watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:03:0518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thanh Cung Mười Ba Triều 151 - Hết - Trang 7
Chỉ mục bài viết
Thanh Cung Mười Ba Triều 151 - Hết
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Tất cả các trang
Trang 7 trong tổng số 12

Hồi 159
TÂY THÁI HẬU ĐAU BỆNH MÁU

Qua ngày hôm sau, Lại bộ chiếu lệ đương nhiên, sau khi bổ Từ Thành làm đạo đài, phải dẫn vào triều để bệ kiến Hoàng thượng.

Hôm đó, Từ Thành ăn mặc chỉnh tề, thân đeo trào châu xủng xoảng bước vào, đứng đợi ở thiện điện (điện ở bên cạnh).

Lý Liên Anh đích thân cũng đi theo Từ Thành để chỉ vẽ cho Thành những lễ lạy khi gặp hoàng đế, và cách đối đáp lúc hoàng đế truyền hỏi.

Thành đương nhiên lúc này phải lưu tâm đến cực độ để nhớ cho thật kỹ. Không dám quên sót một chi tiết nhỏ nào.

Chẳng bao lâu, nội giám đưa thánh dụ ra, truyền lệnh cho Thiểm Trung đạo Từ Thành vào điện Dưỡng Tâm để kiến giá Thành nhân được chỉ, lật đật chạy tới điện Dưỡng Tâm.

Vừa bước vào trong, Thành nhìn lên điện thấy hai bên nội giám đứng thành hàng, chiếc rèm châu cuộn cao lên mài trên cao và sau đó, một người mặc y thường toàn màu vàng.

Từ Thành lúc này đứng quá xa, cho nên hình người mặc quần áo vàng, chỉ thấy lờ mờ không rõ. Nhưng Thành yên trí rằng đó chính là hoàng thượng của y.

Thành bỗng tự nhiên thấy lòng hoảng sợ, đôi chân run lên từng chập. Nhưng lúc này không phải là lúc lo lắng rụt rè nữa! Thế là Thành cắn răng quyết chữ liều, vội tiến lên vài bước để khấu kiến.

Thành làm Tam quy cửu khấu xong, liền nằm mọp trên mặt đất, chờ đợi thánh chỉ với đôi lời khuyến khích, để rồi sau đó tạ ơn mà lui ra.

Theo cựu chế của các triều đại trước thì chỉ có bấy nhiêu đó là xong! Lý Liên Anh đã chỉ dạy đúng như vậy cho Thành, nên Thành lấy làm yên tâm lắm, chỉ còn đợi mỗi một việc là lát nữa ra khỏi điện nhận đủ những lời chúc mừng của các bạn đồng liêu.

Giữa lúc Thành yên trí như thế và tỏ vẻ phây phây đắc ý, bỗng từ phía trên cao có tiếng vọng xuống:

- Ngươi là Từ Thành phải không?

Thành nghe tiếng hỏi, giật mình đánh thót một cái. Như một luồng điện vụt qua, hắn thầm nghĩ: Lý Liên Anh chưa từng bảo hắn chuyện bệ kiến rồi đối thoại bao giờ. Ấy thé mà lần này lại khác. Lỡ ra mà khi hoàng thượng hỏi, không đáp được thì thật hỏng bét! Nghĩ tới đây Thành đâm hoảng lớn, cảm thấy nguy là khác. Bởi thế, Thành quýnh quýnh mãi mới nói lên được có mỗi một tiếng "dạ"!

Từ phía trên, lại có tiếng buông xuống hỏi:

- Từ Thành! Trước đây ngươi làm nghề gì?

Thành đến lúc này lại càng hoảng! Ấp úng mãi, Thành mới mở được miệng, tâu lên:

- Nô tài bán đồ gỗ!

Quang Tự hoàng đế vừa nghe xong, quát rầm lên:

- Đã là thằng lái gỗ, tại sao ngươi không ngồi cưa cây đếm tiền mà lại đòi đi làm quan?

Thành càng hoàng nữa! Thành biết không thể nói dối, đành tâu thẳng ra:

- Thần thực không dám nói dối bệ hạ! Làm ăn buôn bán đâu có lời lãi bằng làm quan! Ấy chỉ vì thế mà thần muốn đi làm quan!

Quang Tự hoàng đế giận lắm, hỏi thêm:

- Người đi làm quan, muốn được lời lãi bao nhiêu?

Thành nằm phủ phục trên mặt đất, dập đầu xuống sàn nhà đến cốp một cái, mở miệng run run tâu:

- Nô tài chỉ cần lời được ba chục vạn quan tiền là đủ rồi!

Quang Tự hoàng đế quát hỏi thêm:

- Ngươi có biết tiền lương của một người đạo đài là bao nhiêu không?

Thành run bắn người lên, ấp úng tâu:

- Nô tài nghe nói làm quan mà nhờ vào lương thì chỉ có chết đói. Lúc làm quan, sẽ có bách tính đem đến phụng kính…

Nói đến đây, Thành thấy bọn nội giám ném cho hắn một tờ giấy và một cây bút. Rồi lại cũng tiếng quát hỏi khi nãy vọng xuống bảo hắn khai ngay thân thế.

Nghe lời phán này, Thành tự cảm thấy mắt hoa đầu váng, hồn phách như bay tận nơi đâu. Thành không dám khai rằng mình không biết chữ, tay cầm cây viết lông cán trúc, xem nặng đến ngàn cân không thể nào cất lên nổi, còn đầu thì vẫn úp sát xuống nền điện, không đám ngẩng lên.

Mấy tên nội giám đứng cạnh, lên tiếng giục. Thật đáng thương cho Thành, mồ hôi chảy xuống như tắm, quần áo ướt sũng như vừa mới ngoi từ dưới sông lên!

