóc chùa sau đó Liệt Hỏa Kỳ mới xếp củi, lấy dầu đổ lên trên mặt bùn, châm lửa lên tuy không cháy các điện nhưng ở dưới chân núi và các nơi xa xa nhìn vào, thấy mấy trăm gian tự viện chỗ nào cũng khói lửa bốc lên ngùn ngụt.
Quân Nguyên dưới chân núi mới đầu thấy chiêng trống vang lừng đã chuẩn bị canh phòng, đến khi lửa bốc lên đều bàn nhau:
- Không xong, bọn man tử nổi lửa đốt chùa, chắc toan đào tẩu.
Du Liên Châu dẫn trên một trăm năm mươi người khinh công trác tuyệt, từ phía bên trái núi Thiếu Thất chạy xuống. Chạy đến lưng chừng núi thì đã nghe quân Nguyên quát tháo reo hò, dàn thành trận đuổi theo. Mọi người chạy tứ tán thành thử quân Nguyên không sao có thể tập trung cung tên mà bắn được. Nhóm thứ hai do Trương Tùng Khê dẫn đầu, nhóm thứ ba do Ân Lê Đình chỉ huy, người nào trên lưng cũng mang một cái bọc to, bên trong nếu không là thanh gỗ thì cũng là quần áo. Quân Nguyên trông thấy lại tưởng bọn họ bỏ chùa chạy thục mạng, tên bắn trúng những bao đó không xuyên qua được. Trong khói lửa mịt mù quân Mông Cổ không biết rõ có bao nhiêu người nên chia ra một vạn quân đuổi theo còn hơn một vạn nữa vẫn đóng tại chỗ đề phòng biến cố.
Trương Vô Kỵ nói với Dương Tiêu:
- Dương tả sứ, tướng chỉ huy Thát tử điều binh khá giỏi, không dùng toàn quân truy kích, thế mới thật phiền.
Dương Tiêu đáp:
- Đúng thế, quả là đáng lo.
Bỗng nghe dưới chân núi tiếng tù và vang động, hai nghìn quân Nguyên hai bên sườn núi đánh lên, đường núi gập ghềnh hiểm trở vậy mà những con ngựa nhỏ bé của người Mông Cổ vẫn chạy như bay, trường mâu thiết giáp, thế quân thật uy mãnh. Đợi cho quân tiên phong Mông Cổ tới sát bên sơn đình ở ngang núi, Trương Vô Kỵ phất tay một cái, người trong Liệt Hỏa Kỳ hai bên liền xông ra, nằm phục dưới đám cỏ. Đến khi quân Nguyên tiến thêm chừng hơn trăm trượng nữa, Tân Nhiên huýt một tiếng còi, dầu thô trong các ống phun liền phụt ra, lửa bùng lên, cháy lem lém ngay vào những con ngựa. Đoàn ngựa đau quá kinh hãi hí vang lên, hơn một nửa lăn xuống dưới núi, lập tức trận thế loạn cả lên.
Quân Nguyên kỷ luật nghiêm minh, tiền đội tuy thua nhưng hậu đội không vì thế mà tan vỡ, lại ra lệnh hơn ba nghìn binh sĩ bỏ ngựa chạy bộ tấn công lên. Liệt Hỏa Kỳ lại phun lửa ra lại đốt cháy mấy trăm người, những người còn lại vẫn tiếp tục ùa tới. Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương vẫy chiếc cờ đen, nước độc phun ra, kế đó Hậu Thổ Kỳ ném độc sa xuống đánh cho quân Nguyên tan tác. Tuy cũng có mấy trăm tên quân Mông Cổ lên được trên núi nhưng đều bị Nhuệ Kim, Cự Mộc Kỳ tiêu diệt.
Bỗng nghe dưới chân núi tiếng trống đánh thật gấp gáp, năm nghìn người giương lá chắn lên, dàn hàng ngang như một bức tường sắt từ từ tiến lên. Việc như thế khiến cho lửa nóng, nước độc, cát độc không làm gì được nên Cự Mộc Kỳ vội tiến lên giao chiến, xem ra chỉ phá vỡ được vài lỗ thủng không ăn thua gì.
