watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:42:2118/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thanh Cung Mười Ba Triều 51 - 75 - Trang 13
Chỉ mục bài viết
Thanh Cung Mười Ba Triều 51 - 75
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 13 trong tổng số 14

Hồi 73
LẠC THÚ MIÊN GIANG NAM

Sáng hôm sau, Lưỡng Giang tổng đốc đi cùng với bọn văn võ quan viên tới ngự chu để thỉnh an. Giang Hạc Đình cũng có mặt trong đám; không ngờ vừa mới tới mỏm sông, cả bọn đã thấy lũ thái giám xua tay bảo rằng hoàng thượng đang nghe ca trong thuyền chớ có làm phiền khiến anh nào anh nấy quýnh quýnh kéo nhau thối lui, miệng câm như hến, chẳng dám thở mạnh nữa. Duy chỉ có quan tổng đốc Lưỡng Giang là dám tiến đến nói khó với lũ thái giám cho phép đứng ở đầu thuyền đợi. Thế mà chúng cũng nhất định không chịu.

Cả bọn vô phương đành đứng dàn hàng trên bờ tít mãi nơi xa mà chờ. Mãi lâu sau, khi nhìn xuống họ thấy Uông Như Long bước ra ngồi trước mũi thuyền cười nói tự nhiên với bọn thái giám, lại thấy chiếc thuyền đó bốn bên buông màn kín mít, văng vẳng đưa ra những tiếng nhạc giọng ca vô cùng êm ái, vọng mãi tới phía xa bờ khiến ai đi ngang cũng phải dừng chân lắng nghe.

Giang thân sĩ lúc đó ngạc nhiên đến sững sờ. Ông tự nhủ: trong toàn Trung nguyên thì ca vũ nhất nương châu mà Dương Châu ca vũ lại nhất gánh hát nhà mình, vậy mà hôm nay lại có gánh hát nào giỏi giang đến mức lưu giữ được hoàng thượng dưới thuyền. Giang càng nghĩ càng tức, liền kéo một tên thái giám ghé tai khẽ hỏi, song hắn chẳng chịu hé miệng.

Bọn quan viên đứng ngoài xa đợi từ sáng cho đến trưa, chân đã thấy chồn, gân đã thấy mềm, lúc đó tiếng ca nhạc mới dứt. Nhưng tiếng ca vừa dứt thì tiếng cười đùa đã khanh khách nổi lên.

Lưỡng Giang tổng đốc khẩn cầu bọn thái giám lên thuyền thông báo giùm nhưng có ngờ đâu cứ mỗi cái mồm của bọn này là phải có đúng một vạn lạng… Về sau cầu khẩn mãi chúng mới vui lòng nhận cho với giá sáu ngàn. Bọn thái giám được tiền đút rồi mới vui lòng nói cho biết gánh trên thuyền là gánh Tứ Hỉ của Uông thân sĩ, trên gánh có một cô đào tên gọi Tuyết Như sắc đẹp tuyệt trần, đã được hoàng thượng chấm rồi. Buổi hát vừa dứt, hiện hoàng thượng đã truyền lệnh Tuyết cô nương hầu rượu trong bàn yến. Các vị đại nhân dù có muốn triều kiến thì cũng chưa đến lúc. Tốt hơn hãy cứ lui, đợi khi nảo yến tiệc xong họ sẽ tâu cho.

Bọn quan viên nghe xong chẳng biết lảm sao, đành tạm thời rút lui về, ăn vội ăn vàng cho qua bữa cơm trưa rồi lại kéo nhau tới mỏm sông chờ đợi bọn thái giám vào trong tâu trình. Bỗng thánh chỉ truyền ra, cho gọi độc mỗi Uông thân sĩ được vào khoang bệ kiến thôi.

Uông thân sĩ đã chực ở đầu thuyền từ lâu, khi nghe lệnh gọi mình, vội đội mũ, sửa áo, cúi thấp đầu xuống, run lập cập bước vào.

Lát sau, người ta thấy Uông thân sĩ miệng cười toe toét, huênh hoang bước ra khỏi khoang. Một lát sau, lại có thánh chỉ truyền ra, thưởng Uông Như Long một cái mũ nhị phẩm, tám mươi lạng bạc trắng, cho phép làm Ngự tiền đương sai (người sai phái trước mật vua).

Uông Như Long tiếp thánh chỉ, cất bước lên bờ. Nhiều quan viên chạy tới đón rước xa phụng, bộ mặt Long lúc đó mang vẻ kiêu căng rõ rệt. Long nhìn thấy Giang Hạc Đình lại càng làm bộ già, Đình chạy lại níu kéo hỏi han, nhưng Long phớt lờ chẳng thèm đếm xỉa tới.

Đình mắc cỡ quá, chỉ muốn độn thổ. Đã thế, Long thấy tổng đốc cũng chỉ vòng tay chào một cái rồi leo lên kiệu đi ngay.

Thấy Uông thân sĩ đã đi xa rồi, bọn thái giám mới truyền thánh chỉ ra bảo mọi người, quan lại cũng như thần sĩ, hãy lui về nha môn, quá trưa rồi, hoàng thượng mệt cần phải nghỉ, khỏi túc trực. Từ phía trong cũng đưa ra một vạn lạng bạc để thưởng cho Giang thân sĩ. Thân sĩ họ Giang chờ chực đã bao lâu mà chi được vỏn vẹn có một vạn lạng. Tiền tạ bọn thái giám đã gần hết số đó, Giang nghĩ lại mà chán, đành cúi đầu buồn bã trở về.

