Đoàn người đi được độ hơn một trăm dặm, giữa sa mạc liền dừng lại nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ phía tây mơ hồ vọng về tiếng leng keng, leng keng kim loại chạm nhau, trong bụng thảng thốt, lập tức len lén trở dậy, đi về phía thanh âm truyền tới. Được hơn một dặm, chàng thấy một bóng người mảnh khảnh di động dưới ánh trăng, vội tiến tới, kêu lên:
- Tiểu Siêu, sao cô lại tới đây?
Bóng người đó chính là Tiểu Siêu. Nàng đột nhiên gặp lại Trương Vô Kỵ, òa lên khóc, sà vào lòng chàng, nức nở không nói gì. Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ lên đôi vai, nói:
- Thôi em ngoan, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa.
Tiểu Siêu dường như bao nhiêu nỗi niềm bây giờ mới có dịp phát tiết, lại càng khóc lớn thêm, thổn thức:
- Công tử đi đâu, em... em sẽ đi theo đó.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô bé này cha mẹ mất cả rồi, lại bị cha con Dương tả sứ nghi ngờ, mười phần đáng thương. Có lẽ vì mình đối với cô ta ôn hòa trìu mến, nên cô ta mới quyến luyến không muốn rời”. Chàng bèn nói:
- Được rồi, đừng khóc nữa, vậy tôi mang cô cùng đi hải ngoại nhé.
Tiểu Siêu mừng quá, ngẩng đầu lên, dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt xinh đẹp nhỏ nhắn của nàng như phủ một lớp lụa mỏng, những giọt lệ chưa khô lấp lánh, đôi mắt xanh như màu nước biển dường như tỏa ra một nỗi bồi hồi. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
- Tiểu Siêu, mai này lớn lên cô thể nào cũng cực kỳ xinh đẹp.
Tiểu Siêu hỏi lại:
- Sao công tử biết?
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng vó ngựa lộp bộp, một đại đội nhân mã từ tây sang đông, chạy vụt qua, ít ra cũng phải hơn trăm con. Qua một lúc sau, Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu trước sau chạy đến, nói:
- Giáo chủ, trong đêm hôm khuya khoắt có đại đội nhân mã chạy như thế, không chừng có địch ý với bản giáo.
Trương Vô Kỵ bảo Tiểu Siêu đi đến gặp bọn Bành Oánh Ngọc, còn mình cùng Dương Vi hai người chạy về phía có tiếng vó ngựa để tra xét. Đi đến gần, quả nhiên trên sa mạc còn một dãy vết chân ngựa. Vi Nhất Tiếu cúi xuống xem, bốc một nắm cát lên, nói:
- Có vết máu.
Trương Vô Kỵ cũng bốc một nắm cát đưa lên mũi, quả nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Ba người theo vết chân ngựa đến ba bốn dặm, Dương Tiêu bỗng thấy phía bên trái trong bãi cát có một mảnh đao gãy, vội cầm lên xem, thấy cán đao có khắc ba chữ “Phùng Viễn Thanh”, hơi trầm ngâm, nói:
- Đây là người của phái Không Động. Thưa giáo chủ, có lẽ phái Không Động dự bị ngựa xe tại chỗ này để về Trung Nguyên.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Từ Quang Minh Đính xuống đã hơn nửa tháng, nếu như họ còn lẩn quẩn ở đây chẳng biết làm trò quỉ quái gì?
Ba người thấy là phái Không Động rồi, không thèm để ý nữa, quay về chỗ cũ nằm ngủ.
Đi được năm ngày, từ thảo nguyên trước mặt có một đoàn người đi đến, phần lớn mặc áo đen kiểu ni cô, nhưng cũng có bảy tám nam nhân. Hai bên đến gần, một ni cô the thé kêu lên:
- Đây là ác tặc của ma giáo.
Cả bọn lập tức rút binh khí, tản ra nghinh địch. Trương Vô Kỵ thấy đây là người của phái Nga Mi, không hiểu sao đã đi rồi còn quay trở lại, mà những người này chàng chưa gặp bao giờ nên cao giọng nói:
- Các vị sư thái có phải là môn hạ phái Nga Mi chăng?