Thành ghì cây bút mãi một lúc lâu, mới vạch xong được có mỗi một nửa chữ Từ, nét xiêu bên này, nét vẹo bên kia, nhìn mãi chẳng giống chữ gì!

Bọn nội giám cầm nửa chữ Từ dâng lên. Người ta chỉ nghe tiếng cười nhạt và giọng nói mai mỉa của Quang Tự hoàng đế hắt mạnh vào mặt Thành:

- Ngay đến cả cái tên mình cũng không viết nổi, mà ngươi dám nghĩ tới chuyện làm quan để xoay tiền? Nếu cho ngươi đi làm quan, thì rồi đây ngươi cũng chỉ là một tên tham quan ô lại hại dân hại nước mà thôi! Cút ngay! Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!

Bọn nội giám được lệnh, chạy lại nắm ngay lấy tóc Thành kéo xềnh xệch ra ngoài như kéo một con heo, miệng lẩm bẩm rủa:

- Thằng bỏ mẹ! Chạy lẹ đi, không thì khốn kiếp đó, con ơi!

Tử Thành thấy có người xách bổng mình lên, lại có những lời lẽ như trên cảm thấy nhẹ hắn đi, gượng đứng dậy, lùi ra sau vài bước, rồi ôm đầu vun vút chạy ra y như một con chuột bị mèo đuổi.

Phía ngoài cổng, bọn thái giám đồng đảng với Lý Liên Anh vội chạy tới săn tin. Thành cúi gầm mặt xuống, cặp mắt lạc hẳn đi, nói một cách vô cùng thiểu não:

- Trăm sự nhờ Lý tổng quản cả thôi! Cái đầu lâu này mà còn thực cũng là chuyện lạ!

Bọn thái giám vội hỏi cớ sự, Thành liền kể lể từ đầu đến cuối chuyện vào bệ kiến của minh cho cả bọn nghe.

Câu chuyện Từ Thành về sau trở thành một trò cười cho thiên hạ, nhưng khi đến tai Lý Liên Anh, thì hắn lấy làm lạ lắm! Hắn tự nhủ ngày thường nếu có bọn ngoại quan được vào bệ kiến, thì hoàng thượng cũng chỉ hỏi qua loa nảo nhân tình, nào phong tục, hoặc nếu có viên quan nào mới bổ thì ngài cũng chỉ ban vài lời khuyên nhủ cổ lệ, chứ tuyệt nhiên chẳng hỏi tới chuyện nọ chuyện kia. Ấy thế mà nay Từ Thành vào bệ kiến, lại bị ngài lục vấn về tài năng học thức, thì nhất định phải có kẻ phá hoại, chẳng còn gì phải nghi ngờ nữa.

Nghĩ vậy xong, Lý Liên Anh vội đi ngay đêm đó tới nha môn Bộ lại để dò tin. Tại nơi đậy, Anh được thêm nhiều chi tiết khác: số là Từ Thành đã bị gạch tên, và bị thay thế do một tên người họ Lý, mà người vận động cho Lý chẳng phải ai xa lạ, chính là Văn Đình Thức.

Lý Liên Anh nghe được tin trên, trong lòng đã rõ chín, mười phần: Hắn nghiến răng ken két rủa Văn Đình Thức:

- Thằng khốn kiếp Văn Đình Thức! Mi đừng có ỷ đệ tử của mi làm đến quý phi mà phách lác! Việc này thế nào mi lại chả theo cửa ngõ của lưỡng phi Trân, Cẩn mà chạy chọt?

Hắn bèn tức khắc tìm cô em gái tính kế. Anh bảo cô em gái bịa đại ra câu chuyện như sau để rỉ tai Tây thái hậu:

- Trân, Cẩn lưỡng phi can thiệp vào ngoại chính (việc chính trị bên ngoài). Vì sư phó của hai nàng là Văn Đình Thức chủ trương quyết liệt chống Nhật, cho nên mới bảo hai nàng nằm bên trong to nhỏ ngày đêm cám dỗ hoàng đế, khiến ngài đâm ra cao hứng, gọi ngay Lý Hồng Chương chuẩn bị chiến tranh, đến nỗi về sau táng sử nhục quốc! Trân, Cẩn hai phi hành động như thế đâu có tốt gì!

Đáng thương cho hai nàng phi Trân, Cẩn vô cớ bị đánh không còn biết kêu vào đâu. May nhờ có Quang Tự hoàng đế cầu xin mãi mới được tha chết, chỉ còn bị giam cầm nơi lãnh cung.

Thủ đoạn của Lý Liên Anh kể cũng gọi được là hiểm độc, lợi hại! Nhưng Anh có lẽ không biết rằng vì Trân, Cần hai phi bị tù đày cầm cố, khiến Quang Tự hoàng đế lủi thủi quạnh hiu, không thiết tiêu khiển nơi đâu, ngài đã dậm chân nghiến răng bao lần, giận thù hắn đến tận xương tuỷ.

Có một hôm Quang Tự hoàng đế vừa mới nói chuyện với Khấu Liên Tài về việc Trân, Cẩn hai phi, bỗng có một tên tiểu thái giám ba chân bốn căng chạy tới. Hắn muốn nói mà như bị đứt hơi, không nói được ra lời!

Hoàng đế thấy tình hình có vẻ quái lạ, biết thế nào cũng có chuyện khác thường xảy ra, bất giác cả kinh, trống ngực đập kêu thình thịch. Ngài gặng hỏi tên tiểu thái giám ba lần chỉ thấy hắn chỉ vào phía dưới một bức hoạ vẽ tay, cố cho ngài chú ý tới hai chữ "Thái hậu!".

