Cứu Hán vương , Trần Bình lập kế Ðốt Sạn đạo, Trương Lương chủ mưu
Bá vương phong tước chư hầu xong, ý muốn về đóng đô nơi Bành Thành, nhưng hay tin vua Nghĩa Ðế chưa thiên đô sang Giang Nam, lòng nóng như đốt. Một hôm, Bá vương triệu quần thần đến hỏi : - Nay vua Nghĩa Ðế không chịu thiên đô qua Giang Nam, nhường Bành Thành cho ta, các khanh nghĩ thế nào ? Trần Bình bước ra tâu : - Trời không hai mặt, nước chẳng hai vua. Nay Bệ hạ đã lên ngôi Thiên tử, lấy quyền hạn phong chư hầu, mà lại còn thỉnh mệnh Hoài vương, tránh sao khỏi thiên hạ chê cười. Cứ như ngu ý, Bệ hạ nên sai quân sư đem vài viên Ðại tướng đến Bành Thành bắt Hoài vương phải thiên đô đến một nơi cùng tịch, coi như bỏ đi vậy. Như thế tôn hiệu Bệ hạ mới chính đáng. Bá vương chuẩn tấu, liền gọi Phạm Tăng đến, phán : - Quân sư vì trẫm dẫn hai tướng Hoàn Sở, Vũ Anh thẳng đến Bành Thành, bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô ngay không được trì hoãn. Ðoạn, sửa sang cung thết trẫm ngự về đóng đô. Vì Bành Thành là nơi quê hương của trẫm. Phạm Tăng tâu : - Bệ hạ truyền chỉ tôi chẳng dám trái lời, song tôi chỉ sợ trong lúc vắng mặt tôi, có kẻ lừa dối Bệ hạ. Vì vậy, tôi xin ba điều. Bá vương nói : - Ðược, quân sư cứ nói. Phạm Tăng tâu : - Thứ nhất, Bệ hạ chớ nên rời khỏi Hàm Dương, vì Hàm Dương xưa nay là nơi trù mật, đất rộng, dân giàu, thiên hạ không đâu bằng. Thứ hai, nên trọng dụng Hàn Tín, vì Hàn Tín là kẻ có tài Nguyên Nhung. Nếu đắc dụng Hàn Tín sẽ là kẻ phi thường trong thiên hạ, không ai dám tranh phong. Nhược bằng không dùng thì phải giết đi, chớ nên dể lọt vào tay người khác. Thứ ba, chớ nên cho Hán vương vào Hán Trung vội. Hãy tạm giữ đến lúc tôi về sẽ tính. Ba điều ấy rất khẩn yếu, xin Bệ hạ chớ quên. Bá vương nói : - Quân sư cứ an tâm làm nhiệm vụ. Trẫm xin ghi nhớ . Phạm Tăng liền dẫn bọn Vũ Anh, Hoàn Sở thẳng đến Bành Thành. Ðêm hôm ấy, Trần Bình dâng biểu tâu với Bá vương : Quốc gia lấy sự giàu mạnh làm gốc . Thánh vương lấy nhân nghĩa làm đầu. Bê hạ nay mới lên ngôi hai điều căn bản là giữ gìn kho tàng cho sung túc, ban bố điều ân cho dân lành . Thế mà chư hầu đều tụ họp ca nơi Hàm Dương này , mỗi ngày ít ra cũng phải cung cấp thực phẩm cho lơn 3, 4 vạn quân. Phải tính, mỗi ngày dùng hơn 300 gánh rượu, 200 con dê, 400 lợn, 100 trâu, 4000 cân gạo 3000 hộc đậu , 2000 bó củi v. v. . như thế thì chẳng bao lâu kho tàng hết sạch, dân chúng nghèo nàn đó là chưa nói những sự nhiễu hại của quân sĩ đối với nhân dân làm cho nhân dân, oán trách Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét lại ?
Bá vương xem biểu xong, truyền cho các nước chư hầu , hạn trong ba ngày phải lui quân về nước . Duy có Hán vương hãy tạm ở lại Hàm Dương, đợi phạm Tăng về sẽ liệu . Hán vương được tin kinh sợ than : - Ôi ! Nếu chờ Phạm Tăng về, Phạm Tăng bày kế hại ta, còn vào Hán Trung sao được ? Liền đòi Trương Lương vào hỏi : - Bây giờ Bá vương cho chư hầu đâu về đấy, chỉ riêng ta bị bắt ở lại đây, thật nguy lắm. Tiên sinh có kế gì giải cứu chăng ? Trương Lương nói : - Nay gia quyến Ðại vương còn ở cả nơi Phong Bái, Ðại vương nên dâng biểu xin về thăm gia quyến và mang gia quyến đến đây . Thế rồi tôi sẽ có kế cứu thoát. Hán vương theo lời, lập tức sai Lịch Tư Cơ dâng biểu. Tờ biểu viết như sau : Ðức Thánh vương lấy hiếu trì dân, làm cho dân theo về đạo hiếu, gia đình thỏa thuận nhà cửa sum vầy . Bang tôi vốn người Phong Bái , một kẽ thường dân , ngữa đội ơn trên , được phong vương tước. Tấm thân vinh quy đã đủ mười phần . Duy chỉ cha mẹ, vợ con còn ở nơi cố quán tấm lòng tấc cỏ chưa chút báo đền. Nay xin để hết binh mã lại đây một mình về thăm quê quán, trong hạn ba tháng sẽ cùng gia quyến đến Hàm Dương phục mệnh . Chút tình khuyển mã, cúi đầu trần tấu, xin Bệ hạ đoái hoài .
