watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:16:4018/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Mưu Trí Thời Tùy Đường 1 - 34 - Trang 11
Chỉ mục bài viết
Mưu Trí Thời Tùy Đường 1 - 34
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 11

Chương 31

Cầu hiền như khát, có tài thì cử


Năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629 sau Công nguyên), Đường Thái Tông khuyến khích các quan dâng sớ bàn về cái hay dở của việc chính sự. Tướng trung lang Thường Hà tuy không thạo chuyện viết lách nhưng cũng muốn viết một bản tấu theo trào lưu chung, nên đã nhờ một người khách nghèo trong nhà tên là Mã Chu viết hộ hơn 20 chuyện để tấu. Không ngờ cả hơn 20 chuyện đều đánh trúng vào những tiêu cực thời đó, hơn nữa văn phong lại nho nhã, xác đáng, lời văn ý nhị sâu xa.
Khi bản tấu đến tay Đường Thái Tông, trong lúc đang hết lời khen ngợi bỗng nhiên Đường Thái Tông nhận ra một điều kỳ lạ là: Thường Hà là con nhà võ, không thông thạo việc viết lách thì sao có thể viết được một cách tài tình những điều to tát đòi hỏi có tầm nhìn xa trông rộng đến vậy? Vì thế ông quyết hỏi cho ra ngọn ngành. Thường Hà không còn cách nào khác đành phải nói ra việc mình đã nhờ người khác. Đường Thái Tông chẳng những không nghĩ đến việc trách Thường Hà làm chuyện gian dối, mà còn nói: "Mã Chu là một người tài hoa hiếm có" và hạ chỉ cho vào triệu kiến.
Mã Chu vì lý do đó cứ chần chừ không muốn đến, Đường Thái Tông thì sốt ruột không thể chờ thêm nên đã liên tiếp bốn lần sai người đi giục. Cuối cùng thì văn nhân cũng đến gặp Đường Thái Tông. Đường Thái Tông tiếp đãi với một thái độ khiêm tốn chứ tuyệt nhiên không có thái độ kiêu ngạo của một kẻ bề trên.
Sau một hồi trò chuyện thân thiết, Mã Chu được cử ngay đến làm quan ở tỉnh Hạ Môn.
Mã Chu không cần lợi dụng quan hệ hôn nhân câu kết mưa cầu danh lợi để tiến thân, cũng chẳng phải dùng tiền bạc để được ban ơn mà vẫn một bước lên trời. Nhưng báo đền ơn nghĩa cũng là bản tính của một bậc văn nhân nên sau khi đến nhậm chức, Mã Chu quả nhiên đã không phụ công sức của Đường Thái Tông, dốc hết tâm trí, nỗ lực hết sức, cuối cùng làm đến chức trung thư lệnh.
Nếu chỉ nhìn sơ qua thì sự may mắn của Mã Chu trong đường công danh là lạ lùng và ngẫu nhiên. Song thực ra vì sự thái bình của Trinh Quán, Đường Thái Tông luôn luôn cầu hiền tài, chú ý đến sự xuất hiện của nhân tài nên "nhiệm hiền mà trị" là phương châm chính trị lớn thời đó. Mã Chu là người có tài “phò vua" lại gặp được Đường Thái Tông là người biết trọng dụng nhân tài, hơn nữa lại ở vào thời buổi hiếm nhân tài nên việc gáy một tiếng làm tất cả mọi người kinh ngạc là điều tất nhiên. Ngay từ khi mới lên ngôi, Đường Thái Tông đã ra lệnh cho các đại thần phải tiến cử người hiền tài. Nhưng mấy tháng trôi qua mà không thấy Thượng thư Phong Đức Di tiến cử được người nào. Đường Thái Tông không giấu nổi vẻ sốt ruột muốn tìm hiền tài nên đã nổi giận cách chức Phong Đức Di, chức tể tướng bị bỏ trống. Phong Đức Di đã cố gắng biện giải: "Không phải là hạ thần không gắng sức đi tìm mà quả thực là do thiên hạ thiếu bậc kỳ tài". Đường Thái Tông càng tức giận: "Vậy các bậc quân vương trước đây lôi kéo được người tài là do mượn của các triều đại khác ư? Tự mình không cố sức tìm kiếm nhân tài lại còn đổ cho bao bậc hiền tài trong thiên hạ sao?".
Kế "Cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" là mưu kế của những người có chí lớn, còn người suốt ngày chỉ sợ người khác đoạt mất vị trí của mình như Phong Đức Di thì sao có thể nghĩ ra và sử dụng được. Nền chính tri của Trinh Quán ngoài "trọng nông dưỡng dân" ra thì nội dung chủ yếu, quan trọng nhất là “nhiệm hiền mà tri", "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử". Vương Bàn Sơn đã từng nói: "Đời nhà Đường có nhiều bề tôi giỏi nhất, kể cả đời Hán trước đó lẫn đời Tống sau này đều không sánh kịp thời kỳ Trinh Quán, Đường Thái Tông luôn tạo điều kiện cho người hiền tài, không kể là quan lại hay dân thường, dù chỉ là người mới biết hay đã biết từ lâu, là người Hán hay người Di, chi cần có tài thì Đường Thái Tông đều cố gắng để lôi kéo được người đó về bên mình. Trong những năm Trinh Quán có thể gọi là niên đại của nhân tài. Nền chính trị của Trinh Quán nên nói là do tất cả những quần thần có tài cùng khai sáng nên. Đương nhiên cũng có thể nói đó là kết quả chính sách "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" của Đường Thái Tông.