Đức Tông hoàng đế biết rằng Thái hậu có chuyện gì xảy ra rồi bèn vội đứng dậy chạy gấp vào cung. Bước chân vào hậu cung, hoàng đế chỉ thấy Lý Liên Anh cùng bọn Lý cô nương, Giao Tố Quân, Thọ Xương công chúa đang đứng thành hàng phía trước giường của Thái hậu, còn bà thì đang tựa nghiêng bên cạnh giường, sắc mặt vàng bệch ra như sáp ong, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng.

Hoàng đế bước lại gần thỉnh an. Thái hậu gật đầu vài cái, rồi vẫy tay bảo nhà vua lui, ngài chẳng hiểu ra sao, đành lủi thủi quay ra. Sau đó dò mãi tên nội giám trực nhật, ngài mới biết đêm qua, thái hậu bỗng nhiên kêu đau bụng, đau suốt mãi đến sáng sớm mà vẫn không dứt. Lý Liên Anh vội xin phép chạy đi gọi ngự y để chẩn trị, nhưng thái hậu quyết ý không cho. Về sau, đau quá không chịu nổi, Thái hậu lúc đó mới chịu.

Bắt mạch chẩn bệnh một lúc lâu, viên ngự y nhíu đôi lông mày vẻ ngại ngùng, lo lắng, ngập ngừng tâu:

- Bệnh này thực hết sức lạ! Hạ thần chẳng dám nói thẳng. Bởi vì rằng với tuổi của Thái hậu hiện nay, thì quyết không thể có cái bệnh này được!

Lý Liên Anh đứng một bên, nghe nói vậy, sợ viên ngự y nói toạc sự thật ra, vội quát báo:

- Thôi, khỏi phải nói nhiều! Bệnh của thái hậu, ai chả biết chỉ tại lao tâm lao lực gây ra khiến khí huyết suy nhược đó thôi! Ngươi làm ngự y há lại không biết bệnh như vậy sao?

Viên ngự y được lời Anh mớm cho, mừng quá, vội dạ, dạ lên mấy tiếng rồi nói tiếp:

- Quả đúng như lời Lý tổng quản đã nói!

Nói đoạn, viên ngự y đưa bút giấy ra, kê ngay một đơn thuốc bổ huyết, lạy tạ rồi bước ra ngoài.

Tên thái giám có việc phải đi, đo đó cũng không biết câu chuyện về sau ra sao. Mãi tới phiên trực sau, hắn mới biết Thái hậu đã hết đau bụng và lúc đó mới cho tên tiểu thái giám đi triệu hoàng đế tới.

Khổ cái tên tiểu thái giám chạy tới triệu lại không mở miệng nói được lời nào, khiến cho Quang Tự hoàng đế vò đầu bứt tóc mãi mà vẫn không đoán ra được chuyện gì!

Nhưng sau khi nghe tên thái giám kể lại đầu đuôi cặn kẽ, Quang Tự hoàng đế đã rõ được chín phần mười câu chuyện, nhất là hiểu được cái căn bệnh khó nói của Thái hậu, hoàng đế thở dài, quay về cung, kể hết mọi chuyện cho Khấu Liên Tài nghe.

Thì giờ thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc đã tới tháng mười. Ngày lễ vạn thọ của thái hậu đã trước mắt. Mặc dầu đã có một tờ chiếu ban xuống cho thần dân đình chỉ cuộc lễ khánh chúc, nhưng thực ra, đó chỉ là một cái cớ để che mắt thiên hạ mà thôi!

Cái trò vải thưa che mắt thánh đó, vốn là trò quá quen với bọn quan trường. Nói rằng không làm lễ vạn thọ, chính lại là nói tổ chức ngày khánh chúc đó. Đối với quan trường xưa nay, ai lạ gì cái trò tiều ấy!

Thực thế, đến ngày vạn thọ, nào đèn nào đuốc rực rỡ huy hoàng, treo khắp kinh thành: Người ta liệu còn có nhớ đến tờ chiếu ngày nọ?

Ba ngày trước lễ vạn thọ, trước cũng như sau Di Hoà viên, bốn bề đều xinh tươi rực rỡ như hoa như gấm. Cách vườn hai mươi dặm chu vi, rồi Vạn Thọ sơn, rồi Côn Minh hồ, tất cả đều kết hoa, treo trướng buông màn, đủ ngũ sắc lóng la lóng lánh.

Đến ngày lễ vạn thọ, Lão Phật gia dậy thật sớm, mình mặc một bộ thọ phục thêu long phụng. Lý Liên Anh, Giao Tố Quân, cùng với các phúc tấn, vợ thân vương hầu hạ hai bên chuẩn bị sẵn sàng loan giá kéo thẳng tới vườn Di Hoà.

Chẳng mấy chốc, loan giá tới cửa vườn. Bọn thân vương như Đông vương, Cung vương, Khánh vương suất lãnh đủ các đại thần Hán, Mãn quỳ sẵn tại trước cửa từ trước để đón giá.

Loan giá tiến vào vườn. Bọn thân vương lại nhất loạt theo sau vào. Chiếc ngai báu đã đặt sẵn trên điện Bái Vân để thái hậu lên ngồi mà chịu lễ mừng thọ.

Nói đến điện đình rộng lớn nhất trong Di Hoà viên phải nói tới điện Bái Vân. Trên điện có treo một đôi câu đối. Tạm dịch:

"Muôn hốt tình sơn chầu Bắc đẩu

Cửu hoa tiên nhạc gảy nam huân"


Chỉ cần nghe qua cái giọng lưỡi trong câu đối, mọi người đều có thể biết đây là nơi nào và để làm gì rồi!