Bá vương xem biểu xong, phán : - Hán vương xin về thăm cha mẹ, thật phải đạo làm con . Tuy nhiên, trẫm lại nghĩ rằng Hán vương xin đi đây không phải là chân ý, mà có lẽ vì bất mãn việc trẫm giữ lại Hàm Dương chăng ? Hán vương thất kinh, khúm núm tâu : - Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hèn này được phong vương tước cũng đã đũ lắm rồi còn gì bất mãn nữa. Phụ thân tôi mình già, tuổi yếu, dưới gối không kẻ chăm nom, đạo làm con nghĩ không đành lòng. Xin Ðại vương thương tình rộng xét. Nói xong, Hán vương gục xuống đất khóc nức nở. Trương Lương bước ra tâu : - Không nên để Hán vương về Phong Bái, nên bắt Hán vương vào ngay Hán Trung, rồi Bệ hạ sai người bắt Thái công và gia quyến đến đây làm con tin. Như vậy chẳng bao giờ Hán vương dám gian trá điều gì nữa. Bá vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nói : - Lúc đi, quân sư có dặn phải giữ Hán vương lại đây đừng để vào Hán Trung, e sanh dị ý. Trân Bình bước ra tâu : - Bệ hạ đã phong Lưu Bang làm Hán vương mà giữ lại đây mãi e thất tín với thiên hạ. Chi bằng cứ nghe theo lời Tử Phòng, bắt Thái công làm con tin, Hán vương đâu dám trái mệnh. Bá vương nói : - Nếu các ngươi thấy việc cho Hán vương vào Hán Trung là cần thiết cho uy tín, thì trẫm cũng y lời. Thế thì trẫm truyền cho Hán vương vào ngay Hán Trung, mà không được về Phong Bái. Hán vương giả khóc lóc van xin mãi. Bá vương lấy lời phủ dụ : - Thôi, nhà ngươi cứ an lòng đi trấn nhậm. Ðợi lúc nào trẫm dời đô đến Bành Thành sẽ sai người rước Thái công về nuôi dưỡng thay cho nhà ngươi. Hán vương tâu : - Ðội ơn Bệ hạ ! Kẻ hèn này dẫu đến chết cũng không quên ơn ấy. Nói xong bái tạ lui ra. Chung Ly Muội thấy Bá vương cho Hán vương về Hán Trung, vội vã can : - Lúc quân sư lâm hành có ân cần xin Bệ hạ đừng cho Hán vương vào Hán Trung, Bệ hạ đã quên rồi sao ? Bá vương nói : - Ðã bắt gia quyến người ta quản thúc nơi đây, còn giữ người ta làm gì nữa. Vả lại lời ta đã phán, không thể làm khác hơn được. Nhà ngươi không cần nhắc đến chuyện ấy nữa. Hàn Tín thấy vậy than thầm : -Ðã cho vào Hán Trung mà còn giữ gia quyến ở đây mai sau họ vì gia quyến cố đánh để giải thoát thì chúng ta tất phải chết. Tiếc thay ! Lời nói của quân sư không được xem trọng . Hán vương về đến đại trại, lập tức chỉnh đốn binh mã, lên đường. Trăm họ kéo nhau tiễn biệt, đứng chật hai bên đường , ai nấy đều tỏ lòng ái mộ. Các bậc bô lão đến trước ngựa, nói : - Chúng tôi cầu mong Ðại vương được làm vua nơi Quan Trung này, nay Ðại vương lại vào Hán Trung, chúng tôi biết bao giờ còn trông thấy ánh mặt trời nữa. Hán vương nói : - Chúng dân cứ thủ phận làm ăn, có ngày sẽ tương kiến. Tiêu Hà nói với các bô lão : - Các cụ nên trở lại kẻo Bá vương hay được , chẳng những hại cho các cụ mà còn nguy hiểm đến Ðại vương nữa. Nói xong, giục quân lên đường. Ði được một quãng dài, mà tiếng khóc than của dân chúng vẫn còn vang đến. Trương Lương dẫn đường, vào mạn núi Thiểm Sơn. Ði được 90 dặm thì tới huyện Phượng Tường rồi đến cửa ải Mê Bồn. Lại đi 30 dặm nữa đến huyện Bảo Kê rồi đến cửa quan Ðại Tân và đến Sạn đạo . Quân Hán vương toàn là người Sơn Ðông, không quen trèo non, lặn suối, nay tới đường Sạn đạo chỗ thì cao vút mây xanh, chỗ thì xuống tận suối thẳm, một cái trợt chán có thể bỏ mạng được, lấy làm kinh sợ, nói với nhau : - Chúng ta vào đây, bốn bề hoang vu, rừng thâm nước độc, nếu không liều chết giải thoát cho mình, thì trọn đời làm ma dại nơi hoang địa này. Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét lớn : - Các ngươi nói rất phải, dẫu chết với bọn chúng cũng còn mát lòng hơn sống trong đất này. Tôi xin nguyện làm tiên phuông, cử binh chinh phạt cho. Hán vương bùi ngùi nói : - Ta thà chết còn hơn đem thân đến đây cầu sống. Một mai bọn Chương Hàm đóng quân chận lối này, dầu ta có cánh cũng không thoát ra được Trương Lương, Tiêu Hà, Lịch Tự Cơ đều can : - Nếu Ðai vương chán nản như thế e hỏng việc lớn. Hán Trung càng hiểm trở bao nhiêu càng giúp cho Ðại vương dễ định thiên hạ bấy nhiêu. Ở đây Ðại vương tha hồ chiêu binh mai mã, dẫu cho Bá vương có tám tai bốn mắt cũng không thể nào biết được. Khi quân ta có đủ sức mạnh thì còn sợ gì gian nguy hiểm trở, trước địch Tam Tần, sau bình thiên ha có khó chi. Hán vương nghe lời khuyên giải lòng cũng nguôi ngoai nên truyền Phàn Khoái đốc binh thẳng vào Bao Trung. Khi đến núi Kim Ngưu , ba quân dừng lại nghỉ ngơi. Hán vương hỏi : - Sao lại gọi là Kim Ngưu ? Lịch Tự Cơ nói : - Trước kia đường Hán Tung ra Trung Nguyên còn hiểm trở bằng vạn lần ngày nay, tuyệt không có lối nào đi lại .Vua Huệ vương nhà Tần muốn kiêm tính sáu nước, nhưng không có cách nào kéo quân vào đánh Thục đặng . Nghe nước Thục có năm người lực sĩ sức mạnh xẻ núi lấp sông , liền bày ra một kế đúc năm con trâu bằng sắt phao đồn rằng : nhà Tần có năm con trâu vàng mỗi ngày tiêu ra năm đấu vàng! Vua thục tưởng thật, sai năm người lực sĩ, khai sơn phá thạch, lấy lối ra Tần, cướp năm con trâu ấy. Nhưng khi mở lối xong , cướp được trâu té ra là trâu sắt . Vua Huệ vương mượn con đường ấy đem quân vào đánh lấy đất Thục, làm ra con đường Sạn đạo, và đặt tên núi là Kim Ngưu. Hán vương nói : - Chỉ vì vua Thục tham vàng mà mở đường cho quân Tần vào cướp đất ! Quân sĩ nghĩ ngơi xong toan lên đường, Trương Lương bước đến nói với Hán vương : - Tôi tiễn chân Ðại vương đến đây rồi, xin cho phép tôi được trở về cố quốc. Hán vương kinh ngạc nói : - Từ khi ta gặp được Tiên sinh, đã bao lần gian nguy khổ cực nhờ Tiên sinh giúp đỡ, mới mong được toàn mạng, nay Tiên sinh bỗng nhiên bỏ ta trong lúc sự nghiệp chưa thành ta còn biết nương cậy vào ai ? Trương Lương nói : - Trước đây vì phải luôn luôn tranh đấu trước gian nguy, nên tôi không dám rời Ðại vương nữa bước. Nay Ðại vương vào Hán Trung, đâu còn gì nguy hiểm nữa ? Giữ tôi bên cạnh, Ðại vương chẳng ích gì ! Tôi xin từ giã Ðại vương trở về thăm cố chúa, nhân tiện tính giúp cho Ðại vương ba việc, xin Ðại vương cứ an tâm. Hán vương hỏi : - Ba việc ấy là ba việc gì xin Tiên sinh chỉ giáo. Trương Lương nói : - Một là : về du thuyết Bá vương, bày Bá vương thiên đô sang Bành Thành, dành Hàm Dương cho Ðại vương sau này, trở về lên ngôi thiên tử. Hai là : đi du thuyết chư hầu bỏ Sở phò Hán, và tìm cách làm cho Bá vương không đế ý đến lực lượng Ðại vương nữa. Ba là : tìm cho Ðại vương một người Ðại nguyên soái, đủ tài diệt Sở hưng Lưu Hàm , xong ba việc ấy tôi sẽ trở về Hàm Dương chờ đón Ðại vương . Nay chỉ khuyên Ðại vương một điều là cố gắng nhẫn nhục, vì Hán Trung chỉ là nơi ở tạm, không quá ba năm Ðại vương sẽ vào Trung Nguyên làm chủ thiên hạ. Hán vương nói : - Nếu thực được như lời Tiên sinh thì Bang này dẫu khổ nhục đến đâu quyết chẳng dám sờn lòng. Nhưng Tiên sinh định tìm một vị Nguyên soái, mà Tiên sinh không trở về đây, làm thế nào được ? Trương Lương nói : - Người ấy sẽ là một anh tài trong thiên hạ. Khi tìm được tôi sẽ chỉ tỏ đường lối để người ấy tìm đến đây. Ðại vương phải thu dụng, chớ thất tín. Hán vương hỏi : - Tiên sinh phải lấy gì làm tin, ta mới biết là người của Tiên sinh giới thiệu chứ ? Trương Lương nói : - Tôi xin giao cho người ấy một giốc thư . Trong thư tôi sẽ viết những lời bí mật của Ðại vương nói với tôi lúc bình nhật. Trương Lương nói xong, cúi đầu giã biệt. Hán vương nắm tay rơi lệ nói : - Xin Tiên sinh đừng sai ước. Tiên sinh về có gặp thân phụ tôi xin nói giúp một lời rằng : Bang này ngày đêm mong nhớ cội thung, nhưng hoàn cảnh không thể nào phụng dưỡng được. Xin người cứ giữ gìn thân thể, và trông nom các cháu. Còn trời còn đất, tất còn có ngày đoàn tụ . Trương Lương nói : - Vâng, tôi xin tuân mệnh. Nói xong, lại dắt Tiêu Hà ra dặn dò mọi việc và nói : - Lúc nào tôi tìm được vị Nguyên soái thì tướng quân phải hết lòng tiến cử nhé. Bức thư có rọc mất một chéo góc . Tiêu Hà nói : - Tiên sinh cứ yên lòng, nếu tôi thấy người cầm giốc thư đến đây quyết không để lỡ việc . Trương Lương bái biệt Hán vương , giã từ tướng sĩ rồi lên ngựa trở lại. Hán vương tiễn đưa mấy dặm đường . Bỗng phía sau có tiếng kêu la ầm ĩ , và ngọn lửa cháy ngất trời, lan ra hơn ba mươi dặm. Hỏi ra mới biết Trương Lương đốt Sạn đạo rồi. Hán vương thất kinh, ngước mặt lên trời than : - Ôi chao ! Trương Lương đã trở về còn nhẫn tâm đốt Sạn đạo là cố ý giam lỏng chúng ta nơi đây trọn đời bỏ xương trong núi thẳm rồi. Quân sĩ cũng dều nhao nhao chửi rủa Trương Lương và nói : - Trời ơi ! Thế là chúng ta đành sống làm mọi nơi xứ Hán Trung, để rồi chết làm quỉ nơi hoang vu này, chứ còn đường sá nào mong trở về nửa. Ðang lúc ba quân huyên náo, Tiêu Hà chạy lại nói nhỏ với Hán vương : - Xin Ðại vương chớ oán Trương Lương. Sở dĩ Trương Lương đốt Sạn đạo là để cho Bá vương không còn để ý đến ta nữa, quân tướng Tam Tần ăn no ngủ kỹ không đề phòng xin Ðại vương lượng xét .