Một ni cô người nhỏ bé vượt đám đông tiến ra, gay gắt hỏi:
- Ác tặc ma giáo kia, hỏi cái gì? Mau ra đây chịu chết.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sư thái thượng hạ xưng hô ra sao? Cớ sao lại nổi giận như thế?
Ni cô đó quát lớn:
- Ác tặc, thứ như ngươi mà dám hỏi danh hiệu ta ư? Ngươi là ai?
Vi Nhất Tiếu phóng vụt ra, vào thẳng đám đông, điểm huyệt hai nam đệ tử, nắm cổ cả hai người, chạy thẳng ra ngoài xa, ném xuống đất, rồi lại chạy về chỗ cũ. Hành động đó chẳng khác gì chim cắt bắt mồi, nhanh không thể tả. Y cười khẩy mấy tiếng, nói:
- Vị này là Trương giáo chủ của Minh giáo, người võ công đệ nhất đời nay, một kỳ nam tử can đảm vô song, thống suất Tả Hữu Quang Minh Sứ Giả, Tứ Đại Hộ Giáo Pháp Vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, đã từng đuổi phái Nga Mi xuống núi, đoạt thanh bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái, với một nhân vật như thế có đủ để hỏi pháp danh của sư thái hay chăng?
Y nói một thôi một hồi, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy đều kinh hãi, lại vừa mới thấy Vi Nhất Tiếu trổ chút công phu ngoài sức tưởng tượng như thế, còn ai dám hoài nghi lời nói của y. Ni cô trung niên kia lấy lại bình tĩnh rồi nói:
- Các hạ là ai?
Vi Nhất Tiếu đáp:
- Tại hạ họ Vi, ngoại hiệu là Thanh Dực Bức Vương.
Trong phái Nga Mi có mấy tiếng kêu lên hoảng hốt, bốn người vội chạy đến xem hai gã đồng môn vừa bị Vi Nhất Tiếu điểm huyệt vứt ngoài xa. Vi Nhất Tiếu nói:
- Phụng Trương giáo chủ hiệu lệnh, Minh giáo và lục đại môn phái chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ giao hảo với nhau. Quí đồng môn cũng may lắm đó nên Vi Bức Vương lần này tha không hút máu họ đâu.
Từ khi y được Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công chữa thương, không những trừ hết âm độc Huyễn Âm Chỉ mà những độc khí từ trước tích tụ cũng hết đi quá nửa, nên không cần phải hút máu kháng hàn mỗi khi hành công vận kình.
Bốn người đó dìu hai đồng môn bị điểm huyệt kia về, đang định tìm cách giải huyệt chữa trị, bỗng nghe tách tách hai tiếng, tiếp theo nghe tiếng bay vút trong không khí, hai viên sỏi nhỏ đã bắn tới, trúng ngay huyệt đạo hai người kia, lập tức giải khai ngay các nơi bị điểm. Đó là Dương Tiêu dùng Đạn Chỉ Thần Thông[1] ngược lại với công phu Trịch Thạch Điểm Huyệt[2].
Ni cô trung niên kia thấy đối phương người cũng không ít, mà chỉ mới hai người lộ chút tài năng, võ công đã cao siêu ghê gớm, nếu như động thủ, không thể nào không bị đánh tan tành. Thành thử dù tám chữ “chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ” không biết thật hay giả cũng nói:
- Bần ni pháp danh Tĩnh Không. Các vị có thấy sư phụ chúng tôi đâu không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôn sư từ Quang Minh Đính xuống núi đã hơn nửa tháng, chắc lúc này đã vào Ngọc Môn Quan rồi đó. Các vị từ phía đông lại, không lẽ trên đường không gặp nhau hay sao?
Một người đàn bà chừng khoảng ba mươi ở đằng sau Tĩnh Không liền nói:
- Sư tỉ đừng nghe y nói láo, chúng ta chia ba ngả tiếp ứng, có hỏa tiễn làm tín hiệu liên lạc, lẽ nào trên đường lại hụt không bắt gặp nhau?
Chu Điên thấy người kia ăn nói vô lễ, muốn dạy cho mấy câu bèn nói:
- Cái đó cũng lạ thật...
Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:
- Chu tiên sinh đừng chấp nhất bà ta làm chi. Bọn họ không kiếm thấy sư phụ, dĩ nhiên nóng ruột.
Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, nói:
- Gia sư và anh em đồng môn có phải đã vào tay Minh giáo rồi chăng? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, việc gì phải dấu diếm?
Chu Điên cười nói:
- Thôi nói thực cho các người nghe, phái Nga Mi không lượng sức mình, đến đánh Quang Minh Đính, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống đều bị bắt cả rồi, hiện nay đang nhốt dưới thủy lao, để cho họ ăn năn sám hối mười năm tám năm, đến lúc đó có thả hay không còn tùy.
Bành Oánh Ngọc vội nói:
- Các vị đừng nghe vị Chu huynh này nói giỡn. Diệt Tuyệt sư thái thần công cái thế, môn hạ đệ tử ai ai võ công cũng cao cường, làm sao lại lạc vào tay Minh giáo cho được? Lúc này hai bên quí phái và bản giáo đã ngừng chiến giảng hòa với nhau, các vị trở về núi Nga Mi đi, tự nhiên sẽ gặp.
Tĩnh Không nửa tin nửa ngờ, chần chừ không thể quyết định được. Vi Nhất Tiếu nói:
- Vị Chu huynh này thích nói đùa, không lẽ đường đường địa vị giáo chủ tôn quí của bản giáo cũng lại đánh lừa tiểu bối hay sao?
Người đàn bà trung niên kia lại nói:
- Trước nay ma giáo quỉ kế đa đoan, gian trá giảo hoạt, lời nói làm sao tin cho được?
Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương liền phất tay một cái, lập tức Ngũ Hành Kỳ giãn ra xa xa, sau đó lại bao vây trở lại. Cự Mộc ở phía đông, Liệt Hỏa tại phía nam, Nhuệ Kim tại phía tây, Hồng Thủy tại phía bắc, còn Hậu Thổ thì ở bên ngoài di động tiếp ứng, vây chặt tất cả người của phái Nga Mi.
Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
- Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương, chỉ cần một mình ta ra tay, là đã có thể bắt được tất cả bọn tiểu bối chúng bay rồi. Minh giáo hôm nay thủ hạ lưu tình, những người ít tuổi các ngươi sau này ăn nói cho có ý tứ.
Mấy câu đó oang oang vang động, chấn động đến nỗi những người của phái Nga Mi ù cả tai, tâm thần hoảng hốt, không tự chế nổi. Chỉ thấy ông ta mày râu trắng xóa, thần uy lẫm lẫm, ai nấy đều kinh hãi.
Trương Vô Kỵ chắp tay nói:
- Khi nào gặp lại tôn sư, xin cho Trương Vô Kỵ của Minh giáo gửi lời hỏi thăm sức khỏe lão nhân gia.
Nói xong quay về hướng đông đi thẳng. Đường Dương đợi Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính cả bọn đi rồi lúc ấy mới vẫy tay triệu hồi Ngũ Hành Kỳ. Quần đệ tử phái Nga Mi thấy thế, trong bụng hãi thầm, đứng nhìn Trương Vô Kỵ và đồng bọn đi xa xa, miệng há hốc, không nói nên lời. Bành Oánh Ngọc nói:
- Giáo chủ, tôi xem chuyện này bên trong có điều bất thường. Diệt Tuyệt sư thái cùng đệ tử trở về theo hướng đông, không lẽ lại lạc không gặp môn nhân. Các môn các phái đi đường thể nào chẳng có tín hiệu, lẽ nào biến mất không để lại tăm hơi gì?
Mọi người vừa đi vừa bàn thảo, cảm thấy phái Nga Mi bao nhiêu người bỗng dưng mất tích trên sa mạc, quả thật khó hiểu, Trương Vô Kỵ lại lo lắng cho an nguy của Chu Chỉ Nhược, nhưng không tiện nói với người ngoài.
Hôm đó đi đến tối, chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên bỗng nói:
- Ở đây có điều gì khác lạ.
