watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
20:08:0918/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thanh Cung Mười Ba Triều 51 - 75 - Trang 3
Chỉ mục bài viết
Thanh Cung Mười Ba Triều 51 - 75
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 3 trong tổng số 14
Hồi 53
MỘT CÁI ÁN VĂN TỰ ĐỜI THANH

Cuộc ác chiến tuy ngắn nhưng cũng đủ cho mọi người xóm giềng chung quanh biết được, họ đổ xô tới xem. Người chồng cớ cô vợ vừa được cứu thoát vội quỳ xuống trước Bạch Thái Quan dập đầu tạ ơn. Thế rồi, bọn dân xóm cũng đều bước tới chắp tay lạy chào và nói với Quan:

- Tên ác tăng này tới đây đã lâu, chuyên hãm hiếp đàn bả con gái, gây sóng gió khắp vùng. Có người báo tới nha môn, quan tri huyện phái quân tới lùng bắt, nhưng đều bị hắn đánh cho tơi bời câ. Bọn quan quân hoảng qua, bò trốn về thành hết, không còn dám bén mảng tới nữa. Nay hắn đã bị đền tội, háo hán thực là vị ân nhân của dân chúng vùng này vậy.

Nói đoạn, họ níu kéo, mời mọc cho kỳ đưọc Bạch Thái Quan về nhà một vị thân sĩ trong làng, dọn rượu thết đãi. Qua ngày hôm sau, quan tri huyện được tin, vội cho người mang kiệu tới đón Quan về nha. Đó chính là lúc Khang Hi hoàng đế gặp thích khách ở Thái Hồ, rồi chiêu thỉnh hảo hán bốn phương cho nên viên tri huyện bèn bảo cử Bạch Thái Quan ra cho quan tuần phủ sau đó lại báo tiếp lên cho quan tổng đốc. Vị quan tổng đốc bèn đem Bạch Thái Quan và Ngư Xác cùng mười mấy vị hảo hán khác tới bệ kiến hoàng đế. Khang Hi thấy Quan bản lĩnh cao cường bèn cho sung chức Thị tùng võ quan. Ngoài ra, các tay hảo hán khác cũng đều được sung vào chân thị vệ, nhất tề đưa cả về kinh.

Ung vương nghe Tái Lăng Ngạch kể lại một lượt câu chuyện xảy ra, trong lòng vừa lấy làm kỳ lạ vừa ghen tức. Vương tự nghĩ:

- Thiên hạ sao lại có kẻ bản lĩnh cao cường đến thế nhỉ? Tiếc thay họ lại không ở trong phủ ta cho!

Đứng nghe chuyện còn có cả một bọn đông anh em như Dân Đệ, Dân Nhung, Dân Dị, Dân Đường, Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Ngà, Dân Tường, Dân Đề, cho nên Vương không tiện nói ra điều gì, đành lặng thinh. Vương vốn ăn ý với đại ca Dân Đệ, hai anh em bèn quay về nhà riêng bàn tính đại sự. Vương còn dò được tin hoàng thượng đã phái Ngư Xác tới đông cung để bảo hộ thái tử, mặc khác sai Bạch Thái Quan tới Tô Châu giúp quan địa phương lùng bắt tên thích khách ở Thái Hồ.

Tên thích khách ở Thái Hồ là Kim Phi, nguyên là một tên đại đạo nổi danh suốt dọc Cam Túc, Thiểm Tây. Những tay hảo hán giang hồ thường gọi hắn là Kim gia gia. Vì Kim chỉ thường xuất hiện ở mấy tỉnh Thiềm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, cho nên một giải Giang Chiết đều không ai hay biết hành tung của hắn. Bản lĩnh của hắn còn cao hơn Bạch Thái Quan một bậc. Tại vùng Tứ Xuyên, hắn chuyên ẩn nấp ở những nơi đèo non thác nước, chờ dịp cướp bóc. Hắn thường mặc một bộ y phục màu anh lục, bơi lội trong nước y như cá khi thấy có thuyền đỗ bến, tức thì nhảy lên cướp của giật đồ. Tuy nhiên, hắn không bao giờ hại người. Tên tuổi hắn càng ngày càng lớn Những tay hảo hán suốt giải Tràng Giang đều qui phục hắn, cộng có tới hơn ngàn. Hắn bèn chiếm cứ một ngọn núi trên con đường Nghi Xương. Nhiều tay hảo hán đem vợ con quyến thuộc tới chân núi dựng nhà mở phố. Dần dần, cả một khu đất rộng ở chân núi đã trở thành một thôn phường, trong đó trai gái già trẻ đều là huynh đệ của hắn.