Hán vương như sực tỉnh, thở hào hển nói : - Nếu không có nhà ngươi, ta đã hiểu lầm oán trách người hiền. Nói xong, truyền ba quân tiếp tục lên đường. Khi đến Bao Dung, Hán vương tìm lời phủ dụ quân sĩ, rồi chọn ngày lên ngôi, thi ân bố đức, dân chúng đem lòng cảm phục. Năm ấy được mùa, dân chúng ấm no, trăm họ an vui, non sông tươi thắm. Hán vương phong Tiêu Hà làm Tướng quốc, Tào Tham, Phàn Khoái, Chu Bội, Quán Anh đều làm tướng . Từ đó, chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chỉ hơn vài tháng dân Hán Trung, đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, tuyệt nhiên không có một kẻ gian manh trộm cướp, thật là một cảnh thái bình. Sau khi đốt Sạn đạo, Trương Lương đến Phương Linh nghỉ một hôm, ngày hôm sau qua Phượng Châu, Ích Môn, đi gần tới đia phận Bảo Kê, bỗng có một tướng kéo một đoàn quân ra đón đường hét lớn : - Trương Lương ! Ta vâng lệnh quân sư Phạm Tăng đến đây đón ngươi đã lâu. Trương Lương kinh ngạc, xem lại thì thấy đó là nha tướng của Hạng Bá.
Hồi 13
Vì vua Hán , Trương Lương quyết chí Can vua Sở , Hàn Sinh bỏ mình
Viên tướng ấy thấy Trương Lương sợ hãi, vội xuống ngựa, và cười lớn nói : - Tiên sinh không nhận ra tôi sao ? Hạng công biết tiên sinh vào nơi hiểm trở, nên sai tôi đến đây bảo vệ . Trương Lương mừng rỡ nói : - Hạng công thật là người chu đáo. Rồi cùng theo tướng ấy vào thành đến nhà Hạng Bá. Hai người gặp nhau trong bầu hoan hỉ. Hạng Bá sai lấy quần áo cho Trương Lương thay, trao đổi niềm tâm sự, và mở tiệc đãi đằng cho đến tối mới đi nghỉ . Ðêm ấy, Trương Lương lòng bàng hoàng không ngủ được, bỏ ra ngoài hiên dạo cảnh ngắm trăng, nhân hỏi thăm chuyện các nước chư hầu đối với Bá vương như thế nào. Bọn quân canh nói : - Chư hầu đều đến bái yết Bá vương , duy có vua nước Hàn là Cơ Thành vì đến chậm lại để Trương Lương theo phò Hán vương vào Bao Trung, nên Bá vương truyền chém đầu, đưa linh cữu về nước cách đây vài hôm. Trương Lương hay tin như sét đánh bên tai, tay chân bủn rủn, vội vàng chạy vào phòng, suốt đêm khóc sướt mướt, nước mắt ướt đầm cả gối. Sáng hôm sau, Trương Lương cáo từ Hạng Bá, trở về Hàn quốc. Hạng Bá nóí : - Lâu nay bận rộn viẹc nước, tuy gặp nhau nhưng chưa bao giờ được cùng nhau tâm sự. Vừa rồi, tôi sai người đón Tiên sinh đến dây cốt để thỏa tình hoài mộ, sao Tiên sinh vừa đến lại đã giả biệt ? Trương Lương đáp : - Vừa rồi tôi nghe Hàn Vương bị Bá vương giết chết, chỉ vì tôi theo Hán vuơng vào Bao Trung. Tình vua tôi rất nặng xin hiền huynh cho tôi về nước, khóc cho Hàn vương rồi sẽ trở lại đây bái yết. Nói dứt lời , hai dòng nước mắt chảy xuống đọng trên má . Hạng Bá cảm động không dám ngăn, chỉ hẹn sau một tháng sẽ cho người đến đón. Trương Lương ra đi... buồn bã về đến nước Hàn vào tiếp kiến cac vị công tử, rồi ra trước mộ Hàn vương làm lễ, rồi khóc và than rằng : - Chúa công ôi ? Ðể cho Hạng Vũ hại Chúa công thật là tội của Lương này. Nếu Lương này không báo thù được cho Chúa công xin muôn kiếp không làm người. Than rồi lại khóc. Các công tử xúm lại khuyên giải mãi, Trương Lương mới chịu gạt lệ trở về thăm gia quyến. Ðược vài hôm, Trương Lương lại thu xếp hành trang ra đi. Quê người cảnh lạ, non nước đìu hiu, lòng buồn bả khôn khuây. Vừa đi được mấy ngày , bỗng gặp người nhà của Hạng Bá sai đến đón . Trương Lương nghĩ tình bạn, không nỡ từ chối, trở lại nhà Hạng Bá. Hạng Bá thấy Trương Lương buồn rầu, ân cần hỏi : - Tiên sinh định đi đâu mà có vẻ buồn bả như thế? Trương Lương thản nhiên đáp : - Bấy lâu vì nước quên nhà, tuyết sương chẳng quản. Nay cố chủ đã mất, thân hèn lại nhiều tật, chẳng mong gì ở cõi đời này nữa ; vì vậy muốn học thuật huyền vi của Lão Tử , theo lối phóng đãng của Trang Chu, hái rau vi theo Bá Di . Thúc Tề, rửa tai trâu học đòi Hứa Do, Sào Phủ chán vòng danh lợi, tìm thú sơm lâm, phú quý vinh hoa không dám nghĩ tới , hiền huynh đã là bạn , tôi chẳng dám giấu. Hạng Bá biết không thể đem giàu sang làm vui Trương Lương được, nên chỉ xin lưu lại vài tháng để thỏa tình ngưỡng vọng.