Người muốn làm được việc đại sự thì phải biết coi nhân tài là việc chính yếu. Việc trị quốc an bang đã vậy, sự cạnh tranh trên thương trường cũng thế. Không ý thức được về nhân tài, không dùng kế “cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" thì ngay cả các công ty lớn không sớm thì muộn cũng sẽ phá sản. Công ty Ford để có được một nhân tài sẵn sàng mua cả công ty mà người đó đang làm việc, Shitafiphu không chút do dự gạt bỏ người nhà để mời một người ngoài ngẫu nhiên quen biết làm giám đốc điều hành, ông chủ hãng Panasonic thì không cho người nhà làm tổng giám đốc, các công ty Singapore đã từng trả 100.000 đola Singapore tiền lương để tuyển giám đốc, Akeka thì nhờ có nhân tài thu hút từ công ty Ford sang mà liên tiếp thành công. Hành động của những người có máu mặt trong giới thương nhân cũng đều xuất phát từ kế sách "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử". Dưới đây là tình hình thực tế của cuộc chiến giành giật sinh viên trong giới thương gia Nhật Bản, qua đó có thể thấy giá trị sử dụng phổ biến của kế "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử".

Nhật Bản rất thiếu những người tài giỏi thực sự, bình quân mỗi khóa sinh viên tốt nghiệp có hơn 2,7 vị trí để họ chọn lựa. Do đó, hàng năm cứ đến trước kỳ sinh viên tốt nghiệp là giữa các công ty Nhật Bản lại diễn ra "cuộc chiến giành giật sinh viên" hết sức gay gắt.
Chiến thuật truyền thống trong cuộc chiến giành giật đó là các vật phẩm tuyên truyền giới thiệu về tình hình của các công ty được gửi qua đường bưu điện cho các sinh viên. Các vật tuyên truyền thường không viết tên và địa chỉ người nhận, mà do nhân viên bưu điện nhét vào các thùng thư của sinh viên. Số lượng các vật phẩm tuyên truyền nhiều đến mức làm người ta kinh ngạc. Theo thống kê, ở các trường là khoảng 2 triệu, chỉ trong vòng mấy tháng mỗi người đã nhận được số vật phẩm tuyên truyền có thể chứa đầy ba, bốn thùng giấy to.

Sau này, một số công ty còn cải tiến "chiến thuật", trong các bưu kiện gửi cho sinh viên còn có một thẻ điện thoại trị giá 500 yên Nhật, người nhận có thể dùng thẻ đó gọi điện thoại miễn phí. Cũng có những công ty làm lịch treo tường, lịch bàn để làm vật phẩm tuyên truyền, làm như vậy thì các sinh viên sẽ treo lên cao hoặc đặt trên bàn, mỗi ngày nhìn qua vài lần thì tự dưng vô hình trung đã làm cho họ biết đến công ty ngày càng nhiều hơn, tăng thêm sức hấp dẫn của công ty đối với sinh viên.

Công ty đường sắt Nhật Bản đã tặng các sinh viên những chiếc băng đĩa rất đẹp mà nội dung chủ yếu là hướng người ta về tình hình của công ty: Những nhân viên trẻ trung mặc đồng phục, ngồi máy bay, tàu hỏa đi nghỉ mát, tham quan các thắng cảnh ở Anh, Tây Ban Nha. Từ năm 1992 đến nay, công ty đã gửi các băng đĩa này cho 100.000 sinh viên, tiêu tốn 500 triệu yên Nhật.

Một số công ty còn có những cách làm rất đặc biệt là thường cử những nhân viên mới làm việc được một, hai năm quay lại trường cũ thiết lập các quan hệ, làm quen, kết bạn với sinh viên trong trường, phát tài liệu tuyên truyền về công ty, quảng cáo về ưu điểm của công ty và đã giành được nhiều thiện cảm của sinh viên. “Cuộc chiến" càng ngày càng quyết liệt, "chiến thuật" thì ngày càng đa dạng, duy chỉ có tôn chỉ của kế sách "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" thì không có gì thay đổi.