Y chạy đến một hàng cây thấp ở phía trước quan sát, giật một chiếc thuổng từ tay một giáo chúng bản kỳ rồi hì hục đào dưới đất. Một lát sau, quả nhiên lộ ra một xác người. Cái xác đó đã thối rữa, mặt mũi không còn nhận ra, nhưng cứ theo quần áo trên người, rõ ràng là đệ tử phái Côn Lôn. Các giáo chúng Hậu Thổ Kỳ liền nhất tề đào bới, trong chốc lát đã thành một cái hố lớn, trong hố để chất đống mười sáu tử thi, tất cả đều là người của phái Côn Lôn. Nếu như người của môn phái họ chôn cất, ắt không thể nào đơn sơ như thế, hiển nhiên là do kẻ địch mai táng. Xem xét những xác này, ai ai cũng có vết thương trên người. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho Hậu Thổ Kỳ chia ra từng người chôn cất riêng rẽ cho tử tế.
Cả bọn người nọ nhìn người kia, bụng ai cũng hỏi thầm: “Ai giết bọn này?”. Ngơ ngẩn một hồi, Bành Oánh Ngọc nói:
- Nếu không truy cứu cho đến đầu đến đũa, cái món nợ này thể nào cũng đổ lên đầu Minh giáo chúng ta.
Thuyết Bất Đắc lớn tiếng nói:
- Các anh em nghe đây, nếu như đánh nhau ban ngày ban mặt, mình có giáo chủ tất lãnh, tuy không dám nói là vô địch thiên hạ, nhưng cũng không thể thua ai. Thế nhưng tên bắn trộm thì khó mà đề phòng, từ rày trở đi, ăn uống gì, nghỉ ngơi ở đâu, chỗ nào cũng phải đề phòng địch nhân ám toán, hạ độc.
Tất cả đồng thanh đáp ứng. Đi một quãng nữa, thấy mặt trời đỏ như máu, trời từ từ tối dần, mọi người đang tính chuyện tìm chỗ nghỉ ngơi, bỗng thấy trên trời phía đông bắc có bốn con kên kên ở trên không bay lượn vòng vòng. Đột nhiên một con bay lao xuống, rồi lại bay vọt lên, lông rơi tơi tả, kêu kéc kéc mấy tiếng, hiển nhiên bị vật gì đánh trúng.
Từ khi chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh bị chết vì kiếm Ỷ Thiên, Trương Vô Kỵ đưa phó kỳ sứ Ngô Kình Thảo lên làm chính kỳ sứ, lúc này thấy chim kên kên có vẻ lạ lùng, liền nói:
- Để tôi đi xem.
Y dẫn theo hai người đồng bọn, vội chạy về phía đó. Một lúc sau, một giáo chúng chạy trở lại, bẩm với Trương Vô Kỵ:
- Bẩm cáo giáo chủ, Ân lục hiệp của phái Võ Đương bị rơi xuống dưới vực cát.
Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nói:
- Ân lục hiệp ư? Có bị thương không?
Người kia đáp:
- Dường như bị thương nặng, Ngô kỳ sứ thấy là Ân lục hiệp, sai thuộc hạ cấp tốc báo cho giáo chủ. Ngô kỳ sứ hiện đang xuống dưới sa cốc cứu giúp...
Trương Vô Kỵ lòng nóng như lửa đốt, không đợi y nói hết, vội vàng chạy đi. Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn lục tục chạy theo. Đi đến gần, thấy đó là một cái vực cát thật lớn, sâu đến hơn chục trượng, Ngô Kình Thảo tay trái ôm Ân Lê Đình, đi một bước lại sụp một cái, đang cố gắng hết sức để trèo lên. Trương Vô Kỵ liền theo vách cát trượt xuống, đưa tay nắm cánh tay phải của Ngô Kình Thảo, tay kia đưa vào thăm hơi thở, thấy vẫn còn thoi thóp, cũng hơi yên lòng, vội đón lấy Ân Lê Đình. Chàng nhảy mấy cái đã ra khỏi sa cốc, để ông ta nằm trên mặt đất, chăm chú xem kỹ, không khỏi vừa kinh hãi, vừa tức giận, không biết tính sao.