Môt hôm , Hạng Bá vào chầu , Trương Lương ở nhà một mình đi bách bộ , đến một vườn hoa thấy có một tòa lâu đài tường cao, cửa rộng, cỏ hoa man mác trên có đề bốn chữ "Vạn quyển thư lâu " . Trương Lương lần vào. Trong thư lâu có nhiều phòng, nhưng đặc biệt nơi phòng chính trang hoàng đồ sộ , án thư ở giữ muôn vẻ trang nghiêm. Cách tường, một giá sách dể toàn trúc giản đời cổ . Một bên có để những văn thư rất nhiều. Trương Lương mở ra xem thì thấy đó là những tờ sớ tấu của sáu nước, những lời biểu của bá quan, vì Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh nên các văn thư đều phải kiểm duyệt trước rồi mới đệ trình lên Bá vương. Bản chính đem vào triều bản sao để ở nhà. Trương Lương đọc qua mọt loạt thấy những tờ biểu ấy có tờ cũng hay, có tờ cũng dở có tờ lại toàn là lời sàm nịnh, nói chung là không có gì xuất sác. Bỗng Trương Lương rút đến tờ biểu sau cùng, xem qua , trát mồ hôi ướt áo . Tờ biểu ấy như vầy : " Tôi nghe nói trị thiên hạ tối thiểu phải có hai điểm . Thế và Cơ . Thế là xét điểm thực hư lượng sức mạnh, yếu. Biết mình, hiễu người, ấy là nét cần bàn để trị thiên hạ . Nếu chỉ lấy sức mạnh hoành hành chẳng qua là một cơn gió lốc, cây cỏ tuy ngã rạp xuống, nhưng chẳng bao lâu sau sẽ đứng dậy chơm chởm như muôn ngàn mũi giáo chống lại uy vũ. Cơ là hiễu rõ sự hưng vong , xét cơ trị loạn , nếu không biết đến cơ , chẳng qua là nhóm giặc cỏ nổi lên , bạo phát bạo tàn , lâu dài sao được ? Nay Bệ hạ tuy làm vua Quan Trung nhưng lòng người chưa phục . Dân chỉ sợ uy mà không mến đức. Trong vũ trụ , không có gì mạnh mà không đến lúc suy yếu . Cơn bão tố khủng khiếp kia , có thể xô tường, trốc đá nhưng rồi cũng phải dứt. Cái gì biểu lộ ra ngoài, cái ấy chói v vong . Ngược lại cái gì i v , cái ấy lâu mất. Tỷ như lòng oán vọng của dân chúng, tuy không phát lộ , nhưng tồn tại mải trong lòng, khó mà tẩy sạch . Ðã uy rồi đến lúc phải khuất , đã mạnh rồi tất có lúc phải yếu . Nếu không thấu nghĩa chữ "cơ" làm sao có thể trị thiên hạ ? Tôi thấy vậy mà lo cho Bệ hạ đó . Như Hán vương khi ở Sơn Ðông tham tài hiếu sắc mà lúc đến Quan Trung thấy của không màng thấy sắc không lụy , thi ân bố đức, khiến cho dân Tần cảm mến , đó chẳng phải là kẻ hiểu được chữ "cơ" và chữ "thế" trong thiên hạ ư ? Nếu Hán vươngg thừa cơ xướng khởi , lấy lòng dân làm sức mạnh , lợi dụng cái yếu của Bệ hạ để làm cái mạnh của mình , có phải là lập được cái "thế" trong thiên hạ không ? Cứ xem như việc đốt Sạn Ðạo để Bệ hạ khỏi ngó về phương Ðông . Tam Tần không có ý phòng bị về đất Hán , rồi đem quân Ba Thục về lấy Quan Trung là hiễu "thế" và biết "cơ" trong thiên hạ lắm ! Hán vương là kẻ đối thủ của Bệ hạ mà Bệ hạ không thấy cái nguy hiểm ấy , tướng sĩ chỉ biết thừa thuận ý vua , tưởng chỉ dùng cái Vũ của Bệ hạ sẽ trở thành người vô địch trong thiên hạ ! Tôi , dẫu là một kẽ hèn ,nhưng đã ăn lộc vua lẽ nào không có lòng lo lắng , mạo muội đôi lời, không ngại trăm quan chê cười , hiền dâng vài kế : nay phải thêm quân phòng bị biên cương, rút bọn Chương Hàm về dùng vào việc khác, chọn người trí dũng chận lấp cửa quan, bắt gia thuộc Lưu Bang đến làm con tin, trong thì lo điều nghĩa, chọn sĩ cầu hiền, tuân theo chính lệnh nhà