Chương 32

Lấy thành tâm mà đối xử với nhau

Năm Trinh Quán thứ nhất (năm 627 sau Công nguyên) có người dâng sớ đòi loại bỏ những kẻ nịnh thần trong triều đình. Đường Thái Tông sau khi xem rất coi trọng nên cho gọi người đã dâng sớ đến để tự mình hỏi cách trừ bỏ những kẻ nịnh thần.
Đường Thái Tông hỏi. "Xin hỏi kẻ nào là nịnh thần?".
Người đó trả lời "Tôi chỉ sống trong dân gian, không hiểu các quan thì làm sao biết được ai là nịnh thần".
Đường Thái Tông lại hỏi: "Nếu ngươi không biết kẻ nào là nịnh thần thì ta sao có thể trừ bỏ được?".
Người đó nói một cách tự tin và thần bí "Bệ hạ có thể giả vờ bàn bạc chuyện đại sự với các quần thần, sau đó tùy tình thế mà giả vờ nổi cáu để xem phản ứng của các quan. Những người kiên trì chân lý, không chịu khuất phục bệ hạ thì đó chính là những trung thần; ngược lại, những kẻ sợ ngài cáu giận, tùy theo ý của bệ hạ để nói mà không cần biết đúng sai thì chính là những kẻ gian thần. Một khi đã biết kẻ nào là nịnh thần thì việc bệ hạ muốn trừ bỏ chẳng còn khó khăn gì".
Đường Thái Tông nghe xong rất tức giận, nhưng vì nể mặt người đó nên cố nói với một thái độ ôn tồn: "Cái cách mà nhà ngươi nói tuy rất hay, nhưng đó là cách giả dối. Người làm vua như nguồn, kẻ bề tôi như dòng chảy. Nơi đầu nguồn mà đục thì sao có thể đòi hỏi nhánh của nó trong được. Vua mà dùng gian kế thì không thể yêu cầu bề tôi thành tâm chính trực được. Cái mà trẫm muốn là lấy sự chân thành để đối đãi với bề tôi, trị thiên hạ. Trẫm cảm thấy rất hổ thẹn với việc dùng kế sách gian dối để đối đãi với bề tôi của các bậc đế vương triều đại trước. Vì vậy kế sách mà ngươi hiến cho trẫm tuy là có hiệu quả thật nhưng cũng không thể sử dụng được".

“Dĩ thành tương đãi" chính là sự đối xử chân thành, không dùng những cách thức gian dối, kết hợp giữa sự nhiệt tình, nghĩa khí hay cùng chí hướng với nhau. Vì vậy mới nói Lý Thế Dân là người mưu trí, không phải là ông không tìm ra những kế sách gian dối, bởi vì trong giai đoạn bắt đầu xây dựng nhà Đường, tiễu trừ những kẻ phản loạn ông cũng đã dùng không ít những kế sách hư hư thực thực, thật thật giả giả, nhưng từ khi lên ngôi thống trị thiên hạ đặc biệt là với các tướng lĩnh, đại thần được yêu quý thì ông luôn đối xử một cách chân thành, quang minh chính đáng. Mà trong xã hội loài người thì quan hệ giữa vua với bề tôi dựa trên cơ sở kết hợp giữa sự tương đồng về chí hướng với sự hợp nhau về tâm tư, tình cảm cũng chính là mối quan hệ lành mạnh, lâu dài nhất.
Chính vì Đường Thái Tông có thể "dĩ thành tương đãi", đối xử một cách chân thành cởi mở, dựa vào lễ để đối xử với họ nên rất nhiều quần thần thời Trinh Quán đã vận dụng hết tài năng của mình, tận tâm tận lực phò vua giúp nước. Phòng Huyền Linh từng nói: "Tất cả các quan lớn bé không ai là không dốc lòng dốc sức, tận tâm tận lực không quản ngày đêm phụng sự nhà vua". Thậm chí lúc hấp hối vẫn còn viết thư khuyên Đường Thái Tông không nên viễn chinh rồi sau đó mới chết, thật đúng là bề tôi trung thành. Sầm Văn Bản sau khi được phong làm trung thư lệnh cũng "ngày đêm cần mẫn tự mình làm lấy mọi việc" cho đến khi sức cùng lực kiệt mà chết Những người khác như Mã Chu, Ngụy Trưng, không ai là không tận tâm tận lực, dốc hết tài năng của mình.
Chúng ta không thể phủ nhận rằng sự nổi tiếng của chế độ Trinh Quán ngoài lý do đã khôi phục một cách nhanh chóng nền kinh tế và việc có được nhiều bề tôi tài giỏi ra thì không thể không nói đến việc Đường Thái Tông biết dựa vào lễ, đối xử một cách chân thành cởi mở với các quân thần. Một đặc điểm nổi bật của chế độ Trinh Quán là mối quan hệ giữa người với người rất trong sáng, thuần phát, tư tưởng của dân chúng thoải mái, lời nói trung thực và lời khuyên thẳng thắn không bị ngăn cấm.
Mưu kế cũng có hai loại: mưu kế ngấm ngầm và ngược lại là mưu kế công khai. Tiền đề của việc thực hiện mưu kế ngấm ngầm là dùng mưu gian đối với đối thủ, trước khi thực hiện không để cho đối thủ biết được dụng ý thật. Loại âm mưu này thường chỉ dùng trong đấu tranh với địch, đặc biệt là trong các trường hợp kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hoặc muốn giành thắng lợi một cách bất ngờ. Đặc điểm của mưu kế công khai thì lại là quang minh chính đại, không cần bảo mật, loại mưu kế này tương tự như các chính sách, phương châm, kế hoạch công bố với dân chúng. Loại kế này cũng rất thích hợp để giải quyết những mâu thuẫn không phải mâu thuẫn địch ta, không cần đổ máu. "Dĩ thành tương đãi" thuộc loại mưu kế công khai, sau khi giành được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế, Lý Thế Dân dùng kế này để giải quyết mối quan hệ quân thần, quả thực là rất phù hợp.

Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại cũng vậy, không thể lẩn tránh quan hệ với khách hàng. Tuy nó không phải là quan hệ địch ta nhưng cũng không hoàn toàn là mối quan hệ "đồng chí" nên cả mưu kế công khai và mưu kế ngấm ngầm đều có đất để dụng võ. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng nếu lạm dụng mưu kế ngấm ngầm thì sẽ không tránh khỏi việc bị coi là "gian thương" còn dùng mưu kế công khai giống như "dĩ thành tương đãi", không che giấu cái hạn chế của mình, thẳng thắn giới thiệu đặc điểm sản phẩm của mình, không gian dối, tuy bình thường mà lại diệu kỳ, tưởng ngu mà thực ra lại thông minh và cuối cùng hấp dẫn được khách hàng một cách lâu dài.
Ông Henry tổng giám đốc công ty chế biến thực phẩm của Mỹ qua báo cáo giám định hóa nghiệm phát hiện ra rằng hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm do công ty mình sản xuất có độc, tuy không lớn nhưng nếu dùng lâu dài thì có hại cho sức khỏe. Nếu không dùng chất đó để bảo quản thì lại ảnh hưởng đến độ tươi của thực phẩm.
Ông Henry cho rằng cần phải thành thật với khách hàng nên đã quyết định nói rõ sự tình cho khách hàng, tuy biết rằng làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến sức tiêu thụ. Và ngay lập tức tuyên bố trước mọi người rằng: chất chống thối rữa có độc và có hại cho sức khỏe.
Sự việc vừa được nói ra thì lượng hàng tiêu thụ giảm rõ rệt, tất cả các ông chủ ngành chế biến thực phẩm liên kết với nhau, dùng mọi thủ đoạn để phản kích lại ông, chỉ trích ông có mưu đồ riêng nên đã đả kích người khác để đề cao mình, cùng nhau ngăn chặn sản phẩm của công ty Henry.
Công ty Henry bỗng chốc lâm vào tình trạng khó khăn. Sau bốn năm ở trong tình cảnh lao đao, Henry đã khuynh gia bại sản, nhưng danh tiếng của nó thì vẫn được mọi người biết đến. Chính phủ đã đứng ra ủng hộ công ty của ông, sản phẩm của công ty ngay lập tức lại trở thành mặt hàng hấp dẫn mà mọi người cảm thấy rất yên tâm và hài lòng.
Chỉ trong một thời gian ngắn công ty Henry đã khôi phục lại được nguyên khí và thậm chí còn mở rộng quy mô lớn hơn gấp hai lần. Henry bỗng dưng trở thành người đứng đầu trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
Ở hải ngoại có một loại mứt cà chua gọi là Hans mùi vị của nó đậm đặc hơn nhiều so với của các hãng khác. Tuy nhiên trong những năm 60, vì lưu tốc của nó chậm nên người tiêu dùng không hài lòng, mọi người đều cho rằng để đổ mứt cà chua của hãng này mất nhiều thời gian mà các loại khác không bị nên việc tiêu thụ Hans của gặp trở ngại.

Đứng trước tình hình đó, công ty đã suy nghĩ rất kỹ. Thay đổi chất phối hợp với mứt cà chua, giảm bớt nồng độ của mứt cà chua? Hay thay đổi bao bì để rót cho dễ? Nhưng dù là dùng cách nào đi chẳng nữa thì cũng sẽ làm mất đi cái đặc sắc vốn có của nó. Giám đốc công ty đã quyết định vẫn kiên trì một nguyên tắc là giữ nguyên đặc sắc của mình. Nếu chỉ vì tốc độ mà thay đổi đặc điểm đó và vẫn dùng mác Hans thì là không thành thật với khách hàng. Trong quảng cáo vẫn khẳng định “mứt cà chua có lưu tốc chậm nhất". Đồng thời cũng nói rõ sở dĩ lưu tốc của mứt cà chua Hans chậm là do nồng độ mứt cà chua cao hơn so với các loại khác. Và cuối cùng khuyên người tiêu dùng: để duy trì nồng độ cao và cái đặc sắc vốn có của mứt cà chua Hans thì hãng không cho phép dùng các biện pháp khác pha loãng ra để tăng lưu tốc của nó, hy vọng người tiêu dùng hiểu rõ rằng để có vị ngon thì nồng độ mứt cà chua phải cao.
Việc công ty Hans dùng kế “dĩ thành tương đãi" đã đạt được hiệu quả thần kỳ. Người tiêu dùng trước đây chê "lưu tốc chậm” thì hiện nay không cho rằng đó là hạn chế mà ngược lại là ưu điểm riêng của sản phẩm mứt cà chua Hans so với các loại khác. Thị phần của công ty Hans tăng từ 19% trước đây lên đến 50% hiện nay.

Chương 33

Biến trắng thành đen

Sự đông đúc giàu có đời Tùy, sự hùng mạnh của đế quốc Tần đều rất nổi tiếng trong lịch sử. Tuy đều cường thịnh và thịnh hành muôn dặm nhưng cả hai vương triều hùng mạnh đó đều đoản mệnh, chỉ truyền được hai đời vua rồi không xuất đầu lộ diện nữa. Triều vua Đường được xây dựng trên các tàn tích của cuộc chiến tranh nông dân, Lý Thế Dân đã tận mắt chứng kiến việc vương triều Tùy thịnh vượng là thế mà chỉ qua hai đời thì đã tuyệt diệt.

Nên khi Lý Thế Dân lên ngôi năm 626 sau Công nguyên cũng chính là đời vua thứ hai của triều Đường, ông không khỏi lo lắng, sợ sẽ giẫm phải vết xe đổ của Tần Nhị Thế và Tùy Dạng Đế. Vì vậy Đường Thái Tông rất coi trọng việc "lấy lịch sử làm gương". "Dĩ cổ vi kính, khả dĩ tri hưng thế” (lấy đời xưa làm tấm gương, có thể biết được hưng thế) đã trở thành châm ngôn sống của ông. Như vậy, lấy lịch sử làm tấm gương mà soi (dĩ sử vi giám) đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của nền thống trị Trinh Quán Đường Thái Tông.

