Hồi 14
Lập kế , Trương Lương dụ Hàn Tín
Ðòi ấn , Anh Bố bức Hoài Vương
Hàn Tín thấy Trương Lương tán tụng thanh kiếm mãi , và biết mình là hào kiệt, lòng hoan hỉ , vội đứng dậy nói :
- Tín tôi từ đến nước Sở, chẳng qua là một kẻ hư danh , nay Tiên sinh có lòng hạ cố đem thanh bảo kiếm đến đây, ơn ấy không sao nói hết. Vậy xin Tiên sinh cho tôi xem qua kiếm ấy.
Trương Lương rút kiếm trao cho Hàn Tín.
Kiếm vừa rút ra khỏi vỏ, hào quang chói sáng ngời.
Trên bao có đề một thơ như sau :
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông môt dãi chí hiên ngang.
Máu hồng men rượu say băng tuyết
Muôn dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tín bình nhật rất thích kiếm, nay thấy thanh bảo kiếm này bằng lòng lắm, chỉ vì trong túi không có tiền, nên không dám hỏi giá.
Sau một lúc lăm le thanh kiếm, Hàn Tín hỏi :
- Ngài có ba thanh kiếm, thế thì hai thanh kia ngài đã bán được bao nhiêu ?
Trương Lương nói :
- Tôi đã nói với tướng quân là kiếm tôi không phải bán. Nếu gặp người xứng đáng làm chủ, xin đem dâng không mà thôi , vì nghe tướng quân là bậc hào kiệt, mới đem kiếm đến đây.
Hàn Tín nói :
- Ða tạ Tlên sinh có lòng chiếu cố. Chỉ sợ Tín tôi chưa chắc phải là hào kiệt hay không ?
Trương Lương nói :
- Nếu không phải là hào kiệt thì đến vạn nén vàng tôi cũng không thèm bán .
Hàn Tín mừng rỡ, sai gia nhân dọn tiệc rượu khoản đãi. Trong lúc nâng chén, Hàn Tín hỏi :
- Thưa Tiên sinh, ba thanh bảo kiếm đều có tên cả chứ ?
Tnrơng Lương nói :
- Dĩ nhiên . Một thanh gọi là Thiên Tử kiếm , một thanh gọi là Tể Tướng kiếm, còn thanh này gọi là Nguyên Nhung kiếm. Thanh Thiên Tử kiếm còn gọi là Bạch Hồng Từ Ðiện, nguyên của Ngô vương đúc ra treo trên vách , giống tà ma quỉ mị phải xa lánh. Tể Tướng kiếm biệt danh là Long Tuyền Thái A , thanh kiếm này của Lôi Hoán đào được .
Lôi Hoán giỏi vốn về thiên văn xem thấy có một tia sáng vọt lên sao Ngưu, sao Ðẩu, liền sai người đào nơi nền nhà sâu hơn mười trượng , được một cái hòm , mở ra thấy trong đó có thanh kiếm . Từ đó ánh hào quang không còn chiếu sáng nữa. Sau Lôi Hoá đeo kiếm lội qua sông , bỗng nhiên thấy mất . Trông xuống sông thì thấy kiếm ấy hóa thành con Giao Long đang vẩy vùng trong nước .
Nguyên Nhung kiếm có tên là Can Tương, Mạc Tà.
Nguyên vua nước Ngô là Hạp Lư đúc ra hai thanh , một thanh "Thư" và một thanh "Hùng" . Tuy là của nhân tạo, song chọn ngày giờ, ứng theo các vì tinh tú, hợp khí âm dương , rèn vào lửa hơn mười năm mới thành, cho nên quý báu lắm.
Vì sự quý báu ấy nên tôi đi bán kiếm phải dùng người tài đức mà trao.
Hàn Tín hỏi :
- Người tài đức thế nào mới dùng được kiếm báu của Tiên sinh ?
Trương Lương đáp :
- Người muốn dùng Thiên tử kiếm phải có đủ tám đức : Nhân, hiếu, thông, minh, kính , tắc, kiếm, học.
Hàn Tín hỏi tiếp :
- Còn dùng Tể Tướng kiếm phải có những đức nào ?
Trương Lương đáp :
- Cũng phải có đủ tám đức mới đeo được.
Thế nào là tám đức tể tướng ?
- Ðó là : Trung, chính, minh, biện, thứ, dong, khoan, hậu .