Châu, lấy dân làm gốc, ngoài thì trấn an chư hầu, sửa việc binh nhung, chọn người tài dùng làm Nguyên soái lo việc tảo trừ những mầm phản loạn, như thế, Lưu Bang nhất định không dám dòm ngó về phương Ðông, xã tắc vững bền như bàn thạch . Vài lời trung trực giải bày xin Bệ hạ rộng xét ". Ðọc xong tờ hiểu, Trương Lương rất kính phục, khen thầm : - Người nầy đáng sánh với Y Doãn ở Nội Sằn, Thái Công ở sông Vị, nếu Bá vương dùng người này là nhà Hán phải nguy vong. Còn nếu Hán vương dùng được người này nước Sở phải mất. Chẳng biết hiện nay người này đang làm gì ? Và có ở đây chăng ? Nghĩ rồi, đem văn thư xếp lại như cũ, dạo gót xuống lầu về thư phòng nằm nghỉ. Một lúc sau , Hạng Bá đi chầu về, truyền mở tiệc khoản đãi, và nói : - Tiên sinh với tôi chẳng khác nào anh em ruột, xin chớ khách tính nhé ! Trương Lương nói : - Hiện nay tôi đã đặt mình ngoài vòng thế sự còn khách tính gì nữa . Hạng Bá và Trương Lương cùng ngồi uống rượu . Rượu được nửa chừng, Trương Lương hỏi : - Nghe hiền huynh có vườn hoa đẹp, xin cho tiện đệ tiêu khiển một chốc có được chăng ? Hạng Bá đứng dậy mời Trương Lương. - Vâng, xin Tiên sinh cùng tôi dạo mát. Hai người dắt tay đến vườn hoa, đi đến thư lâu, Hạng Bá mời Trương Lương vào chơi, Trương Lương giở tập văn thư ra xem, giả vờ hỏi : - Văn thư ở đâu nhiều thế này ? Hạng Bá đáp : - Văn thư của sáu nước chưa tiến lãm, còn bỏ cả nơi đây . Trương Lương lục lạo một hồi rồi cầm tờ biểu ban sáng đưa cho Hạng Bá xem, và hỏi : - Tờ biểu này của kẻ nào mà viết dài như thế ? Hạng Bá đáp : - Người ấy chỉ là môt tên quân hầu. Tuy nhiên tài có thể sánh với Lã Vọng nhà Chu, tiếc rằng chưa gặp thời. Trương Lương vồn vã hỏi . - Tàì như thế mà chỉ làm môt tên quân hầu ư ? Hiền huynh có thể cho biết lai lịch người ấy chăng ? Hạng Bá chậm rãi nói : - Người ở Hoài âm, tên Hàn Tín, nhà nghèo, thuở trước làm nghề câu cá. Phạm Tăng đã hai ba lần tiến cử, nhưng Bá vương không dùng , chỉ cho làm chức Chấp Kích thôi . Thật đáng tiếc , vừa rồi Hàn Tín dâng biểu này lên Bá vương. Bá vương toan bắt tội , may có tôi xin giúp mới toàn mạng . Trương Lương nghĩ thầm : - Chính là người mà ta đã gặp nơi Hồng Môn trước đây . Nếu Hán vương dùng được người này , lo gì không phá được Sở, mà thù nước Hàn ta cũng trả được . Trương Lương lưu lại nhà Hạng Bá vài hôm, dò xét quân tình, xong, nói với Hạng Bá : - Tôi muốn tìm cảnh núi non thanh vắng để an thân, vậy từ đây xin giã biệt hiền huynh. Hạng Bá quyến luyến nói : - Tiên sinh cứ ở đây , sớm cuộc cờ, tối chén rượu, như thế cũng thanh thoảng rồi , cần gì phải tìm nơi thanh vắng ? Trương Lương đáp . - Tôi đã là người nhàn tản thì không thích chốn phồn hoa . Ở đây là trướng phủ , trước mắt rực cảnh vàng son , bên tai vang mùi thế sự, làm thế nào tâm hồn thoải mái được . Hạng Bá dùng hết lời , gợi hết tình cảm nhưng không thể nào giữ Trương Lương lại được , liền tiễn chân ra khỏi Hàm Dương mặc cho Trương Lương vui phong nguyệt ! Trương Lương giã biệt Hạng Bá xong , thay áo quần , giả làm một đao sĩ, lẽn vào thành , lúc thì dừng chân nơi cây cao bóng mát , lúc thì vào ngõ hẻm hang sâu , lúc vào đình chùa , làng mac , lúc đến nơi chợ búa, phố phường , lưng đeo mấy đồng tiền , tay cầm năm quả táo , hát nghêu ngao , nói vơ nói vẩn . Bọn trẽ thấy lạ xúm nhau xem suốt ngày . Một hôm , Trương Lương gặp một đứa trẻ mặt mày sáng sủa đỉnh ngộ, bèn gọi đứa trẻ ấy vào một ngôi chùa vắng , cho mấy đồng tiền , mấy cái bánh rồi dạy mấy câu như sau : Hổ trong nước lặng Cá lội thảnh thơi Dầu ai phú quí trong dời, Quê hương chẳng biết , lẽ trời chưa thông Bóng tối mông lung Người mang áo gấm. Áo kia dầu đẹp Chẳng được tiếng khen