Không Văn phương trượng thấy sự tình khẩn cấp nói:
- Trương giáo chủ, xin các vị mau rút đi để bảo tồn nguyên khí võ lâm Trung Nguyên. Hôm nay có thua thì mai sau còn có cơ phản công trở lại.
Trong cơn hoảng hốt, bỗng nghe dưới chân núi tiếng chiêng vang dội, một hỏa tiễn bắn vọt lên trời, kế đến tiếng hò hét chém giết bốn bề nổi lên. Dương Tiêu mừng lắm, nói:
- Giáo chủ, viện binh của ta đến rồi.
Từ trên đỉnh núi nhìn xuống không thấy rõ tình hình bên dưới nhưng thấy khói bụi mù mịt, quân reo ngựa hí, hiển nhiên quân cứu viện tới rất đông. Trương Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:
- Quân cứu viện đến rồi, tất cả cùng xông ra.
Quần hùng trên núi ai nấy rút binh khí ra, xông xuống chém giết. Trương Vô Kỵ lại kêu lên:
- Các vị anh hùng, giết quan trước, giết lính sau.
Tất cả mọi người cùng reo lên:
- Giết quan trước, giết lính sau.
Quân Mông Cổ cứ mười người làm thành một đội, do một thập trưởng cai quản, lên trên có đội trăm người, đội nghìn người, đội vạn người, cứ từng lớp từng lớp, khi ra trận trên truyền xuống dưới chẳng khác thân thể chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy bàn tay, bàn tay chỉ huy ngón tay. Trương Vô Kỵ truyền lệnh giết các quan trưởng Mông Cổ, nếu như hai bên đối trận thì phép này khó mà thi hành nhưng hiện nay quân Mông Cổ đang dàn rộng trên sườn núi, quân địch tuy tinh nhuệ thật nhưng quan trưởng võ công làm sao bì được với những nhân vật võ lâm Trung Nguyên, nên chỉ chốc lát mấy tên thiên phu trưởng, bách phu trưởng đã bị giết chết. Một nhánh quân Mông Cổ lập tức loạn cả lên.
Bọn Trương Vô Kỵ xông tới lưng chừng núi, thấy dưới núi cờ xí bay tung, lá cờ phía nam trên có một chữ?Từ?, lá cờ phía bắc có một chữ?Thường? biết ngay là Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đã tới. Từ Thường hai người vốn ở đất Hoài Tứ, lúc đó may sao lại đang ở Dự Nam vừa nghe Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc truyền tin giáo chủ và quần hùng bị vây trên núi Thiếu Thất liền đem hết bộ thuộc, ngày đêm chạy tới cứu. Khi đó một dải từ Dự Nam cho chí Ngạc Bắc, quân Minh Giáo và quân Nguyên hỗn chiến đã nhiều năm, đất đai hai bên tranh nhau thành thế cài răng lược nên muốn đến là đến được ngay, thật là gần gũi nên chưa đầy hai ngày đã tới rồi. Quân sĩ theo Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đều là những người chinh chiến lâu năm nhiều kinh nghiệm, lại đông hơn nhiều nên liền ép quân Nguyên phải lùi về hướng tây.
Còn một vạn quân Nguyên đuổi theo đám hào sĩ giả vờ bỏ chùa mà chạy mãi đến tận sơn cốc. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình dẫn theo mấy trăm hảo hán khinh công trác tuyệt, vừa đánh vừa chạy vào trong thung lũng. Tên vạn phu trưởng quân Mông Cổ thấy trong sơn cốc ba mặt là vách đá dựng đứng, địa thế hung hiểm nhưng thấy bên địch nhân số chẳng bao nhiêu, dẫu bên trong thung lũng có mai phục chăng nữa thì cũng thừa sức đối phó nên liền xua quân đuổi cho nhanh.
Bọn Du Liên Châu chạy đến dưới chân vách đá, từ trên cao có sẵn mấy chục sợi dây thòng xuống từ bao giờ mọi người vội vàng trèo lên. Tên vạn phu trưởng thấy bị trúng kế vội ra lệnh lùi lại, ngờ đâu ngoài cửa thung lũng đã bị liệt hỏa, độc sa, vũ tiễn, độc thủy bắn tới như mưa, Cự Mộc Kỳ lại từng súc, từng súc gỗ đẩy lăn xuống, chặn mất đường đi rồi.