Tới nhà, Giang thân sĩ cho người đi dò thám mới được biết gánh hát Tứ Hỉ vốn là gánh hát của gia đình họ Uông. Hoàng thượng sinh trưởng nơi thanh cung, thường chỉ thấy bọn phấn son phương bắc chứ chưa bao giờ được thưởng thức cái đẹp duyên dáng của gái Giang Nam. Cho nên khi gặp Tuyết Như, một người đẹp bậc nhất đất Dương Châu, da trắng như tuyết, mịn như nhung, tiếng hát như oanh vàng líu lo trên cành xuân thì làm sao ngài chả mê tít đi ngay. Tuyết Như lại còn là một cô gái còn trinh, đêm đầu thiêng liêng ấy đã hoàn toàn dành cho ngài, thử hỏi ngài không sủng ái sao được.

Luôn ba ngày đêm, hoàng đế hụp lặn trong suối đào nguyên, chẳng thèm hỏi tới thần dân. Bọn quan lại thân sĩ bàng hoàng, chẳng hiểu ra sao, bèn lẻn tới bên thuyền hỏi dò bọn thái giám thì biết được hoàng thượng còn mải cùng với người đẹp ca vũ thủ lạc.

Đến ngày thứ tư, hoàng thượng mới triệu kiến Lưỡng Giang tổng đốc. Lúc này, ngài tỏ vẻ sung sướng, vui vẻ hết sức. Trước mặt viên tổng đốc, ngài khen lấy khen để, về việc tiếp rước hết, sức chu đáo và tổng đốc là người hết sức trung quân.

Ngài thưởng cho ông ta bốn vạn lạng. Viên tổng đốc vội dập đầu tạ ơn. Sáng hôm sau, thuyền rồng nhổ neo. Suốt dọc đường qua Trấn Giang, Nam Kinh, chỗ nào cũng cung ứng đầy đủ, chẳng thiếu một thứ gì. Lúc này, hoàng đế đã có người đẹp Tuyết Như hầu hạ bên cạnh, hôm sớm múa vui, thì có cần gì ai khác nữa.

Người thua thiệt nhất trong cuộc này chỉ có Giang thân sĩ.

Họ Giang nhớ mãi cái nhục này, nhất là đối với Uông Như Long. Y về tới nhà, bèn bàn tính với Huệ Phong suốt mấy ngày đêm, hy vọng tìm ra kế sách rửa được mặt sau này, để khỏi thẹn mình là tay giàu nhất đất Dương Châu. Mặt khác, nàng Huệ Phong bị một keo cụt hứng cũng cố tìm cách lấy lại tên tuổi mình.

Đã mấy ngày qua, nàng bỗng tìm ra được một điệu kế, gọi là I,Thuỷ hí đài". Thuỷ hí đài là làm sao? Đó là kế biến mặt thuyền thành sân khấu, trên sân khấu được trần thiết hết sức hoa lệ. Sân khấu này làm hai cái đúng in nhau. Lại nhờ những tay soạn kịch trứ danh viết lại những tuồng như Hoàng mẫu Yến, Phong Thần truyện, Kim Sơn tự, với những giọng văn vô cùng vui nhộn hấp dẫn. Giang thân sĩ còn bỏ ra mười vạn bạc đút lót viên tổng quản thái giám để nhờ y ủng hộ ngầm bên trong.

Hôm đó, ngự chu tới chân núi Kim Sơn thì trời đã nửa đêm. Giang thân sĩ ngầm đốc thúc bọn địch phu chèo hai toà Thuỷ hí đài lại gần thuyền rồng rồi lấy xích sắt cột chặt lại.

Sáng hôm sau, khi hoàng đế còn đang cùng Tuyết Như yên giấc trên giường, bỗng một điệu nhạc du dương trỗi dậy.

Ngài hỏi thì viên tổng quản thái giám vội tâu có vị thân sĩ Dương Châu muốn hiến một ban ca vũ giúp vui phía ngoài khoang. Hoàng đế nghe nói, lấy làm thích, cho kéo hết rèm màn che cửa sổ lên. Ngài nhìn ngay thấy hai bên tả hữu ngự chu đều có hai cái sân khấu trang hoàng cực kỳ hoa lệ. Sân khấu bên tả lúc đó đang diễn vở Quần tiên vũ. Một đàn con gái son phấn đẹp như hoa như liễu, một bên ca, một bên vũ, tiếng du dương quyến rũ, điệu uyển chuyển mê hồn. Tiếng sênh, tiếng tiêu hoà tấu nhịp nhàng, chẳng khác gì bày tiên nữ ca vũ trên Quảng Hàn cung. Khi sân khấu bên tả ngừng diễn thì sân khấu bên hữu mở màn ngay. Đấy là cảnh Tán hoa thiên nữ (cô gái trời tung hoa). Một mỹ nhân tuyệt sắc bắt đầu ca và vũ, giọng oanh trong trẻo, dung nhan quyến rũ mê hồn…

Hoàng đế đã mê ngay, thì thầm tự nhủ: "Đẹp như thế kia đúng là nàng tiên rồi!"

Ngài quay lại hỏi:

- Con gái nhà ai vậy?

Viên tổng quản thái giám đã nhận tiền của Giang thân sĩ từ trước, liền tâu:

- Tâu hoàng thượng! Đây là gánh hát Cặp Khánh của thân sĩ Giang Hạc Đình đất Dương Châu. Cô gái đóng vai nàng tiên kia là đào chính tên gọi Huệ Phong.

Hoàng thượng nghe xong, gật đầu tán thưởng:

- Quả khó được kẻ trung can như hắn! Thằng cha này kể cũng đáng thương lắm!