Chỉ thấy Ân Lê Đình hơi thở yếu ớt đầu gối, khuỷu tay, cổ chân, cổ tay, ngón chân, ngón tay tất cả các khớp xương đều bị đánh gãy không cử động được, đối phương hạ độc đến thế thực khiến người ta phải ghê rợn. Tuy nhiên thần trí vẫn chưa đến nỗi hôn mê, thấy Trương Vô Kỵ, mặt lộ vẻ vui mừng, nhả ra hai viên đá. Thì ra sau khi bị thương, chàng bị người ta vứt xuống vực cát, nhờ có nội lực tinh thuần, không đến nỗi chết ngay, kên kên sà xuống toan ăn thịt, bị chàng nghiêng đầu ngoạm mấy viên đá, phun ra chặn chúng lại, cứ khổ sở chống đỡ như thế đã mấy hôm nay.
Dương Tiêu thấy bốn con kên kên kia vẫn vòng vòng chưa chịu bỏ đi, chắc chúng đợi khi nào bỏ xác Ân Lê Đình rồi sẽ đáp xuống ăn thịt, liền nhặt bốn viên sỏi dưới đất, tách tách bắn liền mấy phát, cả bốn con kên kên đều rơi xuống, con nào đầu cũng bị viên sỏi bắn trúng vỡ tan.
Trương Vô Kỵ trước hết cho Ân Lê Đình uống thuốc an thần giảm đau, sau đó mói coi kỹ lại một lần nữa, thấy chân tay đến hơn hai mươi chỗ gãy, mỗi nơi gãy đều bị địch dùng trọng thủ, lấy ngón tay bóp nát nhừ, không cách nào nối lại được. Ân Lê Đình nói nhỏ:
- Chẳng khác gì tam ca, bị phái Thiếu Lâm dùng... Kim Cương chỉ lực... đánh đó...
Trương Vô Kỵ nhớ tới năm xưa nghe cha kể chuyện Du tam sư bá Du Đại Nham bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương chỉ lực bóp nát các khớp xương, phải nằm liệt trên giường hơn hai mươi năm nay. Lúc đó cha chàng chưa gặp mẹ chàng, không ngờ việc đã bao nhiêu năm, lại thêm một vị sư thúc bị thương vì Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm lần nữa. Chàng suy nghĩ một lát rồi nói:
- Lục thúc không phải lo lắng, chuyện này cứ giao cho điệt nhi, kẻ gian nhất định chạy trời không khỏi nắng. Kẻ nào trong phái Thiếu Lâm, lục thúc có nhận ra không?
Ân Lê Đình lắc đầu, mấy hôm nay chàng kiệt lực ráng sống, hơi sức không còn chút nào, lúc này trong lòng vừa hết lo, chịu không nổi lập tức ngất đi. Trương Vô Kỵ nghĩ đến thân thế mình, cha mẹ tự vẫn mà chết, cũng chỉ vì không nên không phải với Tam sư bá, bây giờ Lục sư thúc lại gặp nạn, nếu không ép được phái Thiếu Lâm giao ra kẻ gây nên tội lỗi, thì còn ra gì với hai vị Du Ân? Thì còn ra gì đối với song thân đã quá cố? Chàng thấy Ân Lê Đình tuy bất tỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại, chỉ có điều tay chân gãy khó mà nối lại được, xem ra sẽ chẳng khác gì Du Đại Nham.
Chàng kinh lịch chưa nhiều, thấy việc không quyết định được, phải kiếm chỗ nào thanh tĩnh suy nghĩ cho chín, bèn chắp tay sau lưng, đi ra đằng xa, trèo lên trên một cái gò nhỏ ngồi xuống, trong đầu hai ý nghĩ không ngừng xung đột: “Nên hay không nên lên chùa Thiếu Lâm đi tìm kẻ tội khôi họa thủ kia, để báo thù cho cha mẹ, tam sư bá, lục sư thúc? Nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận giao hung thủ ra thì mọi việc đều tốt đẹp, nếu không Minh giáo sẽ phải liên kết với phái Võ Đương, cùng đối phó với phái Thiếu Lâm? Mình đã cùng tất cả anh em cắt máu ăn thề, nhất quyết không đi sinh sự, tầm thù các môn phái bang hội khác, nhưng nay việc lại đến ngay với mình, chính mình lại vứt bỏ lời thề không lý gì nữa thì làm sao cho mọi người tuân phục được? Một khi đầu họa đã mở ra rồi, từ nay oán oán tương báo, e rằng không biết bao nhiêu đời máu chảy, bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng vì chuyện này?”.