Có lẽ trong lúc loan giá của Thái hậu lên đường ra đi thì Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu cũng sửa soạn xa giá tới Di Hoà viên mừng thọ. Tiếp sau đó, hai nàng Cẩn, Trân phi cũng kịp tới để bái thọ.

Nguyên lai hai phi Trân, Cẩn bị giam trong lãnh cung, chưa mãn hạn, nhưng Quang Tự hoàng đế thừa dịp vạn thọ, cầu xin Thái hậu gia ân đại xá cho hai nàng. Bởi thế, hai nàng mới được tới để dập đầu lạy chúc. Cuối cùng, đến bọn phúc tấn, cách cách lần lượt kéo tới và nhất nhất quỳ lạy dập đầu để mừng thọ.

Cuộc chúc thọ vừa xong, Tây thái hậu truyền dụ: Cho phép thân vương, đại thần, phúc tấn, cách cách đi chơi trong vườn một ngày, đồng thời cho ăn yến bày tại đại viện, vừa ăn vừa xem hát.

Thật là một ngày náo nhiệt chưa từng có! Đời sau có người đặt mấy bài Từ để ca tụng cảnh hoa lệ của Di Hoà viên. Tạm dịch:

Bóng rèm song biếc lạnh như băng.

Trăng sàng rọi bên rèm.

Xuân tươi vân còn đó!

Ao chum thuở nọ hỏi tìm đâu?

Khách (chim) lẻ kêu sầu.

Khách nào đuổi áng mây trôi?

Uyên ương sao nhác?

Bướm nỡ thờ ơ!

Hăm bốn cầu kia, địch chửa nghe.

Nhi nữ sau buồn thương.

Tỉnh chửa? Sao chửa tinh?

Nhiều ít giận tang thương

Việc qua buồn biết mấy?

Triều trước phồn hoa thấy nữa đâu?

Mây buồn tan tác bao la

Trời xa, nhìn càng dương

Hoa lệ thăm thẳm viện đình

Hoa đào trong ngõ xóm

Hoa sen còn nở trên ao

Một tràng địch Khương bi thiết!

Thuở trước phong lưu

Càng nói càng đau cảnh đoạn trường


Sân khấu rạp hát trong Di Hoà viên có đến năm tầng tù thấp lên cao. Tầng thứ nhì dùng để diễn những tuồng thần kỳ quỷ quái!

Bởi thế hai tầng được bố trí gần giống như những nơi thần từ phật tự.

Tầng thứ nhất giống như các loại sân khấu tại rạp hát thông thường, có vẻ bảnh bao hơn một chút thế thôi. Tầng thứ ba phía trên chuyên dùng để sửa soạn màn cảnh. Trên tầng thứ tư có một ít bàn ghế, gương kính, bố trí đủ mọi đồ cần thiết cho đào kép trang điểm chuẩn bị lên sân khấu đóng tuồng. Còn tầng thứ năm, đó là tầng dùng để cúng kiếng thần Phật.

Hai bên sân khấu có hai dãy phòng, dùng làm chỗ ngồi cho bọn vương công đại thần được ân hưởng cho xem hát.

Đối diện sân khấu là một căn nhà ba gian cao hơn một trượng, đó là nơi dành riêng cho Hiếu Khâm hoàng hậu ngồi xem hát.

Bên cạnh có hai căn phòng để nghỉ ngơi, đặt một cái giường dài. Mỗi lần thái hậu tới xem hát, tuỳ ý muốn ngồi thì ngồi, muốn nằm thì nằm, thực vô cùng thoải mái!

Ngày vạn thọ, những đào kép nổi danh khắp vùng Bắc Kinh, Thiên Tân như Đàm Khiếu Thiên, Uông Quế Phân v.v… đều được gọi vào.
Trời tối, khắp vườn Di Hoà đèn đuốc sáng choang chẳng khác chi lúc ban ngày. Tây thái hậu và hoàng đế (Quang Tự) cùng ngồi trên đại viện để xem hát. Hai bên ngồi đông đủ nào thân vương, nào phúc tấn, nào cách cách, nào nội giám thân tín…

Hồi 160
QUANG TỰ THI HÀNH TÂN CHÍNH


Chỉ chốc lát sau, một tên thái giám tay cầm cuốn sổ trình lên, xin Hoàng thái hậu và hoàng thượng chọn tuồng.

Thuận tay, Tây thái hậu chấm vở Thiên lôi báo, còn hoàng đế chọn vở Tiêu Dao tân.

Tên thái giám lãnh chỉ lui xuống, truyền cho bọn đào kép bắt đầu diễn. Thiên lôi báo vốn là một kiệt tác của Tiểu Khiếu Thiên.

Hắn cất tiếng hát vừa mê ly vừa lảnh lót nghe đến mềm cả người. Nhưng khi Thiên hát tới chỗ sét đánh, Tây thái hậu quay mặt nhìn hoàng đế cười nhạt.

Quang Tự hoàng đế biết Tây thái hậu có ý chế giễu mai mỉa mình, cúi đầu lặng thinh. Lý Liên Anh đứng ở sau lưng Thái hậu cũng nhìn ngài mà nhếch mép cười.

Quang Tự hoàng đế đến lúc này, trong lòng đã lấy làm giận lắm. Kịp đến vở Tiêu Dao tân lên sân khấu. Các Tiên đóng vai Hán Hiếu đế, biểu diễn đúng hệt một ông vua cô thế nhu nhược vô cùng thê thảm trong tình trạng bị lăng nhục, nhục nhã đến rơi lệ.

Cung vương ngồi phía dưới lấy làm khoái, nhịn không nổi lớn tiếng khen tuyệt. Khánh vương cười bảo Cung vương:

- Trong cung cấm la hét om sòm, không sợ Lão Phật gia bắt tội sao?