“Dĩ sử vi giám" nghĩa là rút ra bài học kinh nghiệm từ sự hưng vong của các triều đại trong lịch sử, xem xét hiện thực, so sánh đối chiếu với bản thân, cố gắng lo toan việc trị nước yên dân, xây dựng triều chính sáng suốt tiến bộ. "Dĩ sử vi giám" đương nhiên là bao hàm lịch sử, nhưng Đường Thái Tông chủ yếu chỉ coi Hán là thầy còn Tùy, Tần thì tránh mà trọng điểm là lịch sử Tần, Tùy thông qua việc xem xét những sai lầm đã dẫn đến sự diệt vong của hai triều đại Tần, Tùy để tìm ra phương pháp, con đường đúng đắn thống trị đất nước. Chúng ta khái quát hóa cách làm này thành kế "Cứu quá đắc chính".

Đường Thái Tông đã vận dụng kế "Cứu quá đắc chính" này, tuy rằng rất gian khổ nhưng có thể nói là cũng rất sáng suốt.
Đường Thái Tông vốn là người tinh thông võ nghệ chứ không phải việc văn chương nhưng để có thể làm cho kế "cứu quá đắc chính" đạt được hiệu quả thiết thực thì về sau ông lại trở thành vị hoàng đế ham thích, say mê nói chuyện lịch sử.

Đầu những năm Trinh Quán, Đường Thái Tông nhân những lúc rỗi rãi thường nói chuyện chính sự cùng các quần thần, bàn luận quy luật hưng vong trị loạn từ xưa đến nay. Sử gia Lý Bách Dược đã khen ông "thường xuyên cùng với các bậc nhân sĩ luận bàn các điển tích, đàm luận chuyện văn thơ, thậm chí say sưa đến mức quên cả mệt nhọc, quên cả giờ giấc". Ông thường một mình đọc sách quên cả mệt mỏi đến tận đêm khuya. Đồng thời cũng cho người viết sách sử cho riêng ông. Được sự khuyến khích của Đường Thái Tông, trong những năm Trinh Quán đã biên soạn được các cuốn chính sử như "Bắc Tề thư , "Chu thư", "Lương thư” , "Trần thư” , “Tùy thư” , "Tấn thư” , “Nam sử", "Bắc sử" chiếm đến gần một phần ba trong 25 bộ sử, các quan đại thần nổi tiếng như phòng Huyền Linh, Ngụy Trưng, Trưởng Tôn Vô Kỵ đều là những nòng cốt trong quá trình viết sử. Đường Thái Tông do chịu khó đọc sách và khiêm tốn học hỏi nên có những kiến giải độc đáo có lý, có căn cứ về các sự kiện lịch sử trọng đại đặc biệt là đối với Tần Thủy Hoàng, Tùy Văn Đế, Tùy Dạng Đế.

Xét về sai lầm "ngược đãi dân" của nhà Tùy, Đường Thái Tông đề ra tư tưởng "lấy dân làm gốc". Ông cho rằng nguyên nhân làm cho nhà Tùy bị diệt vong là do trong khi người dân muốn chăm chỉ làm ruộng thì Tùy Dạng Đế lại không ngừng bắt lao dịch, phu phen, nhân dân đã khốn khổ đủ đường rồi mà Tùy Dạng Đế vẫn không ngừng bóc lột để phục vụ cho cuộc sống xa hoa lãng phí của mình. Người làm vua như thuyền, trăm họ là nước, nước có thể đẩy thuyền và cũng có thể lật thuyền. Do đó, muốn dựng nước phải biết dựa vào dân, muốn cho nước giàu thì trước hết phải làm cho dân no đủ. Vì vậy, Đường Thái Tông đã đề ra những chính sách, biện pháp trọng nông, an dân như: Giảm tô thuế, xây dựng các công trình thủy lợi. Nhờ vậy mà kinh tế trong những năm Trinh Quán được khôi phục và phát triển nhanh tới không ngờ.

Tùy Văn Đế là người đa nghi, thậm chí còn nghi ngờ cả thái tử Dương Dũng mưu phản nên đã phế Dương Dũng để lập con thứ vốn là người hoang dâm vô độ - Dương Quảng tức Tùy Dạng Đế. Khi xem xét sai lầm về sự "đa nghi" trong cách dùng người của nhà Tùy, Đường Thái Tông đã cố gắng đối xử chân thành cởi mở, không tỏ ý nghi ngờ với bề tôi trên cơ sở phương châm "nhiệm hiền mà trị". Vì vậy, Đường Thái Tông không bao giờ tin những lời gièm pha, loại bỏ những kẻ tiểu nhân, tạo điều kiện cho các đại thần phát huy sở trường. Nhân tài dưới thời Đường Thái Tông tuy có kẻ thù và có cả bạn hữu được đề bạt lên nhưng không ai là không dốc hết tài trí cùng với Đường Thái Tông gây dựng nên một thể chế Trinh Quán sáng suốt, hưng thịnh.