Hoàng đế nằm trên giường, tay ôm Tuyết Như trong lòng, miệng uống rượu, mắt coi hát. Trong sân khấu vừa diễn xong màn ca vũ thì tiếng trống lớn tiếng thanh la vang rầm, rồi vở Thiên môn trận bắt đầu. Vở Thiên môn trận dứt, lại diễn tới vở Pháp môn tự.

Qua ngày hôm sau, trên sân khấu hai bên tả hữu lại luân phiên diễn những vở tuồng vui nhộn như hôm qua. Thế rồi, hết ngày này qua ngày khác, gánh hát luân phiên diễn xuất.

Hoàng đế vốn từ nhỏ chưa từng được xem những vở tuồng dân dã như vậy bởi thế ngài coi mãi không chán. Ban đêm, gánh hát lại diễn vở "Mục Liên cứu mẹ" rồi "Quan Âm du địa phủ". Trong rừng đèn rừng đuốc, nào quỉ, nào thần vụt hiện vụt mất, có lúc đèn đóm tắt ngỏm, nhưng lại có lúc lửa đuốc sáng rực trời. Hoàng đế vui hết mức, bèn chạy về sau thuyền mời Thái hậu cùng ra xem. Thái hậu xem rồi cũng hết lời tán thưởng.

Quang cảnh hoạt náo ấy chẳng biết kéo dài đã bao ngày. Chỉ thấy hôm đó, thái giám tâu bảo đã tới Tô Châu. Quan tuần phủ Tô Châu đem theo bọn quan lại, thân sĩ đứng ở phía ngoài đón giá. Hoàng đế nghe bảo, lấy làm lạ lắm, bèn nói:

- Thuyền rồng tuyệt nhiên không thấy dao động, tại sao tới Tô Châu được?

Tổng quản thái giám lúc đó mới được dịp tán tụng Giang Hạc Đình để vừa làm hoàng đế thích thú, vừa kể công được với Giang.

- Chuyện tài tình này đều nhờ óc khôn khéo của Giang Hạc Đình. Đình sợ Hoàng thượng dọc đường buồn bã, nên sáng tạo hai toà Thuỷ hí đài, tập luyện một gánh hát tuyệt hay để hiếu kính hoàng đế đấy!

Càn Long hoàng đế nghe đoạn liền nói:

- Quả thật khó được một người có lòng trung như Giang Hạc Đình.

Từ đó, Hoàng đế, thanh thì có Huệ Phong, sắc thì có Tuyết Như, lòng ngài vô cùng hứng khởi. Giang Hạc Đình được Hoàng đế thưởng tứ trở về, cố ý mặc mũ áo nhị phẩm vào rồi đến thăm Uông Như Long. Long thấy Đình cũng được ân huệ chẳng thua mình, trong lòng đã lấy làm ghen ghét lắm, đến lúc thấy cái vẻ mặt kiêu căng vênh váo của Đình, càng tức tối hơn.

Thế là từ đó, hai gia đình Uông, Giang ngấm ngầm kết mối oan cừu. Uông thân sĩ đêm ngày lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chuyện áp đảo họ Giang. Đó là việc sau này.

Lại nói Càn Long hoàng đế từ Tô Châu tới Hàng Châu, đem luôn hai toà Thuỷ hí đài vào giữa Tây Hồ để chọn quan viên xem hát. Lại thấy phong cảnh Tây Hồ xinh đẹp ngài bèn mời Thái hậu ngồi trên chiếc kiệu nhỏ ngày ngày du ngoạn đó đây.

Kể lại lúc Càn Long hoàng đế chưa tới Hàng Châu, bọn quan lại thân sĩ trong thành vội vã sửa soạn đón giá trọng thể. Thoạt tiên, bọn này đã tính tuyển lựa một trang tuyệt sắc giai nhân giả làm cô gái lái đò hái sen trong Tây Hồ, mong làm đẹp lòng Thánh thượng. Nhưng về sau được tin Dương Châu có Tuyết Như sắc nước hương trời đã chiếm mất đầu sổ, họ sợ rằng nếu bắt chước họ, ắt không khỏi bị người Dương Châu chê cười, và nếu bị hoàng đế chối từ, lại gây nhục cho thể diện cả một tỉnh thành lớn. Hơn nữa, việc xây cất cả một toà lâm viên vĩ đại chỉ trong một thời gian ngắn quyết không thể nào xong được. Bởi vậy họ cần phải tìm kế hoạch tuyệt mỹ mới hòng chiếm thế thượng phong.

Giữa lúc cả bọn còn phân vân suy tính, bỗng có một vị tên gọi Hàn Thán Sĩ đứng lên nói:

- Tôi có một kế. Tây Hồ của bọn ta có rất nhiều danh sơn cổ tháp. Nào chùa Tính Từ, chùa Hải Trào, chùa Chiêu Khánh, chùa Quảng Hoá, nào chùa Phượng Lâm, chùa Thanh Lương, trên nữa còn có Chí Linh Thiên Trúc. Cao tăng, đại Phật lại cũng rất nhiều. Hoàng đế trời sinh tính thông minh từ nhỏ đã thích kinh điển thiền cơ. Bởi vậy ngài thường xa giá tuần hành chùa Thanh Lương tại Ngũ Đài sơn. Chùa này vốn là nơi Thánh tổ thế phát qui y trước đây. Trong chùa, có cất một bảo toạ. Hoàng thượng thường bảo chúng tăng cao toạ tham thiền. Phương trượng của chùa pháp danh là Tuệ An. Thánh tổ đã phong Tuệ An là trí tuệ chính giác phật. Tuệ An có tám người môn đệ: Mạn Như, Trí Viên, Hạo Nhiên, Cao Lãng, Tâm Trứng, Đại Triệt, Trí Hằng, Vô Tượng. Tất cả tám người ai cũng đạt tới mức tham thiền thượng thừa, làu thông kinh sách, hoàng thượng đều gọi họ là sư huynh. Tất cả những điều này đều do bọn thái giám thân cận hoàng thượng cho bọn anh em tôi hồi còn ở kinh kỳ biết, chứ bọn quan lại, thân sĩ Dương Châu, Tô Châu thực chưa hề hay được. Bọn ta nhân cơ hội này, tìm kiếm các vị cao tăng trong thiên hạ, đặt rải rác khắp nơi danh lam thắng cảnh rồi đợi khi nào Hoàng thượng tới, chùa miếu sẽ xây lên những tháp cao, cất lên những đài lớn, nhất loạt thực hiện pháp sư. Ngoài ra, bọn ta nên đắp nhiều giảng đài, mời các vị cao tăng lên đài thuyết pháp. Hoàng thượng thấy vậy nhất định phải vui mừng, đồng thời hẳn cũng thấy thân sĩ, quan lại của tỉnh ta thanh cao chứ không tầm thường như các nơi khác.

Tuần phủ Chiết Giang nghe đoạn bèn hỏi:

- Nhờ đâu lão huynh biết được hoàng thượng nhất định vui mừng?

Hàn Thân sĩ trả lời:

- Hoàng thượng từ Dương Châu rồi Tô Châu tới đây, dọc đường toàn thụ hưởng thanh sắc phồn hoa, bỗng ngài vào nơi đất phật thanh tịnh, có khác chi người uống một liều thuốc thanh lương tán? Hoàng thượng lại vốn có Phật căn thì thử hỏi làm sao chẳng mừng?

Tràng lý luận của Hàn Thân Sĩ làm cho cử toạ thảy đều vỗ tay khen ngợi. Viên tuần phủ lại nói:

- Muốn cho hoàng đế vui mừng, thiết tương bọn ta phải đi mời pháp sư chùa Ngũ Đài sơn về trụ trì mới xong.

Nói đoạn chính tay ông viết một mật thư rồi sai người lên đường ngay tức khắc để mời cho kỳ được các vị danh tăng núi Ngũ Đài.

Hồi này, vị chủ trì chùa Thanh Lương là Huệ An đã cáo lão từ ngôi, nhường lại cho đại đồ đệ Mạn Như trông coi mọi việc nhà chùa. Sư Mạn Như tuy nói là tham thiền thông tuệ nhưng lại phải cái tính tham tiền hiếu sắc. Thấy tuần phủ Hàng Châu cho người tới mời cao tăng, Như đoán ngay rằng đây là một dịp tốt để làm tiền. Như cười nhạt bảo người đưa thư.

- Người Hàng Châu các ngươi cũng biết chạy tới ôm chân phật à? Hiện nay bọn ta trong chùa cần xây cất điện đồng tháp sắt, tối thiểu cũng phải có một trăm vạn lạng bạc mới xong được. Bọn sư huynh, sư đệ đều phải xuống núi đi phủ khuyến khắp nơi, có ai rảnh để tới miền Giang Nam lầy lội đó được?

Người đưa thư thấy giọng lưỡi sư Mạn Như có ý quyết tuyệt mà ngày tiệp giá đã gần kề trong lòng rất lấy làm bối rối lo lắng. Y đành phải thương lượng đôi ba lần với Mạn Như:

- Sư huynh, sư đệ đã không có ở trên núi, vậy thì xin đại sư phái cho vài vị đồ đệ đi thay cũng được.

Nhưng sư Mạn Như vẫn quầy quậy lắc đầu không chịu. Người đưa thư nọ chẳng biết làm cách nào, sốt ruột quá đành nói liều xin quyên cùng hai mươi vạn lạng bạc để nhà chùa xây tháp sắt. Vớ được tủ rồi, sư Mạnh Như khăng khăng một mực làm cao. Người nọ cò kè trả giá bốn mươi vạn lạng bạc.

Lúc đó, sư ta mói khứng chịu. Y quay sang phòng bên kêu luôn một lúc bốn nhà sư rồi dặn dò bảo theo người đưa thư đi Hàng Châu thuyết pháp Bọn quan viên, thân sĩ Hàng Châu nghe nói đã mời được nhiều vị cao tăng núi Ngũ Đài, sướng như bắt được vàng, vội dọn dẹp quét tước thiền đường sạch sẽ, trang hoàng nghiêm chỉnh. Khi bốn vị hoà thượng nọ tới Hàng Châu, cả bọn đều tề tựu đi đón rước.

Không ngờ khi thay mặt, nhất là lúc đàm đạo phật pháp họ mới biết bọn sư này một chữ không thông, cử chỉ lại lỗ mãng quê mùa hết mức, tất cả thở dài mất hết cả kỳ vọng. Song bởi lẽ bốn vị sư nọ vốn từ Ngũ Đài sơn tới nên dù sao bề ngoài họ cũng tỏ ý kính trọng chiếu lệ.

Ở đời thường có những chuyện kỳ cục xảy ra ngoài ý liệu. Bốn vị sư nọ ở chùa lâu dần chẳng thèm giữ giới nữa, ban đầu chúng lén xực đồ mặn khiến có người phải ngạc nhiên tại sao cổng sau nhà chùa lại đổ đầy cả lông gà xương vịt. Về sau tệ hơn, chúng còn lén đem cả gái về chùa nữa.