Cung vương nghiêm nét mặt nói:

- Cựu chế của các đấng tiên vương ta là trong cung cấm không được chèo hát mà.

Nói đoạn, Cung vương liếc mắt nhìn Thái hậu. Nhưng Tây thái hậu tảng lờ đi như không nghe thấy gì, quay đầu lại trò chuyện với Lý Liên Anh.

Quang Tự hoàng đế bất giác mở sáng đôi mắt, cất cao cặp lông mày lên như đôi cánh nhạn, kêu gọi bọn nội giám liên tiếp khen thưởng bọn đào kép.

Đến lúc này, Tây thái hậu mới biết rõ hoàng đế tự chọn vở Tiêu Dao tân là có ý phản đối mình, vì thế lấy làm bực tức. Song bà thấy có Cung vương ngồi gần, chẳng dám phát tác chứ nếu không bà đã hạ lệnh đình diễn rồi!

Nguyên do chỉ tại Cung vương tính rất nghiêm khắc, dữ tợn. Khi vương ở nơi quân cơ, Tây thái hậu vẫn có ý sợ hãi vương. Hồi Hiếu Trinh hoàng hậu còn tại thế, thường cùng Tây thái hậu, Hoàng đế, và bọn Cung vương đi chơi nơi Tam Hải, Tây thái hậu nhìn thấy các đình đài, lầu gác tại nơi đây đổ nát rã rời bèn giơ tay chỉ bảo:

- Bọn ta nên sửa chữa nơi này mới phải!

Cung vương nghe đoạn, đáp lời chỉ bằng một tiếng gừ trong cổ, nhưng tỏ vẻ trang trọng.

Hiếu Trinh hoàng hậu nói:

- Sửa thì nên sửa lắm! Nhưng lúc này bọn ta làm gì có tiền để mà làm những việc không cần gấp đó?

Tây thái hậu nghe thấy, lặng thinh, không nói gì thêm nữa.

Đây là việc cũ nhắc lại một tí thôi! Lại nói, tuồng đêm đó diễn chưa xong, nhưng hoàng đế vì trong lòng mất hứng, xin phép Thái hậu cùng hai phi Trân, Cẩn về cung sớm.

Mặt khác, Tây thái hậu đêm đó cũng thấy hoàng thượng chọn vở Tiêu Dao tân là có ý chế giễu mai mỉa mình, trong lòng thực chẳng vui thú gì, cho nên chỉ mong hoàng thượng về sớm chừng nào hay chừng nấy.

Chờ cho Quang Tự hoàng đế đi rồi, Tây thái hậu cũng bảo bọn Thân vương về nốt, chỉ để bọn các cô cách cách vắn ở lại xem hát cho đến lúc mãn. Sau đó, bà cùng Lý Liên Anh sang chơi bên Trí Tuệ hải.

Trí Tuệ hải vốn là một thuỷ cảnh đẹp vào bậc nhất trong Di Hoà viên. Phong cảnh đại khái giống như Doanh đài nhưng cách kiến tạo xem ra có phần công phu và khéo léo hơn. Bốn chung quanh hải (bể) đều có cẩn châu ngọc và đá quý, lại treo cả những kiểu đèn ngũ sắc lộng lẫy của Tây dương. Ở giữa bể cột một chiếc thuyền rồng.

Thân thuyền dài một trượng tám thước, cao một trượng, vẽ vời đủ ngũ sắc. Phía trong thuyền rồng, có đủ loại bàn ghế, giường nằm, giao ỷ. Bất luận nằm hay ngồi, chỗ nào người ta cũng đều thấy êm ái thoải mái cả. Trên mũi thuyền, bày đủ nào là cờ quạt, nào là tiết việt. Trong khoang đuôi, có một căn phòng nhỏ luôn luôn được hai tên tiểu thái giám trông coi và chầu chực cẩn thận để sẵn sàng dâng ngự điểm (bữa ăn của vua và hoàng hậu) cho đúng lúc.

Đối diện với thuyền rồng, trên đất liền, còn có một toà nguyệt cung. Trong cung, tiếng trống, tiếng tiêu suốt ngày đêm không dứt. Mỗi năm cứ đến rằm trung thu, thì quả phẩm tươi ngon ướp lạnh được bày biện la liệt bên trong.

Tây thái hậu cùng với hoàng thượng đích thân tế trăng, sau đó ân thưởng cho các thân vương, đại thần được lên thuyền rồng dạo chơi đây đó, chẳng khác gì như một ngày đại hội thâu đêm suốt ngày, cửa thành rộng mở.

Đến nửa đêm, Tây thái hậu lại truyền lệnh ban yến, ăn uống vui vẻ. Suốt mãi tới lúc bình minh, mặt trời đã lên cao, vua tôi mới mãn vui giải tán ra về. Đây lại còn là việc sau.

Sau khi qua chơi Trí Tuệ hải một lượt. Tây thái hậu và Lý Liên Anh lại quay sang Bảo Liên hàng. Bảo Liên hàng là một cái thuyền ụ, dùng đá và ngọc đẽo thành, hết sức tinh xảo. Vì thế, nên còn gọi là thạch hàng (cái thuyền đá). Phía bên trong thạch hàng, có chế hai chiếc khí thuyền (thuyền chạy hơi nước). Khí thuyền hồi đó không hoàn toàn giống như tàu thuỷ ngày nay. Nó chỉ có mỗi một việc là có thể chạy đi chạy lại được mà thôi. Ấy thế mà đối với thời đó đã coi như tài khéo tuyệt luân, cướp hết cái công của tạo hoá rồi. Bên trong khí thuyền cũng có đèn điện, chiếu sáng mãi ra ngoài vườn.