Kế "cứu quá đắc chính" của Đường Thái Tông có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng thể chế Trinh Quán. Để đạt được điều đó không chỉ có sự vận dụng tài tình của Đường Thái Tông mà về cơ bản còn vì đặc tính vốn có của mưu kế này. Những việc sai lầm sớm muộn cũng sẽ bị đào thải, "cứu quá đắc chính" có thể làm cho người ta luôn ở vị trí đứng đầu, khuyết điểm, sai lầm sẽ ít đi mà ưu điểm sẽ nhiều lên và tự dưng sẽ có tiềm lực phát triển rất lớn.

Trong quá trình cạnh tranh trên thương trường muốn làm cho lượng tiêu thụ của mình trội hơn so với các hãng khác thì đương nhiên là càng phải vận dụng kế "biến trắng thành đen". Duy trì được ưu thế của sản phẩm, khắc phục và loại bỏ được những sai sót và hạn chế thì mới có thể làm cho sản phẩm của mình có được thị trường rộng lớn. Không ít các doanh nghiệp lớn nhờ dựa vào kế "cứu quá đắc chính" này mà ngày càng phát triển, lớn mạnh.

Công ty Panasonic ngay từ khi mới ra đời đã dùng kế "cứu quá đắc chính". Chiến lược của họ là "không có phát minh mà chỉ cải tiến". Công ty Panasonic chọn những phát minh trong và ngoài nước để mua lại bản quyền sau đó phỏng chế và cải tiến. Cho đến nay Panasonic rất ít khi phát minh ra những sản phẩm mới nhưng lại luôn cố gắng tạo ra các sản phẩm với giá thấp hơn các hãng khác để mở rộng việc tiêu thụ. Họ đã xây dựng 23 trung tâm nghiên cứu sản xuất với kỹ thuật tiên tiến nhất để chuyên phân tích sản phẩm mới của các đối thủ cạnh tranh, xem xét những điểm hạn chế, tìm ra các biện pháp cải tiến hoặc loại bỏ chúng, tìm cách tốt nhất để làm cho chất lượng, tính năng của sản phẩm mình ngày càng hoàn thiện.

Máy quay phim vốn là phát minh của công ty Sony, Nhật Bản, nhưng hãng Panasonic sau khi xem xét đã biết được nhược điểm của sản phẩm Sony là thời gian chiếu phim ngắn. Vì thế Panasonic đã đưa ra một loại rất tinh xảo với thể tích tuy nhỏ nhưng dung lượng lớn nên tính năng của nó hơn hẳn mà lại giảm được 5% giá thành sản phẩm. Và hiển nhiên chúng ta có thể thấy ngay được giữa nhà phát minh với người cải tiến ai thắng ai thua.

Công ty Xulist Paker của Anh còn vận dụng kế này tài tình hơn, họ không chỉ tích cực cho ra các sản phẩm mới mà còn có tài tìm ra các sai sót và hạn chế trong sản phẩm của các hãng khác. Mỗi khi đối thủ cạnh tranh đưa ra một sản phẩm mới là các kỹ sư của công ty này bắt tay vào hành động ngay. Trên danh nghĩa là họ đi bảo dưỡng sản phẩm của công ty cho khách hàng nhưng thực tế thì nhiệm vụ hàng đầu của họ là bí mật điều tra. Họ rất kiên nhẫn hỏi thăm khách hàng những ưu điểm và hạn chế đối với các sản phẩm mới mà hãng khác đưa ra để xem nên thêm những công năng gì, họ đánh giá thế nào...

Sau khi bắt tay vào hành động tức là họ đã hoàn thành xong nhiệm vụ "cứu quá". Tiếp sau đó sẽ thấy ngay kết quả “đắc chính", các sản phẩm đã qua cải tiến xuất hiện trên thị trường. Các sản phẩm này hiển nhiên là đáp ứng được nguyện vọng và yêu cầu của khách hàng, kết quả là mọi người chọn sản phẩm của hãng Xulist Paker.

Cả hai công ty trên đều chậm hơn người khác một bước và chịu đứng thứ hai. Nhưng không thể nói trình độ kỹ thuật của họ kém hay thiếu khả năng phát minh, sáng tạo mà chính là ở các bước chậm hơn người khác đó mà họ đã làm được theo cách "cứu quá đắc chính".