Đàn bà con gái Hàng Châu vốn tin phật. Họ nghe đồn Hàng Châu mở đạo tràng lớn cho nên kéo nhau tới. Những mỹ nhân khuê tú từ một giải Tô Hàng thấy ngự giá chưa tới, bèn rủ nhau viếng cảnh Tây Hồ, xem danh sơn và lễ phật.

Lợi dụng dịp này, bọn sư hổ mang nọ lén làm những căn mật thất trong chùa rồi hễ thấy cô nào, bà nào sạch nước là kéo ngay vào mật thất, dấu kín đó hưởng lạc. Số phụ nữ chúng bắt cóc, như vậy chưa đầy một tháng mà đã tới ba mươi sáu người. Những gia đình lân cận, những viễn khách hành hương thấy vợ con họ tự nhiên mất tích, bèn ồ ạt lùng sục kiếm tìm.

Bọn sư hổ mang mướn thợ làm gấp những địa đạo, những thâm phòng quanh co khúc khuỷu để giấu đám phụ nữ bắt cóc được, đêm ngày tác lạc. Chúng còn tự ý đem cầm bán những sản nghiệp trong chùa. Biết chúng cậy thế lực của bọn sư huynh sư đệ thân thiết với hoàng đế nên chẳng có ai dám can thiệp.
Nhiều người mất vợ mất con, tuy biết rõ bọn trọc này gây nhiều tội ác nhưng yếu vía, chẳng dám làm gì. Cũng có đôi kẻ can đảm làm đơn cáo quan, nhưng bọn quan lại giả câm giả điếc lờ luôn. Bọn trọc thấy không ai dám làm gì mình, càng đắc ý làm tới. Trước còn bắt cóc gái nhà dân, về sau bắt cả con nhà quan, nghĩa là cứ thấy gái đẹp là bắt cóc, chẳng chừa ai.

Hồi 74
CUỘC ĐÓN RUỚC TÂN KỲ

Bọn sư hổ mang từ Ngũ Đài sơn tới Hàng Châu càng ngày càng lộng hành. Hồi đó, tại miền Đường Thế có một vị thân sĩ họ Dương, đã từng giữ chức tổng binh nơi quan ngoại, hiện đang dưỡng bệnh tại nhà. Ông Dương có một người vợ bé tên gọi Lâm nương vốn xuất thân từ chốn lầu xanh. Lâm nương mặt mũi xinh đẹp nên Dương tổng binh hết sức cưng quý. Nàng vốn tin phật, khi nghe đồn Hàng Châu đón cao tăng về thiết lập đạo tràng, bèn ngỏ ý với chồng muốn đi Hàng Châu hành hương… Dương tống binh bằng lòng và nhân tiện cùng đi luôn với nàng. Không ngờ chỉ được có ba ngày Lâm nương bỗng mất tích. Kiếm cùng cả mà chẳng thấy đâu, Dương tổng binh quýnh lên chạy đền nha môn quan tướng quân tố cáo. Vị tướng quân nọ phải mấy tên thân binh đi tìm giúp.

Ngẫu nhiên Dương tổng binh nghe con a hoàn của Lâm nương hót ra, mới biết cô vợ bé của mình bị bọn trọc Ngũ Đài sơn đánh lừa đem đi mất. Dương tổng binh vốn con nhà võ, nghe được tin đó lập tức đem bọn tuỳ tùng của mình xông vào trong miếu. Chốn địa huyệt này trang hoàng nào trướng gấm phòng the, nào gối dài chăn lớn, luôn luôn có đèn đuốc sáng choang.

Lâm nương cùng với hơn mười phụ nữ khác đều bị giam giữ ở đây. Dương tổng binh tìm được vợ rồi, vội lùng bắt bọn sư hổ mang nhưng bọn trọc này thấy động ổ đã cao chạy xa bay từ lúc nào. Dương tổng binh tức giận lồng lộn như trâu điên, quát tháo rầm lên như sấm. Ông đem Lâm nương định tới Tô Châu đánh trống thượng cáo, khiến cả bọn quan viên, thân sĩ hốt hoảng xô tới can ngăn, lại còn phải góp nhau lấy một số tiền là mười vạn lạng bạc gọi là "tiền che xấu" để đưa tiễn ông về quê. Ngoài ra còn ba mươi sáu người đàn bà khác cũng tìm ra được cả. Bọn quan lại, thân sĩ địa phương phải đưa từng người một về nhà.

Chuyện bê bối trên đã làm cho nơi phật đường trang nghiệm chịu một phen thất điên bát đảo. Mà ngày tiếp giá đã tới gần. Chốn đạo tràng tuy phải xây cất toàn mới nhưng cũng có thể chu tất được. Cái khó nhất là phải tìm đâu ra những vị danh tăng chủ trì giảng đàn bây giờ?

Mãi về sau, lại cũng Hàn Thân Sĩ nghĩ ra được biện pháp cấp cứu ông nói:

- Hàng Châu ta vốn đất văn vật, thiếu gì những tay tài cao học rộng, làu thông kinh điển. Tại sao bọn ta không mời họ lại thế phát tạm thời, chia nhau chủ trì giảng đàn.

Ý của Hàn Thân Sĩ vừa đưa ra thì bọn hàn sĩ làu thông kinh điển đều kéo tới đáp ứng ngay. Hàn Thân Sĩ cũng là người hiểu chút ít về pháp môn Đại thừa cũng như Tiểu thừa.