Khi thuyền chạy đèn điện sáng choang, lốm đốm như sao. Tây thái hậu một mình cưới thuyền đi chơi.

Vì chiếc thuyền chạy đã xa điện Nhân Thọ, đối diện với núi Vạn Thọ, phong cảnh hết sức xinh đẹp. Tây thái hậu do đó rất thích tới đây du ngoạn.

Đầu đêm hôm đó, Tây thái hậu cùng với Lý Liên Anh đi du ngoạn một hồi, vẫn thấy thú vui chưa thoả, tiện đường tới thăm Đồng Âm thâm xứ.

Đồng Âm thâm xứ cũng là một địa điểm nằm trong vườn Di Hoà. Đây là một địa điểm bí mật, phía trong cất một căn nhà ba gian. Chung quanh căn nhà đều có trồng những cây ngô đồng đã rất lớn. Bên cạnh là một ngọn suối trong. Cứ đến đêm khuya, tứ bề vắng lặng, người ta nghe rõ tiếng suối reo róc rách, tí tách như tiếng đàn cầm, tạo thành một điệu nhạc vô cùng êm ái mê ly. Dọc dài theo nguồn nước trong, biết bao lan can chạm ngọc mài đá, thanh nhã, trông như một bức hoạ. Căn nhà ba gian xây cất toàn bằng cột chạm tường ve mười phần tinh xảo. Bên trong giường ghế, màn trướng thảy đều đầy đủ. Rồi đến những chậu rửa mặt, những gương trang điểm, không thiếu sót thứ gì.

Tính tình của Tây thái hậu vốn ham thích điểm trang. Hễ tới chỗ nào tất nhiên bọn cung nữ phải lo sửa sang lại mái tóc, dồi phấn thoa son lại cho bà.

Tuổi bà tuy đã sáu chục, nhưng mặt bà vẫn không chịu rời phấn sáp. Bởi thế nhìn bà chỉ như một người đàn bà quá ba mươi xuân xanh, như còn nhiều hứa hẹn lắm! Với cái bộ mặt còn đầy tình của bà, cái tấm thân còn óng chuốt đẫy đà của bà, mấy ai dám bảo bà đã năm, sáu chục cái xuân?

Ấy cũng vì thế, anh bác sĩ y khoa người Mỹ tên là Lập Đặc thường hay khoe với thiên hạ rằng bà là một đệ nhất mỹ nhân của thế giới. Hãy tạm gác chuyện này.

Lại nói Tây thái hậu cùng với Lý Liên Anh từ hôm đó ở lại Đồng Âm thâm xứ du ngoạn thâu đêm suốt sáng một cách vô cùng bí mật. Bọn cung nữ và thái giám trong Di Hoà viên thường nghe những tiếng trai gái cười cợt đùa bỡn nhau trong đó vọng ra.

Thế là từ đó, Tây thái hậu thức ngủ nhất nhất đều ở trong Di Hoà viên, không còn thấy can dự tí gì vào việc triều chính nữa, mặc kệ cho Đức Tông muốn làm sao thì làm, đúng y như lời ông Đồng Hoà đã, nói là "vui rồi thì quên hết!".

Từ hôm đi xem hát về, Quang Tự hoàng đế (tức Đức Tông) giận tức đến cùng độ. Lại thêm Trân, Cẩn hai phi kể lể lại tình cảnh lúc bị đánh, bị tù, ngài càng thấy lòng tức giận tăng thêm. Mặc dù được lưỡng, phi khuyên giải an ủi, nhà vua vẫn cứ buồn bã chẳng thể vui lên được.

Suốt đêm hôm đó Quang Tự hoàng đế không chợp mắt được phút nào! Sáng mai, ngài thị trào xong quay về cung, liền cho lệnh mời ngay ông Đồng Hoà vào thương nghị kế sách "Cải cách triều chính".

Ông Đồng Hoà tâu:

- Đối với tình hình hiện tại, mọi cựu chế của Tiên hoàng không còn thích dụng nữa. Ngu thần thi lại bất tài không tìm ra lượng pháp, khiến tất lại hoá xấu, hay lại hoá dở. Bởi thế, chỉ còn một cách là nhường lại cho bọn hậu bối tài cán đủ khả năng, cố hết tâm sức kiến công lập nghiệp là hơn!

Quang Tự hoàng đế khảng khái nói:

- Nếu sư phó không chịu cáng đáng trọng trách đó Trẫm sẽ quyết ý trọng dụng bọn người mới Khang Hữu Vy vậy? Vậy xin nhờ sư phó thay trẫm truyền dụ ra ngoài, gọi Khang Hữu Vy ngày mai vào bệ kiến.

Ông Đồng Hoà lĩnh chỉ lui ra, tới báo cho Khang Hữu Vy.

Khang Hữu Vy vốn là người có chí lớn. Trước năm Giáp Ngọ, Khang đã có lần dâng thư điều trần chính kiến của mình: Thế nào là khoa học… Làm sao để chấn hưng nền giáo dục v.v…

Bọn đại thần người Mãn cho rằng Khang khùng, chỉ nói bậy nói bạ, đem ỉm luôn bản điều trần của Khang, quyết không trình lên hoàng đế. Có điều rắc rối là năm đó ông Đồng Hoà làm chủ khảo trường thi, có đọc văn của Khang, thấy Khang là một tay kỳ tài, liền cho đậu tiến sĩ. Từ đó, giữa ông và Khang tự nhiên có cái tình thày trò.

Bởi thế, ông Đồng Hoà mới đem hết sức mình để tiến cử lên Đức Tông.