Phen này, Kim Phi do sự phó thác của Thạch Bá Tổng, bộ hạ của di thần nhà Minh là Trương Thương Thuỷ do thám được tin Khang Hi hoàng đế Nam tuần, bèn tới Tô Châu để hành thích. Phi rời khỏi Kim Sơn thẳng tới Thái Hồ, chém Khang Hi một kiếm không trúng bèn quay về chốn cũ.

Đến khi thánh chỉ hạ xuống bắt các phủ huyện lùng kiếm thích khách, và khi bọn chức sắc Ngô huyện điều tra ra lý lịch của tên Kim Phi thì chẳng kẻ nào dám tới Nghi Xương bắt hắn cả. Đúng lúc đó, hoàng thượng phái Bạch Thái Quan đi do thám trên ngọn núi, mới biết núi đó gọi Độc Long Cương và thôn phường phía dưới gọi là Độc Long Thôn. Bạch Thái Quan kéo toàn ban bộ khoái tới Nghi Xương, lên bờ, mướn một chiếc xe lớn gấp rút lên đường. Đi được vài ngày, cả bọn thấy một toà núi đá tai mèo, bốn mặt toàn những mỏm đá cheo leo vây quanh, phía dưới cây cối um tùm, bóng tối âm u, trông thật đáng sợ.

Cỗ xe lớn của bọn Quan đang chạy lẹ trên đường, bỗng thấy phía trước cũng có một cỗ xe từ từ đi tới, trên xe có một cô gái tuyệt đẹp và một đứa bé độ mười ba tuổi, ngồi trên.

Cỗ xe của bọn Quan chạy lẹ nên chẳng mấy chốc đã tới gần, chỉ nghe cô con gái ngồi trên xe cất tiếng bảo đứa bé:

- Bạch Thái Gia tới đấy! Mau nhường đường cho ngài đi, nghe không?

Bạch Thái Quan nghe đoạn, lòng lấy làm lạ. Nhìn mặt người con gái thì quả là không quen biết, cũng không thề nhận ra là ai. Đứa bé nhảy phắt khỏi cỗ xe đã nép cạnh đường, bước tới. Thấy đứa bé tỏ ra nhanh, nhẹn, có sức mạnh, lòng Quan đã nản lắm. Tới chân núi, cả bọn bèn tìm một khách điếm trọ lại.

Sáng ngày hôm sau trở dậy, Bạch Thái Quan ra quầy trả tiền, thấy cô gái ngồi quay đích thị là cô gái ngồi trên xe gặp trên đường hôm qua. Quan muốn thử xem bản lĩnh, bèn ném từng đồng một hết số tiền vào mặt quầy phía trong, trước mặt cô gái. Cô ta thấy cử chỉ của Quan, miệng nở một nụ cười, giơ tay vỗ nhẹ lên mặt quầy, tức thì tất cá số tiền của Quan vừa ném vào bỗng vọt bắn lên cao, tung ra ngoài hết.

Bị trả đũa lại. Bạch Thái Quan tự nhủ thôn dân làng này hẳn đều là những tay có bản lĩnh, trong lòng càng nản nhiều hơn. Giữa lúc do dự, Quan thấy một đại hán chạy từ ngoài cửa vào. Khi thấy Quan, y liền cúi đầu chào:

- Tiểu chủ của tại hạ được biết Bạch Thái Gia đã tới, nên bảo tại hạ tới mời một mình ngài lên núi. Bạch Thái Quan hỏi sơn chúa là ai thì đại hán đáp:

- Sơn chúa chính là Kim gia gia đó!

Bạch Thái Quan tới lúc này chẳng thể do dự được nữa, bèn dặn bảo bọn bô khoái ở lại khách điểm chờ đợi rồi một mình theo đại hán lên núi.