Chỉ dạy vài lượt , đứa bé đã thuộc lòng. Trương Lương dặn : - Nếu có ai hỏi, em cứ nói rằng : " Em nằm mơ thấy thần dến dạy hát " , đừng nói ta dạy nhé ! Nếu em nói như vậy , em sẽ được sống lâu, giàu có còn ta dạy thì lúc chết xuống âm phủ sẽ bị nấu vào vạc dầu sôi , em nghe rõ chưa ? Ðứa bé đáp : - Thưa sư cụ, cháu xin vâng . Nhưng ngoài ra sư cụ còn dặn gì thêm nữa chăng ? Trương Lương nói . - Em đem lời nói ấy dạy cho các đứa trẻ khác, càng nhiều càng tốt. Nói xong Trương Lương cho thêm đứa bé mấy đồng tiền nữa rồi tìm chổ vắng vẻ tạm trú để dò thêm tin tức. Từ khi Bá vương cho chư hầu về nước, đêm ngày vẫn áy náy lo sợ dân Tần không phục, tìm cách gây rối nên thường cho người ra ngoài thám thính. Một hôm, quân thám thính nghe đứa trẻ hát, vội về báo lại với Bá vương . Bá vương không tin. Chiều hôm ấy cải trang một thường dân ra ngoài chợ, Bá vương trong thấy mấy đứa trẻ đang vừa đi vừa hát liền gọi lại hỏi : - Ai dạy chúng bay hát thế ? Một đưa trẻ trả đáp : - Trời dạy chúng tôi hát đấy . Bá vương kinh ngạc nghĩ thầm : - Ðất Hàm Dương bị tàn phá, ta muốn thiên đô về Bành Thành . Nay câu đồng dao này ứng đúng theo ý định của ta, thế thì lòng trời hợp với lòng ta vậy . Hôm sau , Bá vương hội quần thần, phán : - Hiện nay có một câu đồng dao lưu truyền khắp chợ búa, tại sao các người không tâu cho ta biết. Câu hát ấy chính là trời muốn cho ta thiên đô về Bành Thành. Bành Thành thuộc nước Sở , từ sông Hoàng sông Hà trở về phía Bắc , đất vuông nghìn dậm , chính là chổ nên đóng đô đó . Nước cũ làng xưa còn đâu hơn được. Quan Gián nghị Hàn Sinh bước ra can : - Tâu Bệ hạ , những lời đồng dao chẳng qua lời người đặt ra , tuyên đồn nhảm nhí , xin Bệ hạ chớ tin . Quan Trung là nơi kiên cố, bốn mặt núi rừng , chỉ hở có một mặt phía Ðông mà thôi, nhưng phía Ðông lại có sông Hoàng Hà .Ðịa thế như vậy quả là nơi Thiện phủ . Nhà Châu dùng làm đất Hưng vương , nhà Tần lấy chổ này làm nơi đồ Bá . Xin Bệ hạ chớ nghe lời đồng dao mà bỏ nơi thắng địa . Bá vương lắc đầu nói : - Lòng trời đã ưng theo ý muốn của ta, ngươi chớ đem lời ngăn cản. Ta thiên đô về Bành Thành có ba điều cần thiết : Một là đã ba năm nay, ta lo chinh Ðông phạt Bắc chưa về quê hương. Hai là xứ Quan Trung đất ít núi nhiều, tầm con mắt trông không được quang đãng. Ba là điềm trời đã ứng, trái lại không hay . Hàn Sinh nói : - Bệ hạ gồm thâu bốn bể như mặt trời soi trên quả đất , dẫu ở đâu nhân dân cũng ngưỡng vọng, hà tất phải trở về cố hương mới vinh hạnh ? Bá vương nói : - Thôi , ngươi không cần nói nữa, đành rằng : " Bốn phương đâu cũng là trời , người trong bốn bể là tôi một nhà " . Nhưng ta thích ở dâu thì đóng đô ở đó, hề chi ? Hàn Sinh nói : - Trước khi Quân sư đi có dặn Bệ hạ không nên rời Hàm Dương kia mà . Bá vương cười lớn nói : - Ta là vua , đem chí dọc ngang , tung hoành bốn bể , há lệ thuộc theo ý muốn của một kẻ nào sao ? Hàn Sinh không còn lời nào can ngăn nữa, tức giận bước xuống thềm , ngửa mặt lên trời thở phào ra một cái, rồi nói : - Thường nghe người ta nói : - Người nước Sở như con khỉ tắm mà đội mũ . Lời nói ấy nay xét thấy không sai . Bá vương thoáng nghe câu nói ấy, hỏi Trần Bình : - Hàn Sinh muốn nói gì vậy ? Tràn Bình không dám giấu ,tâu : - Tâu Bệ hạ, Hàn Sinh oán Bệ hạ, lấy con khỉ mà ví người nước Sở . Bá vương vỗ hét : - Thế là ý gì ? Trần Binh nói : : - Tâu Bệ hạ , câu nói có nhiều ý . Con khỉ mà cho mặc áo đội mủ vào , tuy bề ngoài giống loài người, song bên trong vẫn là khỉ. Ðó là ý thứ nhất. Con khỉ không quen mặc áo đội mũ, thế nào nó