Quang Tự hoàng đế đã có ý muốn triệu Khang Hữu Vy để chính mình được hỏi những điều cần thiết. Song triều đình còn có luật pháp, không tiện vượt qua. Ngài đành phải hạ dụ cho Khang tạm thời hãy nhận chức Học tập hành tẩu tại Tổng lý nha môn, chờ ít lâu sẽ thăng lên làm Hàn lâm viện thị giám.

Chính lúc này là lúc ngài có thể triệu kiến một cách dễ dàng, không còn phải e ngại dư luận.

Đến hôm được dụ triệu kiến, Khang Hữu Vy đầu đội mũ long linh rực rỡ, đi thẳng vào Tiên điện để kiến giá.

Quang Tự hoàng đế đợi Khang hành lễ xong, mới cất tiếng hỏi về chính sách "Tự cường" của Khang.

Khang Hữu Vy liền trần thuật luôn ba kế sách lớn như sau:

1) Tập hợp hết thảy người tài lại để mưu việc biến chính.

2) Chọn lựa Tây sách (kế sách của Tây phương) để định rõ quốc sách.

3) Nên nghe theo và cho phép bọn quan cai trị ngoài biên cương tự biến chính.

Ngoài ba điểm chính này, Khang còn xin định rõ hiến pháp, bỏ hẳn khoa cử, mưu việc chấn hưng giáo dục, mở mang chế độ, sai các thân vương đi du lịch các nước để dò xét những lương pháp của các nước Tây phương, phiên dịch các sách Âu Tây để đào tạo tri thức, phát hành giấy bạc và thiết lập ngân hàng để cho kinh tế được lưu thông, tổ chức các trường văn nghệ cũng như võ bị ở các tỉnh các phủ để luyện tập dân binh, mong việc phòng vệ được chỉnh đốn và cường mạnh.

Khang Hữu Vy trình việc nào ra việc đó, tất cả đều thao thao bất tuyệt. Quang Tự hoàng đế nghe xong, bất giác cả mừng, hạ dụ cho Khang lui ra ngoài, đồng thời sai bảo tiến một số nhân tài tân chính để tiện việc thực hành "Biến pháp".

Lý Hồng Chương sau khi ký mật ước với nước Nga, bèn lên đường du lịch các nước, lúc này cũng vừa về tới Trung Quốc.

Quang Tự hoàng đế ghét Chương về chuyện bất lực trong cuộc chiến năm Giáp Ngọ 0, nên cho Chương rút lui ra khỏi quân cơ về nhà nghỉ.

Nhưng sau Tổng đốc Lưỡng Quảng bị khuyết, Lý Hồng Chương lại được điều ra đó nhận chức.

Cung thân vương Dịch Hân tuy cương trực nhưng từ sau cuộc chiến bại Giáp Ngọ, đối với chính trị cũng không còn nghiêm khắc như trước. Không ngờ, già lão chóng tàn, Cung vương bỗng nhuốm bệnh, nằm liệt giường, có cơ nguy kịch.

Tin chẳng lành truyền tới tai Thái hậu và hoàng thượng. Tất cả mọi người đều xúc động cảm thương. Quang Tự hoàng đế lập tức sai nội vụ phủ cấp cho gia đình vương một vạn đồng bạc để làm đám táng, và đặt thuỷ hiệu là Trung vương.

Sau khi triệu kiến Khang Hữu Vy, Quang Tự hoàng đế một lòng tha thiết thực hiện tân chánh. Lại còn có bọn thị lang Từ Trí Tĩnh, thị độc học sĩ Từ Nhân Kính, Từ Nhân Trú, ngự sử Dương Thâm Tú dâng thư lên xin quyết định ngay Quốc thị (tức là chế độ, luật pháp, tổ chức cần thiết của một quốc gia).

Thế là đến đây, chủ ý của Quang Tự hoàng đế về biến chính càng thêm kiên quyết và nhất định lắm rồi. Do đó, đúng vào ngày hai mươi bảy tháng tư, ngài bèn hạ một đạo chiếu thư xuống như sau:

"Mấy năm gần đây, chiến sự xảy ra lung tung, mối lo bên ngoài càng thêm đáng ngại. Trẫm rất lấy làm lo lắng. Do đó, thần công trong ngoài nhiều người chủ trương biến pháp tự cường, quyết ý trước hết, đào thải hết bọn tham nhũng, sau đó thiết lập đại tiểu bọc đường, sửa đổi chế độ võ khoa v.v…

Họ đã suy xét cẩn thận, và cương quyết thi hành để thí nghiệm, chứ không như bọn thần công ngày trước chỉ khư khư bảo thủ cựu chế, bài trừ tân pháp, mồm mép om xòm, không hướng tới một cái gì; do đó mới xảy ra vụ tranh chấp về chế độ giữa cũ và mới.

Song, thời thế ngày nay đã khác: trong thì chính trị không sửa sang, ngoài thì cọp dòm ưng ngó, chỉ chờ có dịp là tiến tới nếu không có mưu kế tự cường, ta biết lấy gì mà lập quốc?

Mà cái đạo tự cường thì trước hết phải lấy cường dân phú quốc làm đầu.

Ôi! Học trò đã không có thày giỏi thì làm sao cho có thực học? Bọn lính nhác không được tập luyện thì biết lấy gì để chống giặc. Nếu cứ cổ hủ mãi, thì nước làm sao mà mạnh được dân làm sao mà giàu được? Trong trường hợp ấy, cả một giang sơn gấm vóc này rốt cuộc chỉ để cho bọn cường lân (các nước láng giềng giàu mạnh) gậm nhấm dần đến hết như tằm ăn dâu mà thôi.