Ngọn núi Độc Long này khá cao, đại hán nhảy từ mỏm đá này tới mỏm đá kia đi vun vút. Bản lĩnh phi hành của Quan cũng chẳng kém. Chỉ mấy chục lần nhảy, quanh theo vài eo núi, hai người đã tới lưng chừng núi. Kim Phi đứng đó tự bao giờ, khi thấy Bạch Thái Quan, liền đón tiếp lên núi, tự giới thiệu tên tuổi của mình. Bốn, năm chục tay hảo hán đứng phía sau cũng đều tiến lên, nhất nhất giới thiệu. Xong xuôi, cả bọn đưa Quan vào đại sảnh.

Trang viên nơi đây quả là lớn, sảnh đường cũng rộng rãi hết sức. Giữa đại sảnh, đã thấy một chiếu rượu sửa soạn tươm tất. Kim Phi mời Bạch Thái Quan ngồi vào ghế nhất. Bọn hảo hán cũng nhất tề ngồi xuống. Trước mặt mọi người, đũa không thấy, chỉ có vài con dao nhọn sắc. Trước mặt Quan cũng vậy, đến ngay dao cũng không. Trên bàn, nào gà, nào vịt đủ món nhưng chưa ai biết làm cách nào mà ăn. Một lát sau, chủ nhân lên tiếng nhắc bọn huynh đệ kính khách. Bọn hảo hán tay cầm dao nhọn xóc luôn những miếng cá bự chĩa thẳng vào miệng Bạch Thái Quan. Họ Bạch cũng muốn nhân dịp này cho đối thủ biết rõ ban lĩnh của mình. Khi thấy ngọn dao sắc đâm gần tới, Quan liền há miệng đớp ngay lấy, hai hàm răng cắn chặt lại. Một tiếng rắc nổi lên khô khan trong miệng Quan: lưỡi dao đã gãy, miếng cá bự trôi qua cổ họng xuống bụng trong nháy mắt.

Các hảo hán lần lượt hết người này đến người kia đều tiến lên kính khách theo kiểu đó. Quan thảy đều thong dong ăn uống, miệng không một chút nào sây sát. Thành thử bao nhiêu dao để trên bàn khi nãy đều bị Quan cắn cụt hết. Trước mặt Quan, chỉ thấy một đống lưỡi dao to sụ. Cử toạ đều lớn tiếng khen ngợi.

Sau đó, một tay đại hán bưng mâm bánh bao tới, khói bốc lên nghi ngút. Bạch Thái Quan cầm ngay lấy một chiếc bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm. Trong bánh có đến hơn chục cái đinh sắt. Nhưng Quan vẫn nhai một cách tự nhiên, chẳng mấy chốc Quan ngậm nắm đinh sắt hướng vào bức tường phía trước, thổi phù một cái. Nắm đinh sắt vút ra cắm phập vào tường, y như chúng đã được đóng chắc từ thuở nào.

Kim Phi thấy vậy bất giác cũng phải thốt lời khen! Phi đứng dậy tiễn khách, Bạch Thái Quan tự nhận đông quá khó địch, lại thấy thủ hạ của Kim nhiều tay ban lĩnh cao cường, thành thử khối hào khí chứa chất trong lòng lâu nay bỗng tan biến như tuyết rơi băng rã. Quan ra tới cống ngoài, thấy cánh cửa đóng kín. Từ bên cạnh cổng, một chú bé chạy ra, khẽ nâng cánh cửa để lấy lối cho khách qua. Quan nhìn tấm cửa, ước lượng ít ra cũng phải ngàn cân. Quan đến lúc đó quả đã thảy chết mất quá nửa nhuệ khí. Khi xuống tới chân núi, Quan xấu hổ, chẳng dám tới gặp lại bọn bộ khoái thủ hạ của mình và lẹ như một làn khói. Quan mất hút luôn trong đám sương mờ bên đèo.

Lại nói Khang Hi hoàng đế ỷ có Ngư Xác bảo hộ nên lại sửa soạn cuộc tuần du Giang Nam lần thứ tư, lần tuần du này quả thật khác xa mấy lần trước. Hoàng đế đem theo một đại đội ngự lâm quân, dọc đường còn có quân lính địa phương yểm trợ.