Ngay khi đó, lộ quân thứ hai của quân Nguyên thua chạy tới nơi thấy đường đi đằng trước đã bị chặn mất rồi liền tứ tán trèo lên các triền núi chung quanh đào tẩu. Trương Vô Kỵ và Từ Đạt trước sau tới nơi đều kêu lên:
- Tiếc quá!
Nếu như đã liên lạc được với nhau từ trước thì cứ để đạo quân thứ hai của Mông Cổ xua luôn vào trong thung lũng thì chỉ một chuyến là xong. Trương Vô Kỵ cũng không ngờ quân Nguyên chỉ chia ra một nửa đuổi theo, cũng không ngờ quân tiếp viện đến nhanh như thế. Dẫu sao thì chỉ huy quân chiến đấu không phải là sở trường của chàng, chiến pháp trong Vũ Mục Di Thư tuy hay thật nhưng vừa học đem ra ứng dụng ngay dù sao cũng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ, nếu như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân không kịp thời tới nơi thì kiếp số chùa Thiếu Lâm cũng khó tránh khỏi, còn một vạn quân Nguyên bị chặn trong sơn cốc cũng sẽ được lộ quân kia cứu thoát.
Từ Đạt liền sai quân vần đá chặn thêm ở cửa thung lũng, các đội cung tiễn trèo lên những mỏm đá, từ cao bắn xuống. Quân Nguyên lâm vào tuyệt địa, không có cách gì chống trả chỉ còn nước trốn sau những tảng đá. Chẳng mấy chốc Thường Ngộ Xuân cũng đem binh tới nơi, hội kiến với Trương Vô Kỵ, lâu ngày xa nhau nay gặp lại hai người hết sức vui mừng. Thường Ngộ Xuân oang oang nói:
- Mau giỡ đá ra, mình xông vào giết sạch bọn Thát tử.
Từ Đạt cười:
- Trong sơn cốc không gạo không nước, chỉ bảy tám ngày, Thát tử cũng chết khát, chết đói việc gì phải để các cách em mất công ra tay?
Thường Ngộ Xuân cũng cười:
- Thế nhưng tự tay mình giết vẫn thích hơn.
Y tuổi tác tuy hơi lớn hơn Từ Đạt nhưng bình thời vẫn phục Từ Đạt mưu trí, lại thấy Trương Vô Kỵ phụ họa với Từ Đạt nên không bàn thêm gì nữa.
Từ Thường hai người chinh chiến lâu năm nên lệnh lạc gì cũng đều chu đáo đâu ra đấy. Trương Vô Kỵ biết mình kém xa nên mời Từ Thường hai người chỉ huy, tìm kiếm giết sạch những quân Nguyên bỏ chạy.
Đêm hôm đó tiếng reo hò vang động chân núi Thiếu Thất, nghĩa quân Minh Giáo cùng anh hùng tứ xứ ăn mừng chiến thắng. Quần hùng mấy hôm liền ở trong chùa Thiếu Lâm ăn toàn đồ chay, mồm miệng thấy nhạt thếch, nay được rượu thịt no nê, ai nấy ăn đến căng cả bụng.
Trong tiệc Trương Vô Kỵ hỏi lại Thường Ngộ Xuân thân thể độ này thế nào, có theo những toa thuốc chàng cắt mà chữa trị không. Thường Ngộ Xuân cười ha hả nói:
- Giáo chủ chớ có lo lắng, lão Thường này khỏe như trâu, mỗi bữa ăn ba cân thịt, sáu chén cơm, đi đánh trận ba ngày ba đêm liền không ngủ cũng chẳng hề hấn gì.
Nói như thế ý bảo chẳng cần phải thuốc thang cho thêm phiền. Trương Vô Kỵ nghĩ đến lời Hồ Thanh Ngưu năm xưa nói, khẩn khoản khuyên ông ta nên uống thuốc, giữ gìn sức khỏe. Thường Ngộ Xuân chỉ ậm ừ vâng dạ nhưng trong bụng chẳng coi vào đâu.
Từ Đạt rót đầy một chén rượu bưng đến trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:
- Chúc mừng giáo chủ, xin cạn chén rượu này.