Lúc này trời đã tối hẳn, người của Minh giáo liền đốt lửa lên, làm lò nấu ăn. Trương Vô Kỵ vẫn ngồi trên ngọn đồi, nhìn trăng lên dần, vẫn không định được chủ ý, mãi đến nửa đêm, mới quyết định: “Phải lên núi Thiếu Lâm gặp chưởng môn Không Văn thần tăng, nói rõ đầu đuôi, yêu cầu ông ta đưa ra một biện pháp”. Nghĩ thế xong lại tưởng: “Nếu như mình nói xong rồi không đến đâu, phải động thủ thì làm sao đây?”.
Chàng thở dài một tiếng, đứng lên, nghĩ thầm: “Ta tuổi còn trẻ, mới giữ nhiệm vụ lớn, gặp ngay một chuyện thật khó nghĩ, chỉ một lòng muốn bãi chiến, không tranh giành, thế nhưng những món nợ máu này lại ép mình phải tiến tới. Ta đảm đương trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, từ chối cũng không xong, bỏ đi cũng không được, từ nay còn bao nhiêu là lo buồn, khốn khổ thực không kể đâu cho xiết. Giá như không làm giáo chủ có phải sướng biết bao?”.
Chàng trở về bên đống lửa, mọi người tuy bụng đói, nhưng chưa ai dám cầm đũa ăn trước, vội vàng cung kính đứng lên. Trương Vô Kỵ thấy vậy áy náy, vội nói:
- Các vị từ rày về sau cứ dùng bữa tự nhiên, không phải đợi tôi làm gì.
Chàng đến thăm Ân Lê Đình, thấy Dương Bất Hối đang dùng nước nóng lau những vết thương, đang cho chàng ăn cháo. Ân Lê Đình thần trí mơ hồ, đột nhiên mắt mở to, trừng trừng nhìn Dương Bất Hối, kêu lên:
- Hiểu Phù muội tử, anh nhớ em biết là chừng nào, em có biết không?
Dương Bất Hối mặt đỏ bừng, thần sắc thật là bẽn lẽn, tay phải cầm muỗng nói nhỏ:
- Lục hiệp uống thêm vài thìa nữa.
Ân Lê Đình nói:
- Em hứa đừng bao giờ xa anh nữa nhé.
Dương Bất Hối nói:
- Được rồi, được rồi. Lục hiệp ăn thêm vài thìa rồi sẽ nói sau.
Ân Lê Đình dường như trong lòng hết sức vui sướng, vội há mồm ăn ngay. Hôm sau Trương Vô Kỵ truyền lệnh xuống, mọi người tạm thời đừng phân tán vội, tất cả cùng đi lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, hỏi cho ra nguyên ủy việc Ân Lê Đình bị thương rồi sẽ tính sau. Cả bọn Vi Nhất Tiếu, Chu Điên thấy Ân Lê Đình bị thương nặng như thế, trong bụng ai cũng bất bình, nghe giáo chủ bảo đi lên Thiếu Lâm vấn tội, đều lớn tiếng hoan hô. Dương Tiêu vì việc Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình hết sức thương cảm, tuy không nói ra nhưng trong bụng đã có chủ ý, quyết tâm hết sức vì chàng mà báo thù, lại bảo con gái cố gắng chăm lo săn sóc, bù lại phần nào lỗi lầm khi xưa.
Từ đó trên đường không gặp chuyện gì khác lạ. Ân Lê Đình lúc mê lúc tỉnh, Trương Vô Kỵ hỏi chàng bị thương thế nào, Ân Lê Đình ngơ ngẩn không kể rõ được, chỉ nói:
- Năm hòa thượng phái Thiếu Lâm vây đánh một mình ta. Đúng là võ công phái Thiếu Lâm không thể nào lầm được.
Chẳng bao lâu cả đoàn tiến vào Ngọc Môn Quan, liền bán hết lạc đà chuyển sang cưỡi ngựa, lại sợ người ngoài dòm ngó nên mua quần áo cải trang làm khách thương. Có người thì đánh xe lừa, giả vờ như chở theo hàng hóa, thuốc men.