Chương 34

Thu nạp lời can gián

Một ngày của năm đầu Trinh Quán (năm 627) Đường Thái Tông Lý Thế Dân bắt được một con chim ưng nhỏ rất đẹp, ông vô cùng vui thích sai người mang đậu đến cho con chim ăn. Đột nhiên, Ngụy Trưng tiến đến xin tấu việc, sợ Ngụy Trưng quở trách mình vì vui chơi mà quên chí lớn, ông vội vàng giấu con chim vào ống tay áo, Ngụy Trưng làm ra vẻ không nhìn thấy, ngược lại còn cố ý nói dài dòng và nhiều, nói mãi không nghỉ. Đợi đến khi Ngụy Trưng thoái lui Đường Thái Tông mới dám lôi con chim ra, nào ngờ nó đã bị chết ngạt từ bao giờ. Lại một lần khác Ngụy Trưng đi giải quyết công việc ở bên ngoài, quay về cung ông ta nói với Lý Thế Dân "Nghe nói bệ hạ đi ra ngoài tuần sát, trang bị rất khoa trương và bố trí rất náo nhiệt, tại sao không từ tốn gọn nhẹ thôi?". Đường Thái Tông cười đáp: "Tiến ra trận đều có tính toán, nào ngờ khanh còn đến khuyên nhủ trẫm, vì vậy dứt khoát khanh phải khuyên can trẫm gạt bỏ những ý nghĩ đó trước đi...". Ngụy Trưng là một hiền thần xuất sắc, kiệt xuất trong niên giám Trinh Quán, trong vài năm ngắn ngủi có khoảng 200 vụ việc được ông ta can gián và tiến cử. Đa số các vụ việc đó được Đường Thái Tông chấp thuận sử dụng.
Ngụy Trưng tuy có danh, nhưng những đại thần dám nói những lời trung thực và thẳng thắn khuyên can thì chỉ có mình Ngụy Trưng. Những năm Trinh Quán, quân vương và đại thần cùng bàn việc nước, tiến dâng những việc nghĩa và nói lời trung thực trở thành phong trào. Đây là một cảnh sắc đặc biệt trong "vũ đài chính trị thời xã hội phong kiến và cũng là một phương diện quan trọng trong vũ đài chính trị Trinh Quán" vào những năm đầu thời Đường, dẫn dắt được sự chú ý của mọi người. Ví như Vương Khuê, Lưu Ký, Trương Huyền Tố, Chử Toại Long, Đỗ Như Hối thậm chí cả Trưởng Tôn hoàng hậu ... đều là những người dám tiến cử lời can gián.

Vương Khuê được phong làm Thị trung. Có một lần vào yết kiến, ông ta thấy thị nữ đứng hầu cạnh Lý Thế Dân. Ông trông cô ta rất quen mặt và cố ý trừng mắt nhìn cô gái. Lý Thế Dân đành phải nói với ông: "Cô ta là thiếp của Lư Giang Vương Lý Hoãn, Lý Hoãn nghe nói cô ta rất đẹp nên đã giết chồng cô ta và cướp về làm vợ". Vương Khuê cố ý hỏi: "Bệ hạ cho rằng hành vi của Lý Hoãn là đúng hay sai?". Lý Thế Dân đáp: "Giết người rồi cướp vợ người ta, đương nhiên là chuyện trái đạo lý, hà tất gì khanh phải hỏi?". Vương Khuê nói "Thần nghe nói Tề Hoàn Công có hỏi các bô lão nước Quắc tại sao nước Quắc bị thất bại. Các phụ lão đã nói vì quốc vương của họ không trọng nhân tài, hiền tài và không loại bỏ gian thần. Nếu như hôm nay bệ hạ thu nạp tì thiếp của Lư Giang Vương, thần xin thánh thượng xem lại cách làm của Lý Hoãn, nếu không sẽ giẫm lên vết xe cũ” .
Lý Thế Dân kinh ngạc nói: “Há chẳng phải khanh đến nhắc nhở trẫm không nên bao che cho hành vi xấu” . Đợi khi Vương Khuê đi khỏi Lý Thế Dân gả cô gái đó đi.
Tháng 3 năm Trinh Quán thứ 6, một lần sau khi bãi triều, Đường Thái Tông tức giận nói: "Có ngày trẫm phải giết chết Điền Xả Uông". Trưởng Tôn hoàng hậu vội vàng hỏi Điền Xả Uông là ai, Đường Thái Tông đáp "Hắn chính là Ngụy Trưng! Hắn suốt ngày ở bên cạnh trẫm nói nhiều, còn ở trên đại triều thì o ép trẫm, trẫm phải giết chết hắn ta, mới hả được mối hận trong lòng". Nghe hoàng thượng nói vậy, bà ta sợ hãi thất kinh, vội vàng thoái lui. Một lúc sau, bà ta thay quần áo mặc trong những ngày lễ và quỳ trước mặt Đường Thái Tông khuyên: “Thiếp nghe nói quân vương anh minh tất có đại thần trung trực. Triều đình ta có Ngụy Trưng trung thực như vậy thì bệ hạ là người vô cùng anh minh". Đường Thái Tông nghe xong, lập tức chuyển giận thành vui.
Việc tiếp nạp lời can gián là một phong trào hưng thịnh ở những năm Trinh Quán. Thời đó nếu kể ở tầng lớp trên từ Tể tướng cho đến khanh sứ, tầng lớp dưới từ quan huyện cho đến tiểu sứ, lớp già về lớp trẻ lên, thậm chí các phi tần trong cung... đều thẳng thắn nói những điều mình dám nghĩ. Mọi người còn hỏi: "Vì sao trong lịch sử chỉ có những năm Trinh Quán xuất hiện cục diện anh minh như vậy?".
Điều này không thể không quy công lao cho Đường Thái Tông đã dùng kế "tiếp nạp lời can gián". Ngụy Trưng có câu nói rất hay: (Bệ hạ chỉ dẫn thần nói những lời trung thực thì quần thần mới dám nói. Nếu như bệ hạ không phải là người tiếp nạp những lời can gián, quần thần đâu dám bị lụy, như thế khác gì lấy trứng chọi đá".
Sở dĩ dùng kế "tiếp nạp lời can gián" là do ông ta biết phối hợp những kiến giải thấu triệt. Ông vô cùng tâm đắc với câu nói: "Khiêm tốn nghe lời anh minh, kiên nhẫn nghe lời nói quanh co". Có một lần ông ta mang chiếc cung "10 trượng" cho các thợ thủ công xem. Nào ngờ khi bọn họ nói chiếc cung này tâm gỗ không thẳng, mạch nghiêng, không song song với dây cung. Đường Thái Tông cảm thán nói: "Trẫm ngồi ở ngôi vị hoàng đế, không cách gì nhìn được những sự việc nhỏ trong thiên hạ. Các khanh có mặt ở khắp nơi thì giống như làm tai mắt cho trẫm, giúp trẫm nhận biết mọi chuyện".