Trương Vô Kỵ cầm lấy uống cạn, Từ Đạt nói tiếp:
- Thuộc hạ vẫn thường khâm phục giáo chủ can đảm hơn người, võ công tuyệt luân ngờ đâu dùng binh lại thần diệu đến thế, thực là phúc của bản giáo, là cái may của dân đen.
Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:
- Từ đại ca, đại ca chẳng nên khen ngợi tôi làm gì. Chiến thắng hôm nay, trước là Từ Thường hai vị đại ca đến thật thần tốc, thứ đến nhờ lời dậy bảo để lại của Nhạc Vũ Mục, tiểu đệ hoàn toàn chẳng có chút công lao nào.
Từ Đạt ngạc nhiên hỏi:
- Di giáo của Nhạc Vũ Mục là sao? Xin giáo chủ giảng rõ cho.
Trương Vô Kỵ móc trong túi ra một cuộn giấy mỏng màu vàng, chính là Vũ Mục Di Thư dấu trong thanh đao Đồ Long, lật đến tiết Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn[2] đưa cho Từ Đạt coi. Từ Đạt hai tay cầm lấy, đọc kỹ một lượt, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa bội phục, thở dài nói:
- Vũ Mục dụng binh như thần, người đời sau thật không sao theo kịp. Nếu như Nhạc Vũ Mục còn sống đến hôm nay, tất lãnh hào kiệt trung nguyên, lo gì không đuổi được quân Thát tử trở về sa mạc phía bắc.
Nói xong cung kính giao lại di thư. Trương Vô Kỵ không cầm nói:
- Võ lâm chí tôn, Bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, Mạc cảm bất tòng. Nghĩa thực sự của mười sáu chữ đó đến nay ta mới hiểu. Gọi là?võ lâm chí tôn? không phải là bản thân thanh đao mà là ở di thư dấu trong thanh đao này. Nếu dùng binh pháp này đối phó với địch đánh thể nào cũng đánh đâu được đó nên mới gọi là?hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng?. Còn như chỉ riêng một thanh đao mà thôi thì làm thế nào mà hiệu lệnh được thiên hạ? Từ đại ca, bộ binh thư này ta tặng cho đại ca đó, mong đại ca nối chí Nhạc Vũ Mục, đường mây thẳng tiến, thu phục giang sơn.
Từ Đạt giật mình kinh hãi, vội nói:
- Thuộc hạ có tài đức gì mà dám nhận món quà hậu hĩ như thế của giáo chủ?
Trương Vô Kỵ nói:
- Từ đại ca chớ có từ chối. Ta vì trăm họ mà giao binh thư này lại cho đại ca.
Từ Đạt tay run run cầm lấy binh thư. Trương Vô Kỵ nói tiếp:
- Trong võ lâm truyền ngôn còn hai câu nữa:?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong??. Nay kiếm Ỷ Thiên gãy làm hai rồi nhưng về sau thể nào cũng nối lại được. Bên trong kiếm có dấu một bộ võ công bí cập thật là ghê gớm, ta cũng hiểu được chân ý của hai câu này là binh thư để đuổi quân Thát tử thế nhưng nếu có người nào sau này chấp chưởng đại quyền nhưng rồi tác oai tác phúc, lấy bạo ngược thay bạo ngược, bách tính lại chịu lầm than thì thể nào cũng có một vị anh hùng tay cầm kiếm Ỷ Thiên đến lấy đầu bạo chúa. Kẻ thống lãnh bách vạn hùng binh quyền khuynh thiên hạ nhưng chưa chắc đã chống đỡ nổi một cái đánh của kiếm Ỷ Thiên, câu đó mong đại ca ghi nhớ.
Từ Đạt mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên lưng không dám từ chối nữa nói:
- Thuộc hạ cẩn tuân lệnh chỉ của giáo chủ.
Y cầm Vũ Mục Di Thư để trên bàn, cung kính lạy bốn lạy rồi bái tạ Trương Vô Kỵ đã ban tặng cho quyển sách. Quả nhiên từ đó Từ Đạt dụng binh như thần, liên tiếp đánh bại quân Nguyên, sau cùng thống lãnh quân đội đánh lên phương bắc, đuổi được người Mông Cổ ra ngoài biên ải, uy chấn vùng mạc bắc lập nên công nghiệp hiển hách một thời.