Hôm đó sáng sớm mọi người đã ra đi, theo đường lớn Cam Lương mà đi, ánh mặt trời chói lọi, trời đã bắt đầu nóng. Đi được chừng hai giờ, thấy trước mặt một hàng dương liễu khoảng hai chục cây, ai nấy đều mừng rỡ, vội vàng thúc ngựa đi tới dưới bóng cây nghỉ ngơi.
Đến gần hơn, đã thấy dưới tàn cây có chín người ngồi đó, tám người đàn ông mặc quần áo kiểu thợ săn, bên hông đeo đao, lưng đeo cung tên, còn thêm năm sáu con chim ưng dùng để đi săn, lông đen móng sắc, hình dáng trông rất hiên ngang. Một người nữa là thanh niên công tử, mặc áo dài lam, phe phẩy quạt lông không dấu vẻ ung dung sang trọng.
Trương Vô Kỵ nhảy xuống ngựa, liếc nhìn thanh niên công tử kia một cái, thấy chàng ta tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, đôi mắt trắng đen rõ ràng, lấp loáng hữu thần, cái quạt trong tay cán làm bằng bạch ngọc, bàn tay cầm quạt cũng trắng không khác gì cán quạt. Bỗng mọi người không hẹn mà cùng nhìn xuống ngang hông công tử đó, thấy thắt lưng có khóa bằng vàng, đeo một thanh trường kiếm, trên cán kiếm có khắc hai chữ Ỷ Thiên theo kiểu triện. Nhìn kiếm đó, hình dáng dài ngắn, chính là thanh kiếm Ỷ Thiên mà Diệt Tuyệt sư thái đã dùng để đồ sát giáo chúng Minh giáo và Chu Chỉ Nhược đã dùng để đâm Trương Vô Kỵ một nhát suýt chết. Người trong Minh giáo ai nấy ngạc nhiên, Chu Điên nhịn không nổi toan lên tiếng hỏi. Ngay lúc đó, thấy trên đường cái từ phía đông có tiếng vó ngựa lộp cộp, một đoàn người cưỡi ngựa chạy ào tới.
Đoàn người đó là một đội quân Nguyên, khoảng chừng năm sáu chục người, lại có thêm khoảng trên trăm phụ nữ, bị quân Mông Cổ dùng thừng trói lôi theo. Những người đàn bà đó phần lớn chân yếu tay mềm, làm sao chạy kịp với ngựa, có người ngã lăn, liền bị kéo lê trên đất. Họ đều là người Hán, hiển nhiên là dân chúng bị đoàn quân Nguyên này bắt cóc, hơn nửa y phục rách bươm, có người lộ cả thân trên, khóc khóc mếu mếu, cực kỳ thảm thiết. Quân Nguyên có đứa tay cầm bình rượu, uống đã nửa tỉnh nửa say, có kẻ vung roi đánh túi bụi vào đám phụ nữ. Những tên quân Mông Cổ này lớn lên trên lưng ngựa, thuật đánh roi cực kỳ xảo diệu, roi vung ra lúc rút về đều cuốn một mảng quần áo của những người đàn bà. Những kẻ khác liền lớn tiếng reo hò, cười nói xí xố.
Người Mông Cổ xâm nhập Trung Quốc đã gần một trăm năm, trước nay vẫn coi người Hán chẳng bằng súc vật, nhưng ngay giữa ban ngày ban mặt làm trò dâm ô hối nhục thế này thì là điều ít thấy. Người trong Minh giáo ai nấy mắt như đổ lửa, chỉ chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh một tiếng, là lập tức xông ra giết bọn quân binh cứu người.
Thanh niên công tử kia bỗng nói:
- Ngô Lục Phá, ngươi ra bảo bọn chúng thả những người đàn bà ra, quấy rối như thế, còn ra cái giống gì nữa.
Thanh âm trong trẻo, vừa yểu điệu vừa nũng nịu, tưởng như giọng con gái. Một đại hán đáp lời: “Vâng”, cởi giây buộc một con ngựa vàng dưới gốc cây, nhảy lên lưng ra roi chạy lên, lớn tiếng quát:
- Này, ban ngày mà làm loạn như thế, các ngươi không có quan trưởng ước thúc hay sao? Mau thả đàn bà con gái ra ngay lập tức.