Khi đi đường, Khang Hi hoàng đế dò biết được còn có rất nhiều văn nhân có ý không phục nhà Thanh, thường sáng tác thơ văn phỉ báng triều đình. Ngài bèn hạ một đạo mật dụ cho các tuần phủ, tư đạo nơi ngoại tỉnh bảo họ tra xét khắp nơi, hễ thấy có bài văn thơ nào phỉ báng bản triều thì phải báo ngay không được dấu giếm hoặc chậm trễ. Không ngờ đạo mật dụ đó vừa mới xuống được ít hôm thì một cái án văn tự lớn lao xảy ra làm chấn động cả miền Triết Giang và Hồ Châu.

Số là miền này có một phú ông họ Trang tên Đình Lũng, đọc sách không bao nhiêu nhưng lại háo danh, chỉ thích có tác phẩm lưu lại nhân thế, tạc vào nơi danh sơn. Bởi vậy, ông ta mới ngày ngày vác bút đề thơ. Ông ta vừa ngâm vừa viết, chẳng biết đã viết những gì. Viết vậy suốt một năm rưỡi trời mà chưa ra được một cuốn sách nào. Bỗng một hôm, ông ta nghĩ ra được một diệu kế. Vốn sẵn tiền, ông ta liền vác tiền đi mua văn của bọn văn nhân cùng quẫn, lấy những bản thảo của họ làm của mình. Không biết ông ta mua ở đáu về được một tập bản thảo - bộ "Ô Trình Chu thị minh sử". Ông ta lấy làm khoái lắm, bèn góp nhặt những sự thực thời vua Sùng Trinh rồi đổi tên tác giả sang tên mình. Ông ta lại còn mời mấy cụ đồ nổi danh, nào là họ Lục, họ Tra, nào là họ Phạm giúp ông làm mấy bài bạt vào cuốn sách, rồi cho khắc và đem in. Ông ta tưởng đó là một tác phẩm trứ danh, cho rằng xưa kia Khổng Tử làm Kinh Xuân thu, Tư Mã Thiên làm bộ Sử ký bất quá cũng chỉ như vậy mà thôi. Ông còn cao hứng đến cái độ cho sách của mình có thể tạo thành thế chân vạc với hai bộ sách Sử ký và Xuân thu. Ông ta có ngờ đâu vui lắm thì khổ nhiều! Thời kỳ đó chính là hồi bọn quan địa phương đang ngấm ngầm điều tra những trước tác phỉ báng triều đình.

Khi tra ra bộ minh sử này, viên tri phủ Hồ Châu cho là hệ trọng bèn đích thân tiến kinh để cáo mật. Quan thượng thư bộ hình vội vào tâu hoàng đế. Thế là một đạo thánh chỉ ha xuống, bắt phải tra xét nghiêm ngặt. Tin tức truyền đi nhanh như chớp. Trang Đình Lũng biết việc nguy rồi, bèn uống thuốc độc tự vẫn. Khi thánh chỉ tới nơi thì Trang Đình Lũng đã chết.

Triều đình bèn cho quật mồ băm thây, đồng thời cho bắt tất cả bọn nhà in đem chém chết. Ba cụ đồ họ Phạm, họ Tra, họ Lục cũng được tin nhanh lắm. Các cụ đã dự tính trước, thanh minh rằng những bài bạt của sách đó là do Lũng giả tạo chứ không phải các cụ làm. Nội vụ xong xuôi, cả ba cụ được miễn tội nhưng đều khuynh gia bại sản.

Tử đó về sau, bọn văn nhân hoảng hồn bạt vía, đều rụt cô lại như cổ rùa, chẳng còn dám viết lách lấy một chữ: Khang Hi hoàng đế quả đã mười phần khoái trí. Ngài du ngoạn bên ngoài một thời gian lâu rồi mới trở về kinh. Nhưng ngài không ngờ, ngay tại kinh, thái tử cùng bọn Trực vương, Ung vương lại gây ra một chuyện lớn khác…

Hồi 54
CÁC HOÀNG TỬ TRANH NHAU NGÔI THÁI TỬ

Trong cuộc Nam tuần lần thứ tư này, Khang Hi hoàng đế lại giao cho hoàng thái tử Dân Nhung giám quốc như cũ.