cũng bỏ quần áo đi. Ðó là ý thứ hai . Bá vương nghe xong nổi giận mắng lớn : - Súc sanh ! Dám buông lời sỉ nhục ta như thế sao ? Liền truyền Chấp Kích Lang trói Hàn Sinh lại, dẫn ra chợ. Dân chúng đến xem chật cả trong ngoài. Trương Lương lúc bấy giờ cũng đang lẩn mặt trong đám dân chúng ấy. Hàn Sinh thấy quân nấu vạc dầu, tức giận, nói : - Hởi người xứ Hàm Dương a ơi ! Ta vì trung với nước mà phải nấu dầu, chứ xét chẳng có tội chi. Ta chắc không quá một trăm ngày nữa, quân Hán vương sẽ ra đánh Tam Tần, lấy Hàm Dương, chừng ấy các ngươi mới thấy loài khỉ đội mũ . Hàn Tín nghe nói, bảo Hàn Sinh : - Thôi, xin quan Gián nghị chớ nói nữa ! Ông bảo là ông chết oan , nhưng theo tôi , tôi cho là ông chết đáng lắm . Hàn Sinh trợn mắt cải lại : - Tại sao ngươi dám nói thế ? Hàn Tín nói : - Ông làm chức Gián nghị, sao lúc giết tướng Tống Nghĩa , ông không can ; lúc chôn hai mươi vạn hàng tốt , ông không can ; lúc giết Tử Anh , đào mả Thủy Hoàng , đốt cung A Phòng , ông không can ? Nay bệnh trạng đã quá trầm trọng dầu trời cũng chẳng cứu được thì ông lại nhảy vào can gián . Như thế chết là đáng lắm . Chỉ có được một điều, nếu hồn thiêng có oán hận thì nên oán hận kẻ đã tạo ra câu đồng dao kia , chớ có oán hận kẻ hành hình này . Nói xong ném Hàn Sinh vào vạc dầu . Dân chúng đều nhắm mắt thở dài . Trương Lương đứng bên cạnh , nghe Hàn Tín nói , kinh sợ, biết không phải không phải là người thường , liền theo dõi về đến tận nhà để biết chổ ở của Hàn Tín . Sáng hôm sau, Hàn Tín vào phục mệnh , tâu lại việc hành hình Hàn Sinh. Bá vương liền sai Quý Bố đem quân đến Bành Thành, đốc thúc công việc sửa sang cung . Các quan thấy Hàn Sinh chết , không ai dám ngăn nữa . Hàn Tín về nhà, nằm vắt tay lên trán ngẫm nghĩ : - Con chim làm tổ ở cây còi , chẳng bao giờ được êm ấm . Tiếng chuông thu không vừa điểm , bóng tối nhá nhem , Trương Lương giắt thanh bảo kiếm vào mình chui qua thành đến trước nhà Hàn Tín, nói với quân giữ cửa : - Tôi là người đồng hương với Hàn tướng quân, xin vào yết kiến. Quân vào báo. Hàn Tín ngẫm nghĩ : - Mình là kẻ bần tiện nơi Hoài Âm , chẳng dám chơi bời với ai, tại sao nay có người đồng hương đến viếng ? Ðiều này thực cũng lạ. Hàn Tín còn đang suy nghĩ thì Trương Lương đã vào đến nơi. Trông qua ánh trăng, Hàn Tín thấy Trương Lương mặt mày tuấn tú, dáng điệu thanh cao, xem chừng hơi quen, nhưng không dám hỏi, liền mời vào trong nhà thi lễ, và nói : - Hiền công ở chốn nào lại chơi ? Quý hiệu là chi ? Có điều gì chỉ giáo ? Trương Lương đáp . - Tôi là người đồng hương với tướng quân, nhưng lưu lạc giang hồ từ thuở bé, nên tướng quân không rõ đặng. Nay nhân dịp qua đây, biết được tướng quân, nên xin vào thăm viếng. Hàn Tín hỏi . - Chẳng hay hiền công làm nghề gì mà dạo khắp giang hồ . Hẳn có một chí hướng ? Trương Lương đáp : - Tôi vốn có nghề xem tướng. Tiền nhân tôi có để lại cho tôi ba thanh bảo kiếm rất quý, vì vậy bấy lâu nay tôi đi tìm bậc anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, kẽ nào đáng mặt thì dâng hiến. Hiện hai thanh bảo kiếm kia tôi đã dâng hai người xứng đáng rồi, còn một thanh này chưa gặp chủ . Nay nghe tướng quân là bậc hào kiệt, lại là kẻ đồng hương, nên mang lại đây kính biếu. Hàn Tín thấy Trương Lương ca tụng thanh bảo kiếm liền hỏi : - Thanh kiếm ấy có gì quý ? Trương Lương ngâm lên một bài thơ ca tụng thanh kiếm , đại khái như sau : Ðê ngầm dưới nước, giao long khóc Ðem bõ trên không, quỉ mị kinh Lưu truyền thiên cổ Gíá trị thiên kim Kiếm báu không đem bán Chỉ hiến kẽ hùng anh ! Giang sơn mặc sức tung hoành Giúp người dựng nước, lưu danh muôn đời.