Thế là cả bọn quây lại với nhau làm thử một phen, sau đó chọn mấy tay cừ nhất, không những về văn từ nghĩa lý mà còn cả về lợi khẩu hùng biện, đem thế phát (cắt tóc) trước rồi chia đi các chùa trụ trì. Trước khi chia tay, cả bọn có mấy điều ước như sau: nếu kẻ nào có thể đối đáp vừa ý Hoàng thượng thì được làm hoà thượng vĩnh viễn và biếu thêm hai vạn lạng bạc. Nếu kẻ nào không được tiếp ngự giá thì khi Hoàng thượng hồi loan rồi, có quyền tự ý hoàn tục và được thưởng bốn ngàn lạng bạc thù lao.

Trong số hàn sĩ tình nguyện có bốn người uyên thâm kinh điển, biện luận lưu loát: một người họ Trình, một người họ Phương, một người họ Dư và một người nữa họ Cố. Hàn Thân Sĩ bèn giúp họ đổi tên mới: họ Trình thì đổi là Pháp Khánh, trụ trì tại chùa Chiêu Khánh; họ Phương thì đổi tên là Huệ Lâm trụ trì chùa Tỉnh Tư; họ Dư đổi thành là Thập Đắc, trụ trì tại chùa Thiên Trúc, họ Cố thì đổi tên là Bảo Tướng trụ trì chùa Linh Ân.

Trong số bốn vị này, Pháp Khánh là tay cơ cánh nhất. Bởi vậy người ta thiết lập đại pháp tràng ngay trước chùa Chiêu Khánh, bố trí bảy bảy bốn chín ngày thuỷ lục đạo tràng.

Cứ tối đến Pháp Khánh đại sư lại lên đàn thuyết pháp. Đại pháp tràng dựng lên giữa một đám đất bằng, có sàn cao trăm trượng, chung quanh che khắp, nào cờ, nào quạt, nào tán tỉa lọng vàng, giữa có tượng phật uy nghi.

Khi phát khởi đạo tràng thì trống chiêng dậy đất, đèn đuốc rực trời, hương khói nghi ngút, bay mùi thơm đi mấy dặm.

Thiện nam tín nữ qua lại nườm nượp; tiếng nam mô vang thấu tận trời xanh. Trên giảng đàn còn trang nghiêm hơn, lầu gác kết hoa cao vòi vọi lưng chừng trời. Giữa toà sen, Pháp Khánh đại sư ngồi ngay ngắn, tay chắp trước ngực, mắt nhắm nghiền, ảnh kim quay bàn trên đài, đèn đuốc sáng trưng, khói hương nghi ngút. Vị lão tăng nhập định, trông chẳng khác gì tượng phật giát vàng. Phía dưới đài, ở hai bên đường rải đá, năm ngàn tăng nhân đứng dàn hàng thẳng tắp nghiêm trang. Trên mặt đất, trải một lớp nệm hoa dầy gần thước để cho mọi người qua lại. Tứ bề lặng ngắt, không một tiếng động nhỏ. Thiện nam tín nữ bốn phương tới chiêm bái, muôn đầu nhấp nhô như sóng bể ồ ạt kéo từ ngoài cổng lớn vào, kẻ nào kẻ nấy chắp tay cúi đầu, đứng thẳng im lặng. Ngoài cổng lớn treo một lá cờ lớn trên có thêu sáu chứ: "Vâng chỉ kiến thiết đạo tràng" thật lớn. Hai bên có treo "Hạ mãi bài" trên viết: "Văn võ quan viên, quân dân các cấp tới đây đều phải xuống xe xuống ngựa".

Pháp Khánh đại sư tĩnh toạ một ngày trời, đến đêm hôm đó, ông bắt đầu thuyết pháp. Thật là tiếng to như chuông lớn, lưỡi dẻo như hoa sen, thuyết hay đến nỗi kẻ nào cũng phải gật đầu, người nào cũng muốn quy y.

Pháp Khánh đại sư thuyết pháp như vậy được mười bốn ngày thì Hoàng đế tới. Bọn quan lại, thân sĩ trình lên ngự lãm danh sách các vị tăng trụ trì các chùa. Hoàng đế thấy thiết lập đạo tràng quá lớn, trong lòng rất lấy làm mừng. Thái hậu cũng là người tin phật. Bà hay kể lại lúc đức Thánh tổ còn sinh thời, ngài có duyên với phật ra sao. Tây hồ vốn nơi đất phật. Vậy nên ưu đãi tăng nhân, hoằng dương phật pháp.

Càn Long hoàng đế bèn rước Thái hậu bước vào đạo tràng.

Hoàng đế dặn bảo bà: "Họ đã ở trong đạo tràng thì đều là con cháu nhà phật, phải nhất luận bình đẳng". Do đó, ngài cho phép nhân dân tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan không cần phải lẩn tránh.

Pháp Khánh đại sư ngồi trên giảng đài, thấy ngự giá giáng lâm mà vẫn thản nhiên, coi như không có, vẫn cao giọng thuyết pháp. Hoàng đế và Thái hậu đem theo toàn thành quan viên đứng phía dưới đài lắng nghe một cách cung kính. Khi hết bài thuyết, Pháp Khánh đại sư mới bước xuống đài, cung kính đón rước ngự giá. Hoàng đế cười hỏi:

- Hoà thượng từ phương nào?

Pháp Khánh đáp:

- Tử phương tới tới!