Trực Quận vương Dân Đê, Ung Quận vương Dân Trinh trong lòng rất lấy làm ghét thái tử. Hai người ngầm khiển tướng điều binh đến hành thích thái tử kể đã khá nhiều lân, nhưng Đông cung có đông người bảo vệ nên chưa từng bị độc thủ của họ. Duy chỉ có mỗi lẩn đại chiến thi hai bên lại hết mất vài ba tay hảo hán.

Dân Nhung căm giận Dân Trinh đến cốt tuỷ. Nhung bèn đem trọng lễ ra bên ngoài, mời rất nhiều vị đạo nhân tới Đông cung làm phép để thu hồn nhiếp phách xác của Trinh. Trong vương phủ của Dân Trinh, những tay pháp sĩ mới về cũng không ít. Mỗi lần bên Đông cung thi hành pháp thuật là mỗi lần bị bên Ung vương phủ phá giải tiêu hết. Về sau, thái tử Dân Nhung mời được một vị Thiết quan đạo sĩ (đạo sĩ đầu đội mũ sắt) từ Giang Tây tới. Vị đạo sĩ này có một pháp thuật hết sức kỳ lạ. Pháp khí của ông ta tên là Huyết trích tử. Đây là một cái mũ bằng sắt. Khi Thiết quan đạo nhân niệm thần chú, Huyết trích tử liền bay lên trên không, lén vào nhà kẻ thù, chụp vào đầu, lập tức cắt đứt đầu địch nhân rồi lại bay lên không trở về. Người bị cụt đầu không chảy một giọt máu nào nơi cổ, bởi vậy nó mới có cái tên là Huyết trích. Khi nó tới thì dù ở giữa đám ngàn quân vạn ngựa đi nữa cũng vẫn bị cắt đầu ngọt xớt. Pháp khí lặng lẽ tới cũng như lặng lẽ đi, vừa nhanh lại vừa không có tiếng động, chỉ nháy mắt là đầu đã mất tiêu từ lúc nào, khiến đối phương có lưu ý đề phòng tới đâu cũng vô hiệu.

Ung vương dò biết được tin này, trong lòng rất lấy làm lo sợ Vương bèn củng mấy vị sư Lạt Ma thương nghị. Trong bọn, có người đứng lên nói:

- Trừ phi mời được vị Đại Lạt Ma của tại hạ tới, chứ còn không ai trừ được tên đạo sĩ mũ sắt này đâu.

Ung vương nghe đoạn, bèn đích thân tới Ung Hoà cung, mời nhà sư Đại Lạt Ma. Lúc đầu Đại Lạt Ma không chịu, nhưng về sau, khi vương hứa hê việc thành thì sẽ có thưởng hậu, Đại Lạt Ma mới vui lòng mang pháp khí tới Vương phủ.

Nhà sư Đại Lạt Ma trước hết lấy một cuộn kinh Phật, bảo Ung vương đội lên đầu, phía trên dùng mũ chụp lên. Cuốn kinh Phật có một pháp lực vô biên, có thể chống lại được với Huyết trích tử. Đại Lạt Ma còn lấy một căn tinh thất phía ngoài phòng ngủ của Ung vương, ngày đêm ngồi đó để phòng vệ Ung vương vốn có bốn vị phi tử. Nguyên phi tên Nữu Cô Lộc với Ung,vương, hai người ân ái hết sức mặn nồng. Nay thấy chồng có nạn, bà bèn hầu hạ ngày đêm bên cạnh.

Một hôm, vào giữa lúc đêm khuya canh vắng, bà Nữu Cô Lộc cùng Ung vương đang nằm trên giường chung gối trò chuyện, bỗng thấy từ ngoài cửa một vật gì tròn tròn đen đen bay vút vào chạm vào đầu. Ung vương nghe chát một tiếng. May cho Ung vương trên đầu có cuộn kinh Phật sớm tối không rời nên pháp khí kia không thể hại được tính mạng của vương. Bà Nữu Cô Lộc nằm bên cạnh sợ quá, la rầm lên. Phía ngoài, nhà sư Đại Lạt Ma, vội nhảy ra khỏi tĩnh thất quan sát, chỉ thấy cái pháp khí nọ đang bay từ trong phòng Ung vương ra. Nhà sư Đại Lạt Ma lẹ tay vội cởi tuột chiếc áo cà sa trên mình, vung lên như một cái ltới, chụp lấy pháp khí.