Trẫm đã thăm hỏi hai ba lần: ai cũng đều cho rằng nếu quốc thị không định, thì hiệu lệnh chẳng thể thi hành được, những điều lưu lệ, sau đó ắt gây ra phận tranh, khiến quốc chính không còn cách gì bồi bổ nữa.

Xét lại lịch triều Trung Quốc, trẫm thấy chế độ của liệt quốc mỗi quốc gia đều có cái hay riêng của mình, chứ không giống ai nhau, luôn luôn cũ mới đổi thay nhau. Điều dĩ nhiên từ xa xưa là đã chọn tân chế thì đương nhiên cựu chế không thể tồn tại. Chọn cái hay để mà theo thì đó là cái đạo lớn của nước vậy.

Kể từ nay về sau, thần công trong ngoài lớn nhỏ, vương công, sĩ thứ, tất cả đều phải gắng sức hướng lên, nổi hăng mà mưu đồ sự giàu mạnh, học tập lấy lễ nghĩa của thành hiền, chọn những điều của Tây học thích hợp với chế độ để bổ túc những chỗ thiếu sót, chủ đích chỉ mong cầu tinh tiến để đợi lúc sử dụng.

Kinh sư là nơi thủ đô của toàn quốc, học đường phải nên sáng lập. Nếu các bậc thần công trong ngoài từ vương công trở xuống cho đến các nhân viên, các ty, các bộ, các vị thế chức Bát Kỳ cung như đám bậu duệ của văn vô đình thần, muốn xin đi học, thì sẽ được nhập học, giáo dục thành nhân tài đế vì nước xuất lực, giúp đời gỡ rối.

Hỡi các thần công! Các ngươi không được tự ý thủ cựu mà viện dân này nọ, làm chậm chế việc thi bành, khiến nỗi trên thì phụ lòng triều đình thiết tha với các giới, dưới thì tự mình đã lẫn lại kéo thêm người lầm với mình. Và như thế hậu hoạ không còn gì to lớn hơn nữa! Nay đặc dụ cho thán công nội ngoại toàn thể đều biệt.

Khâm thử".




Đạo thượng dụ này vừa ban xuống, chỉ trong nháy mắt, tin tức đã đồn dậy trong ngoài. Khang Hữu Vy ngay lúc đó cũng được vời vào cung để hỏi ý kiến. Nhất thời được minh quân chiếu cố tới mình, Khang quả là người mà toàn triều văn võ bá quan không ai dám sánh.

Khang Hữu Vy bảo tiến thêm mấy nhân vật mới nữa giúp đỡ trong việc biện lý tân chính.

Đó là Từ Trí Tĩnh và hai người con Từ Nhân Trú và Từ Nhân Kinh. Khang lại bảo tiến người em ruột là Khang Quảng Nhân, người đệ tử là Lương Khải Siêu.

Lương Khải Siêu là người huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, vốn là một thư sinh. Do sự bảo tiến của thày, Lương được hưởng hàm lục phẩm, phụ trách việc dịch sách trong Dịch thư cục.

Mặt khác, Tuần phủ Hồ Nam là Trần Bảo Hàm cũng bảo tiến Lưu Quang Đệ. Dương Nhuệ. Thị lang Tử Kính Tĩnh cũng bảo tiến Đàm Tự Hồng. Hộ bộ tả thị lang Trương Âm Hoàn lại bảo tiến Vương Tích Phồn, Ngự sử Dương Thâm Tú bảo tiến Đinh Duy Lỗ.

Tất cả những nhân vật được bảo tiến trên đều là những người học thức uyên bác, có thể coi như là những nhân tài tuyệt luân được. Ngoài ra, ta còn thấy có nhóm Trương Chi Động cũng góp nhiều công vào việc biến chính, nhất là trong chương trình cải cách khoa cử.

Vương Phượng Văn xin thiết lập phép chấm thi. Tiêu Văn Cát xin chỉnh đốn nghề tơ, trà để phục hưng thực nghiệp. Ngự sử Tăng Tôn Ngạn tâu xin mở mang nông vụ. Vương Tích Phồn xin tổ chức quản trị các hội buôn. Lý Đoan Phân xin chỉnh đốn lại luật lệ. Viên Vĩnh thì tâu xin giải quyết sinh kế cho Bát Kỳ (tổ chức quân đội của riêng nhà Thanh). Ngự sử Thuỷ Tân người Mãn, dốt đặc cán mai, đến một chữ cũng không biết thế mà cũng dám ghi tên lên đầu danh sách, xin quản trị các báo quân để lo việc thông tin.

Quang Tự hoàng đế thấy sớ tấu dâng vào như bươm bướm, cái nào cũng có ích cho Tân chính, đều nhận hết, đồng thời còn khen thưởng những người dâng tâu kế sách. Ấy cũng vì vậy cho nên có những anh chàng người Mãn vớ vẩn dốt nát, vét ba ngày không ra được nửa chữ, cũng vội vàng dâng sớ trình bày chính kiến, khiến từ đó, tấu sớ chất thành đống như trái núi, tạp nham bừa bãi, trở nên bao chuyện khôi hài không bút nào tả xiết!

Lại cũng còn có kẻ tâu xin hoàng đế "trở lại" đạo Gia tô. Rồi cũng lại có cả những bản tấu chương xin học tập theo sách Tây, chữ Tây (chữ Anh, Pháp, Đức v.v…).
Quang Tự hoàng đế xem qua các loại sớ này chỉ mỉm cười, coi như được một dịp nghe chơi những chuyện vui. Song đối với các bản điều trần thực tế về tân chính của chư thần, Quang Tự hoàng đế đều nhất nhất dung nạp, không loại bỏ cái nào. Ấy cũng vì vậy mà một tai hoạ lớn đã ra, hậu quả vô cùng tai hại.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 219
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com