Lúc đó hoàng đế cầm trong tay một chiếc quạt xếp. Bỗng ngài giơ cao chiếc quạt đập một cái thật mạnh vào đâu Pháp Khánh đại sư. Bọn quan viên theo hầu hai bên thấy vậy thất kinh biến sắc cho rằng hoàng đế nổi giận, nhưng khi nhìn lại thấy nét mặt của ngài vẫn tươi cười như thường, họ lấy làm lạ. Bỗng nghe từ trong cổ họng Pháp Khánh một tiếng "canh" ngân dài vang lên, y như lúc người ta đánh vào chiếc khánh. Tiếng khánh ấy vừa dài vừa vọng mãi đi xa…

Hoàng đế nghe xong, cười lớn bảo:

- Hoà thượng lầm rồi! Khánh của kẻ kia đâu có giống Khánh của hoà thượng? Khánh của hoà thượng cũng không giống Khánh của ta. Vậy nghĩa lý như thế nào?

Pháp Khánh lớn tiếng đáp:

- Khánh cũng biết giữ Pháp, chẳng phải Pháp, ắt chẳng dám lên tiếng!

Hoàng đế nói:

- Hoà thượng lại sai rồi! Tiếng của hoà thượng chẳng phải là tiếng, Pháp của hoà thượng cũng chẳng phải là Pháp! Không phải Khánh của hoà thượng thì cúng chẳng là Khánh. Có gì mà dám với không dám? Có gì phải giữ với không giữ? Lại muốn lên tiếng thì cứ lên tiếng, cần gì mà phải giữ.

Pháp Khánh cũng cười đáp:

- Hoà thượng không có cây quạt, cho nên hoà thượng là Khánh. Hoà thượng là Khánh chứ chẳng phải tiếng Khánh, cho nên hoà thượng là Pháp.

- Hoà đế hiểu lầm rồi. Cây quạt đập tới tiếng Khánh, nên phát ra. Hoà thượng viên tịch. Hoà thượng còn phải giữ cái diệu lý ấy.

Hoàng thượng nói đoạn, ném cây quạt cho Pháp Khánh rồi nói:

- Trẫm cho hoà thượng cây quạt.

Pháp Khánh tiếp lấy cây quạt của hoàng đế rồi đánh vào chiếc đầu trọc của mình liên tiếp, vừa đánh vừa kêu lên những tiếng "canh canh" nặng nhẹ mau chậm tuỳ theo cây quạt, chẳng khác gì lúc đánh chiếc Khánh.

Hoàng đế thấy thế, nhịn không nổi, bật phì cười. Ngài lại hỏi:

- Hoà thượng đã có quạt mà không giữ Pháp. Vậy thi hoà thượng lầm hay quạt lầm?

Pháp Khánh đáp:

- Chẳng phải hoà thượng lầm, cũng chẳng phải quạt lầm! Đó là Pháp Khánh lầm, là người cho Pháp Khánh lầm đấy!

Hoàng đế nghiêm mặt nói:

- Chỉ vì quạt lầm nên luỵ đến hoà thượng. Chi bằng vứt quách cái quạt đi là xong!

Nói đoạn, ngài giơ tay giật cái quạt trong tay Pháp Khánh rồi ném xuống đất, pháp Khánh vẫn bình thản, chẳng hoang mang, chỉ lượm chiếc quạt lên nói:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Cây quạt chẳng lầm, chỉ có Pháp Khánh lầm thôi!

Hoàng đế suy nghĩ một lát nói:

- Vậy Pháp Khánh nên giữ lấy cây quạt truyền cho ngươi đời, để họ khỏi lầm!

Pháp Khánh chắp tay nhắm mắt niệm phật hiệu:

"Tây thiên tự tại quang minh đại thiện giác ngộ viên mãn phật.

Nam vô thông minh trí tuệ vô khiên vô ngại phật!
"

Hoàng đế thấy thế cũng chắp tay đáp lễ:

- Phật nào? Phật nào? Ấy là kiền thi quyết.

Nói đoạn ngài quay mình bước vào trong điện đi xem chùa.

Xem xong ngài bước ra cửa, Pháp Khánh cầm đầu năm ngàn tăng nhân cùng thiện nam tín nữ cùng đưa ngự giá. Hoàng đế bước ra cửa lớn, quay đầu lại, vừa cười vừa nói với Pháp Khánh:

- Phá công phu sáng mai lại sớm!

Pháp Khánh khom mình đáp:

- Hoà thượng vốn không có nuốt kim.

- Để ý tới đó làm gì? Hoàng thượng phá công phu sáng mai lại sớm.

Pháp Khánh lại giơ cao cây quạt đánh vào đầu mình một cái, nhưng không phát ra tiếng "canh", hoàng đế cười hỏi:

- Chiếc Khánh sao không kêu nữa?

Pháp Khánh nói:

- Ấy là kiến thì quyết! Phật nào? Phật nào?

Hoàng đế nghe xong phá lên cười lớn, rồi bảo Pháp Khánh ngồi lên kiệu cùng tới chùa Tịnh Từ.

Nhà sư tru trì chùa Tịnh Từ là Huệ Lâm, đã đứng lại cửa chùa đón giá. Hoàng đế bước vào chùa, lễ phật xong bèn cùng hai hoà thượng trèo lên núi Ngô Sơn, đứng trên ngọn cao nhất nhìn thấy thuyền bè đi trên sông xuôi ngược rất nhiều. Ngài bỗng hỏi Huệ Lâm:

- Hoà thượng biết trên sông có bao nhiêu thuyền bè qua lại?

Huệ Lâm chẳng cần suy nghĩ tính toán, nói ngay:

- Chỉ có hai chiếc!

Hoàng đế chưng hửng, nhất thời chẳng thế nào hiểu nổi.

Huệ Lâm giải thích giùm ngài:

- Hai chiếc thuyền đó, một là tranh danh, một là đoạt lợi.

Hoàng đế lại hỏi:

- Hoà thượng mà cũng biết đoạt danh lợi ư?