Khi pháp khí nọ bị chiếc cà sa chụp thì người trong phủ nghe tin, vội chạy tới thỉnh an. Ung vương bị pháp khí đập mạnh vào trán gây thương tích, đau nhưng cũng cố gượng ngồi dậy. Nhà sư Đại Lạt Ma lấy Huyết trích tử từ trong chiếc áo cà sa ra đưa cho Ung vương, miệng nói:

- Đây là một lợi khí sát nhân độc nhất vô nhị, vương gia hãy giữ lấy, về sau nhờ nó có thể chế phục được thiên hạ đấy!

Ung Vương tiếp lấy xem qua, thấy Huyết trích tử vốn là một chiếc mũ sắt đen thui, ánh sáng lạnh bắn ra bốn phía khiến ai trông thấy cũng phải mất vía bạt hồn.

Qua ngày hôm sau, Trực vương Dân Đê được tin, vội chạy lại xem. Trinh bèn đem tình hình nội vụ ra kể hết. Đê thấy lúc đó không có ai, bèn cầm tay Trinh kéo vào một căn mật thất, thì thào bảo Trinh:

- Ta hiện mời được một vị Đại Lạt Ma tên gọi Ba Hán Cách Long từ Mông Cổ tới. Đạo thuật của ông này rất cao. Ông ta có thư phù niệm chú, trấn ém được hồn người. Bọn ta chỉ cần dò hỏi niên can tám chữ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) của thái tử rồi viết lên tờ giấy, đút vào bụng hình nộm, một mặt mời Ba Hán Canh Long lập pháp bùa, niệm thần chú bảy ngày bảy đêm thì thái tử bên Đông cung thế nào cũng phát điên, không còn hay biết gì nữa. Đến lúc Dân Nhung không còn làm Thái tử được nữa thì bọn ta hai đứa sẽ tính toán với nhau sau.

Trinh nghe đoạn bỗng nghĩ ra một kế, bèn nói ngay cho Đê nghe. Xong đâu đấy, bọn Đê, Trinh liền cho mời nhà sư Đại Lạt Ma tới, đưa cho hai ngàn lạng bạc và nhờ nhà sư cứ như thế như thế hành sự.

Lại nói thái tử Dân Nhung thấy Thiết quan đạo nhân không thành công, trong lòng hết sức buồn bã. Ít hôm sau, thái tử bỗng tự nhiên mê mê man man, nhuốm bệnh nặng. Ban đầu, lúc thì nóng, lúc thì lạnh nhưng về sau bệnh càng ngày càng trầm trọng, cuối cùng thái tử đâm ra điên cuồng, miệng nói huyên thuyên, đôi má đỏ như lửa, hễ thấy người là đánh. Bên Đông cung, từ dưới lẽn trên, ai cũng đâm hoảng.

Tướng quốc Trương Anh mời ngự y lại trị bệnh cho thái tử. Nhưng có ngờ đâu vị ngự y đã nhận bạc hối lộ của Đại Lạt Ma, bèn lấy hai viên A Cô Ma hoàn cho thái tử uống. Thái tử ngủ một đêm dậy, quả nhiên bệnh tình giảm nhẹ đi nhiều, nhưng lại bị cái chứng "dâm" kinh khủng. Suốt ngày, thái tử chỉ cùng bọn phi tần mây mưa trăng gió. Thế mà vẫn chưa đã thái tử hễ thấy con cung nữ nào là lôi lên giường con ấy.

Đê và Trinh hai vương được tin đó, đều đem các phúc tấn đến Đông cung vấn an. Chẳng ngờ thái tử thấy anh em hai người này tới, chẳng nói chẳng rằng, chỉ trợn mắt nhìn chằm chặp vào mặt bà chị dâu là Tố Luân phi tử và cô em dâu là Nữa Cô Lộc phi tử. Nhìn đến lúc xuất thần, thái tử bỗng nhảy chồm tới, giơ hai tay ra ôm chầm lấy Nữa Cô Lộc. Bà Nữa nhanh chân né, kịp tránh thoát. Thấy hụt bà Nữa, thái tử quay sang bà chị Tố Luân. Bà bị thái tử hai tay ôm quàng lấy eo ếch rồi siết chặt, mặc cho bà vùng vẫy giãy giụa cách nào cũng không thoát ra được.