Từ đó anh hùng Trung Nguyên đều nức lòng qui phục Minh Giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ đến đâu không ai không theo. Mấy trăm năm qua Minh Giáo bị người đời chê trách, coi như yêu ma dâm tà, kể từ đại biến long trời lở đất này trở nên thủ lãnh quần hùng, trung hưng được cơ nghiệp của con cháu Hán tộc. Tuy về sau Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, thi hành gian mưu lên ngôi hoàng đế nhưng những người phò tá y đều là người trong Minh Giáo cho nên quốc hiệu không thể không xưng là nhà Minh. Minh triều từ Hồng Võ nguyên niên Mậu Thân cho tới Sùng Trinh năm thứ mười tám Giáp Thân[3], tổng cộng hai trăm bảy mươi bảy năm cũng nhờ Minh Giáo mà có.
Quần hùng vui say đến tận sáng, ai nấy túy lúy mới thôi. Đến quá trưa, mọi người lục tục cáo từ hai vị thần tăng Không Văn, Không Trí. Trương Vô Kỵ thấy đệ tử phái Nga Mi tả tơi tan tác, trong lòng thương hại, thấy Tống Thanh Thư vẫn còn nằm trên cáng, không biết sống chết ra sao, đến gần nói với Tĩnh Tuệ:
- Để tôi xem thương thế Tống đại ca thế nào!
Tĩnh Tuệ lạnh lùng đáp:
- Rõ khéo mèo khóc chuột, đừng có giả nhân giả nghĩa.
Chu Điên đứng gần ngay đó, nhịn không nổi chửi lại ngay:
- Giáo chủ ta chỉ vì chút tình cũ với chưởng môn các ngươi cho nên mới trị thương cho họ Tống kia, chứ cái thứ khi sư phản phụ này, ai cũng chỉ muốn đem giết quách cho xong. Con mụ ác ni cô kia còn lèm bèm cái gì?
Tĩnh Tuệ muốn cãi lại vài câu nhưng thấy Chu Điên mặt mày hung ác, thần sắc bặm trợn, chỉ sợ y không biết phải quấy ra tay đánh mình thì thiệt vào thân, nên cố nén lòng, cười khẩy nói:
- Phái Nga Mi ta đời này truyền đời khác, chưởng môn nhân đều là phận nữ nhi băng thanh ngọc khiết. Chu chưởng môn nếu không phải là hoàng hoa khuê nữ giữ mình như ngọc thì làm chưởng môn bản phái làm sao được? Hừ, Tống Thanh Thư tên gian tặc đó ở trong bản phái chỉ làm ô danh cho Chu chưởng môn. Lý sư điệt, Long sư điệt, mau đem gã này trả lại cho phái Võ Đương.
Hai tên đệ tử Nga Mi liền đáp lời, khiêng cái cáng đến trước mặt Du Liên Châu, bỏ đó rồi đi về.
Ai nấy ngạc nhiên khôn xiết, Du Liên Châu nói:
- Cái ... cái gì? Y không phải là trượng phu của chưởng môn các ngươi sao?
Tĩnh Tuệ hậm hực đáp:
- Hừ, chưởng môn chúng ta có coi cái gã này vào đâu? Chưởng môn bực mình chuyện Trương Vô Kỵ thay lòng đổi dạ, đang hôn lễ bỏ đi làm nhục bản phái trước mặt anh hùng thiên hạ nên giả vờ gọi tên tiểu tử này là chồng. Nếu biết ... nếu biết ... hừ hừ, nếu sớm biết thế, chưởng môn chúng ta việc gì phải chịu cái tiếng xấu làm chi? Xem ra ... xem ra ...
Trương Vô Kỵ đứng bên nghe mà sững sờ, nhịn không nổi tiến lên hỏi:
- Sư thái nói Tống phu nhân ... nàng ... nàng thực ra không phải Tống phu nhân sao?
Tĩnh Tuệ quay đầu sang chỗ khác, hậm hực nói:
- Ta không thèm nói chuyện với ngươi.