Hàn Tín hỏi :
- Còn như kiếm Nguyên Nhung cần phải có những đức gì ?
Trương Lương đáp :
- Cũng phải đủ tám đức : Liêm , quả, trí, tín , nhân, dũng , n ghiêm, minh.
Hàn Tín lại hỏi :
- Tiên sinh đi bán kiếm mà hiểu thấu lẽ trời, quả là bậc anh tài. Song hai thanh kiếm kia Tiên sinh đã bán cho ai ?
Trương Lương nói :
- Thanh Thiên Tử kiếm thì tôi đã bán cho ông Lưu Bang, người Phong Bái.
Hàn Tín kinh ngạc, hỏi :
- Tiên sinh xem tướng Lưu Bang như thế nào mà bán Thiên Tử kiếm ?
Trương Lương thản nhiên đáp :
- Ông ấy là người khoan nhân đại độ, biết trọng dụng lương thần, biết nghe lời trung gián, không tham tài , không hiếu sắc, không bội nghĩa, không vong ân, thật là một người có đức, đáng làm Thiên tử . Trước đây, người ấy vì dân, chém bạch xà khởi nghĩa nơi núi Mang Ðãng, trừ nhà Tần tàn bạo, khiến thiên hạ mến phục. Ngay khi đó tôi đã hiến thanh kiếm cho ông ấy.
Hàn Tín hỏi :
- Còn thanh Tể tướng ngài đã trao cho ai ?
- Tôi đã trao cho ông Tiêu Hà.
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi :
- Người ấy có tài gì vậy ?
Trương Lương gật gù nói :
- Thế , Tướng quân cũng chưa biết cả ông Tiêu Hà nữa ư ? Ông ta là người có tài thao lược, gồm đủ kinh luân, lại đầy đức khoan hồng , nhân nhượng , không lấy vũ lực làm trọng, chỉ lấy nhân nhu làm gốc, xem lúc ông ta theo Bái Công vào Hàm Dương , đem ba điều ước pháp truyền trong nhân dân, thì thật là tài Tể Tướng đă biểu lộ ra đó . Tôi dâng kiếm cho Tiêu Hà từ lúc ấy .
Hàn Tín nghe xong, mừng rỡ nóì :
- Tiên sinh bán kiếm cho Hán vương và Tiêu Hà thật xứng đáng. Nay thanh kiếm này Tiên sinh đem đến cho Tiểu tử, chỉ sợ rằng Tiểu tử không đủ tài đức Nguyên Nhung, phụ với lòng tin của Tiên sinh chăng ?
Trương Lương nói :
- Cứ như tài đức và cái học vấn của tướng quân dấu Tôn Ngô đời xưa cũng không hơn được. Chỉ vì chưa gặp được minh quân. Tỷ như con Thiên lý mã ngày xưa, lúc chưa gặp được Bá Nhạc thì Thiên lý mã phải nhốt chung vào chuồng trâu, chịu nhục với đứa ăn, đứa ở. Khi Bá Nhạc biết được, đem về nuôi dưỡng, Thiên lý mã vó câu dong ruổi, nghìn dặm một giờ, ai nấy đều khen ngợi. Ấy vậy, Tướng quân bây giờ chẳng khác con Thiên lý mã chưa gặp Bá Nhạc. Nếu tướng quân gặp đặng minh quân, tài đức ấy sẽ làm khuynh thành, nghiêng quốc có khó chi.
Hàn Tín nghe Trương Lương động đến hào khí, bất giác thở dài, đứng dậy nói :
- Ða tạ Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh như soi vào buồng gan của kẻ thất thời này, khiến Tín tôi không thể cầm lòng được. Ðã lâu, tôi không thi thố được tài năng nào, mang danh là người tiểu tốt, mấy lần dâng biểu lên Bá vương, nhưng Bá vương không dùng. Nay Bá vương lại thiên đô về Bành Thành thì việc đời còn trông mong gì nữa ? Chẳng bao lâu Tín tôi cũng trở về cố hương , tiêu dao ngày tháng cho nhàn thân.
Trương Lương nói :
- Ấy chết ? Tướng quân nghĩ lầm rồi ! Ðấng anh hùng nuôi chí, thua cuộc này bày cuộc khác, cớ sao lại tủi phận hờn duyên ? Lấy cái học của tướng quân trong thiên hạ, thì thiếu gì nơi cá nước duyên ưa , có lẽ nào quay về làm một gã câu cá nơi xứ Hoài Âm nữa ?