Đường Thái Tông mưu sâu trí cao biết rằng nếu không dùng kế "tiếp nạp lời can gián", tất khiến mình mê muội, cố chấp, khiến quốc gia bị náo loạn suy bại, do đó phải thiết thực dùng kế "tiếp nạp lời can gián". Vì thế ông ta ra sức cố gắng tiếp nhận lời trung. Từ khi mới được lập làm thái tử, ông đã cho phép các quan tự do bàn luận mở rộng ý kiến và kiến nghị trị quốc. Sau khi đăng cơ, để đánh bại những ý kiến bảo thủ của vài đại thần cố chấp, ông hòa đồng với mọi người tạo ra vẻ thân thiện giữa đôi bên. Nhiều lần bàn bạc, có những lời quá thẳng thắn nghe chói tai nhưng ông cũng không lộ vẻ bực bội ra ngoài.
Không chỉ có vậy, ông còn thực hiện chế độ "mở rộng đường cho lời trung trực". Ông vẫn áp dụng chế độ "Sáu bộ ba tỉnh" từ triều Tùy, đồng thời ông còn cho phép một số quan lại có địa vị thấp lấy danh nghĩa là "tham dự triều chính" để gia nhập vào quyết sách cao nhất. Quy định các việc quan trọng đều phải thông qua sự bàn bạc giữa các bộ, thông qua sự trù bị của Tể tướng, nếu như đó là vấn đề thiết thực thì có thể làm xong rồi mới báo cáo cho ông ta sau. Nếu như chiếu thư không ổn thỏa thì bất kỳ ai cũng có thể vạch ra. Ông còn đặc biệt coi trọng những hiền quan, tuyển chọn bọn họ và dám đưa những người kiệt xuất vào vị trí quan trọng.
Suy nghĩ sâu xa thì thấy được tính quan trọng của việc thu nạp lời can gián, từ chế độ phương pháp đều bảo đảm cho việc thực thi thuận lợi việc "tiếp nạp lời can gián". Như vậy, trong vũ đài chính trị những năm Trinh Quán đã xuất hiện cục diện “quần thần đồng tâm đồng đức, cùng trị vì thiên hạ", cũng chính là tự nhiên như vậy.
Nhân tài và mưu lược phi thường xuất chúng mà thuận theo lời can gián trung thực, người làm chủ phải có lý trí và kiên nhẫn nghe lời can gián trung thực.
Ông quả xứng với tên gọi "Nhà chính trị gia kiệt xuất trong lịch sử Trung Hoa". Cho đến hôm nay triết lý "kiên nhẫn khiêm tốn nghe lời anh minh" luôn luôn trường tồn, vì vậy “tiếp nạp lời can gián" luôn luôn là mưu lược hữu hiệu trong việc mở rộng sự nghiệp của các nhà doanh nghiệp. Kế sách mà Đường Thái Tông áp dụng đáng là tấm gương sáng cho các nhà quản lý học hỏi và làm theo.
Trong thực tế, không ít nhân tài có mưu lược phi thường xuất chúng, các nhà quản lý khá thành công trên con đường doanh nghiệp họ cũng sớm áp dụng kế sách "tiếp nạp lời can gián" và giành được hiệu quả đáng mừng. Người sáng lập công ty Justanhas là Justan cho rằng: Sự thành bại của xí nghiệp có quan hệ rất lớn tới việc đề xuất ý kiến của các nhân viên. Cho đến hôm nay, công nhân viên của công ty đã đề xuất được hơn 2 triệu ý kiến, trong đó có khoảng 7000 ý kiến được thu nạp. Những ai dám đề xuất ý kiến đều được phần thưởng, mỗi năm đều vượt quá 1,5 triệu đô la. Một số ý kiến này đều có hiệu quả hữu hiệu đối với sự tăng giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm cải tiến phương pháp sản xuất và đảm bảo chất lượng.

Công ty cho rằng: đối với những công nhân viên đề xuất ý kiến mà chưa được thu nạp cũng có thể đạt hai mục tiêu. Thứ nhất: Người quản lý cũng có thể hiểu được nhân viên của mình nghĩ gì. Thứ hai: Thông qua việc đề xuất ý kiến để tăng thêm mối quan tâm tới sự nghiệp của công ty, tăng cường sự đồng tâm hiệp lực, thúc giục được tính trách nhiệm và tính tích cực của công nhân viên.
Để bảo đảm thuận lợi cho việc "tiếp nạp lời can gián", dẫn tới sự sắp xếp chu đáo. Bất kỳ ai cũng có thể đề xuất ý kiến của mình, họ có thể viết thư rồi bỏ vào thùng thư góp ý. Nếu không muốn lộ tên tuổi, họ có thể dùng hình thức nặc danh, người có trách nhiệm sẽ điều tra xem xét ý kiến đó đúng hay sai.
Công ty Justanhas áp dụng kế "tiếp nạp lời can gián" do đó đạt thành quả rất cao, hiện nay tại Mỹ có nhiều doanh nghiệp áp dụng phương sách này.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 224
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com