Ngay lúc đó, Tống Thanh Thư nằm trên cáng khẽ động đậy, rên lên mấy tiếng:
- Giết ... giết được Trương Vô Kỵ chưa?
Tĩnh Tuệ cười nhạt:
- Thôi đừng mơ ngủ. Chết đến nơi rồi còn ham chuyện viển vông.
Ân Lê Đình thấy Tĩnh Tuệ giận bừng bừng, nói năng không rõ ràng nên hỏi nhỏ một nữ đệ tử của phái Nga Mi là Bối Cẩm Nghi:
- Bối sư muội, đầu đuôi ra thế nào?
Bối Cẩm Nghi năm xưa giao tình rất thân với Kỷ Hiểu Phù, nghe ông ta hỏi, trầm ngâm giây lát rồi nói:
- Tĩnh Tuệ sư tỉ, Ân lục hiệp không phải người ngoài, tiểu muội nói cho ông ta nghe có được không?
Tĩnh Tuệ đáp:
- Cái gì mà người ngoài với chẳng người trong? Không phải người ngoài cũng nói, người ngoài lại càng nên nói. Chu chưởng môn của chúng ta thanh bạch, không có liên hệ gì đến tên gian đồ họ Tống kia. Các ngươi thấy rõ thủ cung sa[4] trên cánh tay chưởng môn rồi, chuyện này cần phải cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ biết, để khỏi làm tổn hại đến qui củ của phái Nga Mi chúng ta hơn trăm năm nay ...
Ân Lê Đình nghĩ thầm:?Vị Tĩnh Tuệ sư thái này đầu óc xem ra không được minh bạch cho lắm, nói năng chẳng có đầu có đuôi gì cả?. Ông quay sang nói với Bối Cẩm Nghi:
- Bối sư muội, nếu đã như thế vậy nói cho rõ ràng. Tống sư điệt của ta vì sao lại gia nhập quí phái, có can hệ thế nào với quí chưởng môn để cho tiểu huynh mai này bẩm lại với sư phụ. Việc này có quan hệ hai phái Nga Mi và Võ Đương, nếu không tổn thương hòa khí hai phái thì thật hay.
Bối Cẩm Nghi thở dài nói:
- Cứ như võ công, nhân phẩm của vị Tống thiếu hiệp này, trong võ lâm quả thật hiếm có, nhưng cũng chỉ vì si tình mà rơi vào nghiệp chướng. Dường như chưởng môn nhân có hẹn, đợi đến khi giết được Trương Vô Kỵ rồi, rửa được cái nhục bỏ ngày cưới mà đi thì sẽ thành hôn với y. Vì thế y cam tâm đầu nhập bản phái, để được chưởng môn dạy cho võ công kỳ diệu. Hôm trước ngay giữa anh hùng đại hội, chưởng môn đột nhiên tự xưng mình Tống phu nhân, là vợ của Tống thiếu hiệp, mọi người trong bản phái đều thật ngạc nhiên. Hôm đó chưởng môn uy chấn quần hùng, nhiếp phục các môn phái ...
Chu Điên liền chen vào:
- Đó là giáo chủ chúng ta cố ý nhường đấy thôi có gì mà khoe khoang.
Bối Cẩm Nghi không thèm để ý đến y, nói tiếp:
- Tuy đệ tử bản phái ai nấy hết sức cao hứng nhưng đến tối hôm đó, mọi người mới hỏi ba chữ Tống phu nhân đó là như thế nào mà ra. Chưởng môn nhân mới lộ cánh tay trái ra, thản nhiên nói:?Mọi người hãy nhìn đây?. Chúng tôi ai ai cũng thấy rõ, trên cánh tay điểm thủ cung sa vẫn đỏ chon chót như xưa, quả nhiên vẫn là một xử nữ giữ mình trong trắng. Chưởng môn nhân nói rằng:?Ta tự xưng Tống phu nhân, chẳng qua chỉ là cái kế quyền nghi nhất thời, cốt để chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ, khiến cho y tâm thần bất định, khi tỉ võ mới thừa cơ mà thắng được y. Tên tiểu tử đó võ công trác tuyệt, ta xem ra không sao bằng y được. Nếu so với anh danh của bản phái thì cái tiếng của ta nào có sá gì?