Hàn Tín nói :
- Thưa Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh chẳng khác nào liều thuốc chữa cho người ốm ! Tiên sinh lại đây cốt không phải bán gươm, mà e ý riêng gì đây. Thoạt trông dưới ánh trăng mờ, tôi đã hiểu, nhưng chưa dám nói. Tiên sinh có phải là Trương Tử Phòng, đang khuông phò Hán vương chăng ?
Trương Lương vội vàng đứng dậy thủ lễ, và đáp :
- Tướng quân đã biết , Lương này đâu dám giấu .
Lâu nay nghe danh tướng quân, đem lòng ngưỡng vọng, nay mới hân hạnh được yết kiến !
Hàn Tín mừng rỡ, nắm tay Trương Lương nói :
- Thế thì trời xui Tiên sinh đến đây để giúp Tín tôi tìm nơi vin rồng cưỡi phụng, xin Tiên sinh vì Tín tôi chỉ bảo cho .
Trương Lương nói :
- Tôi xem các vua chư hầu, không ai bằng Hán vương, người ấy là bậc siêu nhân, có thế làm nên đại sự.
Nếu tướng quân muốn về Hán, tôi xin đưa cho một vật làm tin, vật này còn quý hơn viên ngọc Biện Hòa, và lạ hơn chén Ngọc đẩu nữa.
Hàn Tín hoan hỉ, tuân lời. Trương Lương thò vào túi rút ra bức thư đã viết sẵn, nói :
- Thư này, lúc đưa cho Hán vương vào Bao Trung, tôi có hứa sẽ đi cầu giúp người về làm Phá Sở Ðại nguyên soái lấy cái giốc thư này làm bằng. Nếu ai cầm giốc thư này đến tất được trọng dụng ngay. Xin tướng quân cẩn thận chớ để thất lạc.
Hàn Tín tiếp lấy, và nói :
- Cám ơn Tiên sinh tiến cử. Song Sạn đạo đã bị đốt, còn lối nào vào Bao Trung được nữa ?
Trương Lương lại móc túi lấy ra bức họa đồ, giao cho Hàn Tín, và nói :
- Họa đồ này chỉ rõ đường ngang lối tắt, khe núi, chân đeo. Không cần đến Sạn đạo, muốn vào Bao Trung thì theo con đường nhỏ này đến ngã ba, rẽ vầo Trần Thươg qua chân núi Cô Vân, vòng sang núi Kê Ðầu rồi cứ băng theo lối ấy đi độ hai trăm dặm nữa là tới nơi. Sau này tướng quân kéo binh ra bình định Tam Tần tất cũng phải dùng nẻo ấy . Con đường này bí mật lắm , ngay người Hán Trung cũng không ai biết . Thôi, tôi xin giã biệt tướng quân .
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi :
- Tiên sinh định đâu ? Không trở lo việc nước sao ?
Trương Lương nói :
- Tôi còn đi dò xét tình hình xem nếu Bá vương dời đô về Bành Thành thì nhiệm vụ tôi còn phải đi du thuyết các chư hầu, khuyên họ bỏ Sở, phò Hán. Hễ chặt bớt được vây cánh của Sở, thì sau này tướng quân phá Sở mới dễ dàng .
Hàn Tín quyến luyến nói :
- Vậy thì mời Tiên sinh ở nán lại đây chơi với Tiểu tử ít hôm để xem cơ sự thế nào. Nay mai Tiểu tử cũng xin cử bộ .
Nhắc lại, Phạm Tăng từ lúc đến Bành Thành, vào yết kiến vua Nghĩa Ðế, và bắt buộc phải thiên đô.
Vua Nghĩa Ðế nói :
- Xưa nay vua ra lệnh cho bề tôi, có lẽ nào bề tôi lại bắt buộc vua. Ta lấy điều nghĩa, chiêu dụ chư hầu, bốn bề ngưỡng vọng , do đó, họ Hạng mới ìập được công lớn. Trước khi vào Hàm Dương, ta có lời ước :
- Ai vào Quan Trung trước thì làm vua . Thế mà Hạng Vũ bội ước xưng vương, tự tiện phong chức cho chưa hầu. Ðó là hành động khi quân, dẫm chân lên vết xe nhà Tần đã gãy đổ, cớ sao không biết thẹn ?