Dân Đê trông thấy, bất giác cả giận, vội chạy tới đẩy mạnh khen thái tử bật ra, té ngửa trên mặt đất. Đê hầm hầm tức giận, kéo tay vợ chạy khỏi cung. Đê tính tới tâu ngay việc này cho phụ hoàng rõ, nhưng bà Tố Luân phi tử cố can:

- Phụ hoàng vừa ở Giang Nam về chưa được bao ngày. Ta hãy cố nhịn vài hôm đợi khi phụ hoàng nhàn rảnh, lúc đó tấu minh cũng chẳng muộn.

Đê nghe lời vợ, tạm thời nín nhịn lòng giận tức.

Giữa lúc đó bỗng từ quan ngoại có tin quân báo về việc người Nga La Tư đem đại binh mã tiến đánh Mông Cổ. Khang Hi hoàng đế bèn hạ dụ sai bọn Đô thống Bành Công Xuân đốc lính tới miền ái Quân, hợp với quân của Tát Bố Tố đánh thốc tới Nhã Khắc Tát. Phá tan được thành Nhã Khắc Tát, Thanh quân mới cùng người Nga đính ước giảng hoà.

Chẳng bao lâu sau quân thám lại báo tin về bộ lạc Cát Nhĩ Đan xứ Mông Cổ liên hiệp với người Nga La Tư tạo phản.

Khang Hi hoàng đế bèn phong Dụ Thân Vương Phúc Toàn làm Phủ viễn đại tướng quân cùng với hoàng tử Dân Đê đem quân xuất cửa Cổ Bắc, đồng thời phong Cung Thân Vương Thường Ninh làm An Bắc đại tướng quân cùng với Giản Thân Vương Nhã Bố đem quân xuất cửa Hỉ Phong nghênh địch.

Ai ngờ quân Cát Nhĩ Đan mười phần kiêu dũng, vừa công phá quân Mông Cổ của A Lạp Ni lại vừa đánh vào Ô Châu Mục, Trấn, thẳng tới đánh tan quân của Cung Thân Vương, sau đó tiến sâu vào miền đông bắc Đa Luân của O Lan Bố Thông.

Phía Thanh binh may được Dụ Thân Vương dùng hoả pháo đánh được Đà Thành (dùng lạc đà làm thành để vây địch) của Cát Nhĩ Đan, khiến bộ lạc này đại bại, phải lui về miền Y Lạp Cổ Khắc Tam Hồ Khắc Đồ.

Dụ vương đang định xua quân xông thẳng vào miền này thì bỗng được tin Khang Hi hoàng đế nhuốm bệnh nặng tại thành Bắc lạc, đành ban sư trở về bắc Kinh.

Hồi đó, thái tử Dân Nhung bệnh càng ngày càng nặng. Cơn điên làm cho thái tử chẳng khác gì con loài thú, thấy người là đánh, thấy vật là phá. Đám phi tử nơi Đông cung ngày đêm chỉ khóc ròng. Bệnh của Thái tử quả đã đến lúc vô phương cứu chữa. Khang Hi hoàng đế mới về nên hoàng hậu có ý muốn giấu chuyện này đi, bởi vì ngài đang bệnh, lại vừa chịu cảnh chiến tranh quá vất vả gian lao.

Qua năm sau, bộ lạc Cát Nhĩ Đan lại đem ba vạn kỵ binh, tiến dọc theo sông Lục Liễu xuống đánh phá Khách Nhĩ Khách rồi tiến luôn tới đánh Ban Nhan Ô Lan.

Lúc đó Khang Hi hoàng đế sức khỏe đã hồi phục, bèn quyết ý ngự giá thân chính đem mười vạn đại quân chia làm ba lộ

Đông, Trung và Tây. Đại nguyên soái Đông lộ là Hắc long giang tướng quân Tát Bô Tố, Đại nguyên soái Tây lộ là đại tướng quân Phi Dương Cố đem đội cường binh Cam Thiểm từ Ninh Hạ vượt sa mạc dọc theo sông Thổ Lạp, đánh thốc vào mặt sau của địch. Còn Trung lộ thì hoàng đế đảm nhận trọng trách chỉ huy. Ngài xua quân theo cửa Độc Thạch tới Đa Luân Bạc, rồi hướng về phía tây sa mạc, lại theo đường Khoa Bố Đa dọc hữu ngạn sông Lục Liên, qua núi Ngách Nhĩ Đức Ni Đà La Hải Sơn.