Huệ Lâm nói:

- Hoà thượng không thấy danh lợi, bởi vậy mới thấy được bọn người danh lợi trong hai chiếc thuyền kia. Bọn người trong hai chiếc thuyền kia thấy được danh lợi, bởi vậy mới không thấy được những người ngoài hai chiếc kia.

Hoàng đế nghe xong gật đầu nói:

- Pháp Khánh chính là Huệ Lâm, Huệ Lâm chính là Pháp Khánh.

Qua ngày hôm sau, hoàng đế lại đưa Pháp Khánh và Huệ Lâm tới chùa Thiên Trúc. Nhà sư trụ trì chùa này tên gọi Thập Đắc. Hồi đó trời đã sang thu. Tháng tám. Thời tiết tuy có nóng nhưng vườn hoa mộc tê chùa Thiên Trúc đang độ nở bông.

Hoàng đế bỗng dưng hỏi Thập Đắc:

- Hoà thượng ngửi thấy mùi hương mộc tê không?

Thập Đắc đáp:

- Đấy là hương. Đấy chẳng phải mộc tê. Đấy là mộc tê. Đấy chẳng phải hương. Đấy chỉ là hai phần đoạn mà thôi.

Hoàng đế cười nói:

- Hoà thượng lại sai rồi! Đấy là mộc tê cũng tức là hương. Đấy là hương cũng tức là mộc tê, hương với mộc tê cũng do lỗ mũi mà ra.

Thập Đặc chắp hai bàn tay lại nói:

- Ví thử không có mộc tê, không có hương thì làm gì có kẻ ngửi thấy và kẻ hỏi có ngửi thấy hương mộc tê không.

Càn Long hoàng đế nghe xong lại gật đầu khen hay. Khu chùa Thiên Trúc ba mặt có núi bao bọc, đá chất thành tầng, rừng cây rậm rạp. Hoàng đế quyến luyến chẳng muốn rời khỏi đây nên ngài thường đưa mấy vị cao tăng ngày ngày viếng những nơi danh lam thắng cảnh, tham thiền ngộ đạo. Lúc đó ngài được hưởng cái thú nơi sơn lâm, thành thử nào Tuyết Như, Huệ Phong, nào thanh sắc phấn son, ngài đều ném tuốt ra sau ót hết.

Ngài ở lại chùa Thiên Trúc du ngoạn mấy hôm rồi mới xuống núi, qua chùa Linh Ân. Vừa bước tới sơn môn, ngài đã thấy đá nhọn chọc trời, cây cao khuất bóng. Ngài thốt lời tán thưởng:

- Thật là một nơi thanh kỳ hết sức!

Chùa Linh Ân này vốn có một vị cao tăng hiệu Pháp Hoa, năm đó tám mươi tám tuổi. Vì lão tăng này cáo ngôi dưỡng tĩnh trong một mật thất. Càn Long hoàng đế cũng biết đó là một vị hoà thượng đạo đức cao thâm. Nhà sư trụ trì chùa Linh Ân hiệu là Bảo Tướng đứng ngoài cổng chùa tiếp giá.

Hoàng đế tỏ ý muốn được gặp lão hoà thượng Pháp Hoa, Bảo Tướng bèn tâu:

- Pháp Hoa thiền sư diệt độ lần đầu, mong hoàng thượng để cho người yên.

Càn Long hoàng đế tỏ ý bực mình nói:

- Trẫm cần gặp Pháp Hoa. Y dám diệt độ, đó là pháp gì?

Bảo Tướng nói:

- Đó chẳng phải pháp. Đó là diệt độ lần đầu. Hoàng thượng nhất định muốn gặp, người sẽ diệt độ mắt. Đó chẳng còn là lần đầu, đó là diệt độ sắc tướng.

Hoàng đế hỏi:

- Hoà thượng nói sắc tướng. Hoà thượng là sắc tướng nào? Hoà thượng dám nói là Bảo Tướng? Hoà thượng có dám nói là Pháp Hoa?

Bảo Tướng hồi tấu:

- Hoà thượng là vô sắc. Sắc tức là không - không tức là sắc Hoà thượng là vô tướng: vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chứng sinh tướng, vô thọ ngã tướng.

Hoàng đế nghe tới đây, liền giơ một ngón tay lên nói:

- Hoà thượng dám nói có báu (bảo)?

Bảo Tướng nói tiếp:

- Hoà thượng là kiến thì quyết, hoà thượng là kim cương bất hoại thân. Bởi thế nên hoà thượng là báu.

Hoàng đế nói:

- Pháp Hoa chẳng phải kim cương bất hoại thân cho nên diệt độ, do đó không phải là báu.

Bảo tướng chỉ ngọn núi Phi Lai ngoài cửa sơn môn nói:

- Bảo nó chẳng phải là báu ư? Người đều chẳng tin. Nó chẳng diệt độ. Nó là Phi Lai. Cho nên gọi nó là báu.

Hoàng đế bèn hỏi:

- Nó có phải Bảo Tướng hay không?

Bảo Tướng đáp:

- Nó là Phi xứ phi lai thì cũng là Bảo Tướng.

Hoàng đế nghe xong gật đầu nói:

- Pháp Hoa chính là Bảo Tướng. Bảo Tướng lại chính là Pháp Hoa.
Câu chuyện tạm dứt. Bảo Tướng hầu bên ngự giá tiến vào đại sảnh bảo điện lễ phật. Hai người lại qua La Hán đường chiêm ngưỡng. Thấy năm trăm vị La Hán nào cũng đều hiện rõ kim thân tướng.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com