Phạm Tăng tâu :
- Tâu Bệ hạ, thần khổ tâm can gián, nhưng Hạng vương nhất định không nghe. Nay lại sai Quý Bá đến Bành Thành kiến đô, thần vì mệnh chủ không thể không tuân.
Nghĩa Ðế nói :
- Ngươi là quân sư của Hạng Vũ, Hạng Vũ làm sai, lẽ ra phải liều chết can ngăn, sao lại phải tòng mệnh ?
Ngươi chí là đứa tiểu nhân, dua nịnh , không phải là kẻ đại thần lấy đạo thờ vua.
Phạm Tăng hổ thẹn, không dám nói nữa, bái lạy lui ra , rồi viết thư về báo cho Bá vương biết.
Bá vương tiếp được thư, nổi giận, hét :
- Hoài vương chẳng qua là đứa chăn dê, cắt cỏ nơi thôn dã, được ta đem về lập lên làm vua, tôn làm Nghĩa Ðế . Nay đã không biết ơn ta lại còn lên mạt vênh váo, ta phải trừ đi mới được.
Bèn đòi Cửu giang vương là Anh Bố, Hoành sơn vương là Ngô Nhuế, Lâm giang vương là Cung Ngao đến nói :
- Các ngươi đem mấy chiến thuyền vào sông Ðại Giang mai phục, cho người đến bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô. Rồi đợi khi thuyền đến giữa sông, các ngươi giả cách làm nghiêng thuyền, nhận vua Nghĩa Ðế xuống sông và giết quách đi. Nếu có ai hỏi các ngươi nói : "Vua đi đến giữa sông gặp cơn phong ba chìm thuyền chết đuối".
Ba người lãnh mệnh, thu xếp ra đi. Bá vương viết một phong thư dâng vua Nghĩa Ðế .
Thư như sau :
" Sở Bá vương Hạng Vũ cúi đầu dâng biểu : Tôi, trước phụng mệnh vào đánh nhà Tần, đến Hàm Dưong . Tử Anh chịu trói, giao cả sơn hà xã tắc. Chiến thắng của tôi đã đưa Bệ hạ lên địa vị Nghĩa Ðế, làm chủ thiên hạ . Nay nhận thấy đất Bành Thành chật hẹp, không phải chổ Ðế đô, còn Mân Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam) bên tả có hồ Ðộng Ðình , bên hữu có hồ Bành Lãi, non xanh nước biếc, đáng làm chỗ để cho chư hầu tập trung đến chầu , vì vậy muốn thiên đô về đấy. Chẳng ngờ Bệ hạ lại nghe lời tiểu nhân không chìu theo ý . Thiết tưởng cơ nghiệp của Bệ hạ nhờ ai mà có , sao bệ hạ không nghĩ . Tiếp được biểu này xin Bệ hạ ngự giá đi ngay, chớ nên chậm trễ " .
Vua Hoài vương xem biểu xong, nói với bá quan :
- Hạng Vũ không giữ ước tất lòng đã phản phúc, không kể tôi thần gì nữa. Nay viết biểu gởi lên,! dùng lời bức bách nếu ta không liệu trước ắt mang tai vạ. Chi bằng chiều ý thiên đô cho xong.
Liền hạ lệnh cho bá quan chọn ngày khởi giá . Xa giá lên đường, dân chúng Bành Thành lũ lượt kéo đến bày hương án lạy đưa, tỏ lòng quyến luyến.
Vua Nghĩa Ðế thấy lòng dân như vậy cũng sa nước mắt, thở dài.
Một hôm, xa giá đến bờ sông, thuyền rồng đã sắp sẳn, vua bỏ đường bộ qua đường thủy, vưa đi đến giữa sông , bỗng có một con bạch ngư rất lớn, cản lại, sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền không vượt lên được thủy thủ phải neo thuyền. Ðược một lúc, gió càng mạnh, thổi đứt phăng dây neo, thuyền dạt vào bãi.
Ðêm ấy, vua vừa chợp mắt, thấy năm sắc tường vân sa xuống măt nước, hương thơm ngào ngạt, tiếng nhạc vang rền, có hai vị Kim Ðồng, Ngọc Nữ từ trên không sa xuống, bước vào thuyền quỳ tâu :
- Chúng tôi vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống rước Bệ hạ về Long cung tức vị. Hiện giờ bá quan đang chờ sẵn.