Quân Cát Nhĩ Đan thấy lều vàng, cờ long độc của Khang Hi hoàng đế, hoảng hồn bạt vía, vội theo đường núi Đà Nặc Sơn chạy trốn. Hoàng đế xua quân đuổi tới Tháp Mễ Nhĩ thì kịp. Hai quân liều chết chiến đấu. Cát Nhĩ Đan lại đại bại. Tây lộ, Đông lộ hai chi quân mã lúc đó cũng đã hướng về phía hông bao vây địch, khiến chúa Cát Nhĩ Đan không đường trốn chạy. Khang Hi hoàng đế khuyên hàng nhưng Cát Nhĩ Đan đã uống thuốc độc chết trong Ô doanh. Hàng binh đem thây Cát Nhĩ Đan dâng vào trung quân. Từ đó các bộ lạc miền Khách Nhi Khách đều qui hàng Thanh triều. Khang Hi hoàng đế ban sư về kinh trong lòng hết sức hân hoan.

Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế mới nhớ tới thái tử, bèn triệu sư phó của thái tử là Hùng Tử Lý vào cung tương kiến.

Bọn nội đại thần Sách Ngạch Đồ biết dấu giếm không xong bèn cho đưa thái tử vào theo. Bọn hoàng tử Dân Đê, Dân Chỉ, Dân Trinh, Dân Dị, Dân Đường, Dân Tường, Dân Đề tất cả anh em hơn mườì người đều đứng cả một bên. Thái tử Dân Nhung thấy vua cha mà cũng chẳng biết hành lễ thinh an, chỉ một mực chân nhảy miệng kêu cuồng loạn. Khang Hi hoàng đế thấy thế rất lấy làm lạ, vội hỏi, mới biết thái tử bị bệnh quá lâu, vô phương cứu chữa. Ngài lập tức toạ triều, hỏi các đại thần văn võ xử tại cách nào đối với thái tử, thì từ đại học sĩ Trương Anh, Trương Đình Ngọc, bối lặc Long Khoa Đa đến đại tướng Miên Canh nghiêu, các lão Trần Thế Quan, vốn thuộc phe Ung vương, tất cả đều một giọng tâu xin truất phế thái tử. Hoàng đế cũng biết Dân Nhung bệnh đã đến mức đó thì không còn có thể làm thái tử được nữa nên hạ một đạo chỉ dụ phế thái tử làm thứ nhân (người dân thường), phải dọn ra khỏi Đông cung.

Tin này truyền tới tai các hoàng tử, ông nào ông nấy tỏ vẻ vui mừng khôn tả. Ông nào cũng hy vọng mình được ngồi vào ngôi vị đó. Trong số này, phải nói ông hoàng Bát A Kha Dân Dị lòng tối thâm hiểm, lúc nào cũng rắp tâm mưu đồ cái địa vị ấy. Ông ta ngầm bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mua chuộc bọn đại thần A Linh A, Tán trận đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thư Vương Hồng Tự, Thị lang Khuê Tự. Khéo thay lúc đó hoàng đế lại có thánh chỉ xuống sai bọn Đạt Nhĩ Hán Thân Vương là Ngạch Luân Đại hội họp đủ các đại thần Mãn Hán cùng bàn việc kế lập thái tử.

Thế là bọn nội đại thần A Linh A, bèn ngầm viết ba chữ Bát A Kha rồi đưa vào cung. Ngờ đâu Khang Hi hoàng đế lại rất ghét Bát A Kha, ghét vào bực nhất trong số các hoàng tử.
Bát A Kha không những mặt mũi đã xấu mà phẩm hạnh lại quá tệ Hoàng đế đoán biết bên trong hẳn còn tệ đoan gì đây, bèn nhân lúc ngồi toạ triều, truy vấn về chuyện này.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com