Một tên quan quân trong đám Nguyên binh giục ngựa chạy ra, mắt lờ đờ say, tay vẫn còn cắp một thiếu nữ, cười ha hả nói:
- Thằng chó chết kia không muốn sống hả, sao dám xen vào chuyện của các ông?
Đại hán nọ cười nhạt nói:
- Thiên hạ loạn lạc khắp nơi, cũng vì chúng mày không biết thương xót trăm họ mà ra cả, để ta dạy các ngươi một trận cho biết phép tắc.
Tên quân nọ đánh giá đám người dưới bóng cây, trong lòng hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm dân chúng mỗi khi thấy quan binh, chạy cho nhanh còn không kịp, còn bọn này không biết uống mật báo, ăn gan hổ hay sao mà lại dám can thiệp vào việc của quan quân? Y liếc qua thấy trên khăn đầu của công tử nọ có đính hai hạt châu to bằng quả long nhãn, lấp lánh phát quang, liền nổi lòng tham, cười lớn:
- Này chú thỏ con kia, đi theo ông, ta cho mày hưởng phúc.
Nói xong hai đùi thúc một cái, giục ngựa xông đến chàng thanh niên công tử. Chàng kia vốn dĩ mặt mày hòa hoãn, thấy bọn Nguyên binh bạo hành không nổi giận, bấy giờ nghe tên quân này vô lễ như thế, đôi lông mày hơi nhướng lên nói:
- Không để tên nào sống sót.
Tiếng “sót” vừa ra khỏi miệng, nghe vụt một tiếng, một mũi tên đã xuyên thủng ngực tên quân kia, chính là do một người thợ săn đứng bên cạnh chàng thanh niên bắn ra. Người đó phát tiễn thủ pháp thật nhanh nhẹn, kình lực lại mạnh, dường như là một cao thủ bậc nhất võ lâm, thợ săn tầm thường làm sao có tài như thế?
Chỉ nghe tách tách tách liên tiếp, cả tám người cùng bắn, quả thực có tài bách bộ xuyên dương, không mũi tên nào hụt, một mũi tên bắn chết một tên Nguyên binh. Bọn quân Nguyên thấy tình thế đột biến, giật mình kinh hoảng, nhưng vốn cung tên thuần thục nên lớn tiếng kêu la lập tức bắn trả. Bảy người thợ săn cũng đều nhảy lên lưng ngựa xông ra, cứ một mũi tên là một đứa, chỉ trong khoảnh khắc đã bắn chết trên ba chục tên. Những đứa còn lại thấy tình hình không ổn, luôn mồm kêu la, vội bỏ đám phụ nữ giục ngựa chạy ngay. Thế nhưng ngựa của tám người thợ săn đều là tuấn mã, chạy nhanh như gió đuổi theo, cứ tám mũi tên buông ra là có tám tên ngã xuống, đuổi chưa đầy một dặm, tất cả quân Mông Cổ không còn ai sống sót.
Thanh niên công tử kia cũng nhảy lên ngựa, giục ngựa chạy đi, không quay đầu nhìn lại lấy một lần. Y ra lệnh cho bộ thuộc trong nháy mắt giết hơn năm chục tên quân Mông Cổ, tưởng như ăn cơm uống nước thường ngày, không coi vào đâu cả. Chu Điên kêu lên:
- Này, này, hượm đã, cho tôi hỏi một câu.
Công tử kia không thèm để ý đến, do tám người thợ săn hộ vệ theo sau, chạy về hướng xa xa.
Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu nếu như thi triển khinh công đuổi theo, cũng có thể kịp ngựa đang chạy, hỏi chàng công tử này cho minh bạch, thế nhưng thấy tám người thợ săn kia thần tiễn sát địch như thế, vẻ đầy hiệp nghĩa, trong bụng ai cũng ngầm kính phục, không tiện mạo phạm đến họ. Mọi người bàn tán xôn xao nhưng không ai đoán ra được lai lịch của chín người này. Dương Tiêu nói:
- Thanh niên công tử kia rõ ràng là gái giả trai, còn những cao thủ ăn mặc như thợ săn kia đối với chàng ta cực kỳ cung kính. Tiễn pháp của tám người đó thật là thần diệu, không giống nhân vật của môn phái nào ở Trung Nguyên.