Hoài vương ngạc nhiên đáp :
- Không. Hôm nay trẫm thiên đô sang Mân Châu mà .
Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu :
Tâu Bệ hạ , vua Long cung phụng sắc mệnh Thượng đế , sửa sang cung điện, chờ đợi xe loan, xin Bệ hạ đi ngay cho .
Vua đáp :
- Long cung của Thủy Tề đâu phải côi trần gian ? Ta làm sao ngự trị được ?
Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu :
Thượng Ðế thương Bệ hạ là người có đức, lẽ ra cho làm Chúa trần gian, song vì hồng phúc của ông Xích Ðế lớn lắm, nên bắt Bệ hạ phải nhường ngôi ấy, xuống Long Cung giữ việc thủy phủ.
Hoài vương toan bước theo hai vị Thiên sứ, sực thấy nước lẫn với trời sóng gió ầm ầm, quang cảnh hỗn loạn , sợ hãi, giật mình thức dậy mới biết chiêm bao, liền gọi các quan hầu đến đoán mộng.
Có viên cận thần tâu :
- Ðã gặp cá đón đường, gió bạt thuyền trôi, bây giờ Bệ hạ lại chiêm bao như thế này thì không phải là điềm tốt .
Ngày mai xin Bệ hạ hồi loan rồi sẽ thương nghị.
Hoài vương nói :
- Xa giá đã khởi hành, đại tín đă truyền bá mà còn trở lại sao được ! Vả lại số trời đã định, không thể tránh !
Hôm sau, Hoài vương thức dậy truyền tiến hành.
Long thuyền đến giữa dòng thấy ba chiếc thuyền của Anh Bố, Ngô Nhuế, Cung Ngao vùn vụt kéo đến, chiêng trống vang trời. Anh Bố đứng trước mũi thuyền nói lớn :
- Chúng tôi phụng mệnh Hạng vương đến đây nghênh giá. Bệ hạ có đồ kim phù, ngọc sách xin để lại đây .
Hoài vương nổi giận mắng :
- Ðồ bất nghĩa ! Bây lại hùa theo Hạng Vũ làm phản à ?
Bọn Anh Bố cầm gươm nhảy qua Long thuyền, chém chết vài thủy thủ. Người trong thuyền khiếp vía .
Hoài vương cả tiếng mắng :
- Thằng giặc Hạng Vũ kia. Mày bất nghĩa như thế còn trời nào dung tha mày.
Nói xong, trầm mình xuống Tràng giang tự vận.
Bao nhiêu người nấp sau thuyền đều bị bọn Anh Bố giết hết.
Sau Hồ Tăng có thơ rằng :
Ngọn cờ lơ láo glữa Tràng giang
Nước mất, thân chìm cảnh thảm thương
Chín suối khôn tan màu lửa hận
Vầng trăng lả tả ánh thê lương
Giết xong Hoài vương, bọn Anh Bố quay thuyền trở lại thấy nơi bờ sông dân chúng kéo đến đông như kiến, trỏ vào mặt mắng :
- Thằng Anh Bố kia ? Mày nghe lời Hạng Vũ giết vua của thiên hạ, còn trời nào dung tha mày ? Chúng ta vì vua Nghĩa Ðế nhất định báo thù.
Anh Bố tức giận truyền quân áp thuyền vào bờ, nhưng gặp gió ngược, nên thuyền đi chậm. Khi đến nơi dân chúng đã di tản hết rồi .
Hồi 15
Tìm chân chúa, anh hùng cất bước
Giết tiều phu, tráng sĩ đau lòng
Trong số dân chúng ấy, có một ông lão tuổi ngoài tám mươi, tóc bạc da mồi, nhưng còn có vẻ quắc thước lắm. ông lão ấy tên Ðổng Công, học rộng, chuộng đạo đức, cả vùng ai cũng kính mến.
Ðổng Công bàn với dân chúng :
- Chúng ta chờ bọn Anh Bố đi rồi, tìm lấy xác vua làm lễ mai táng, rồi kéo sang Lạc Dương rước Hán vương về làm chủ để trả thù cho Chúa thượng.
Dân chúng đồng thanh hưởng ứng, và nói :
- Chúng tội xin theo lời lão công.
Nói xong, tụ họp hơn vài mươi chiếc thuyền, nhắm dòng hạ lưu tìm vớt xác của Hoài vơng đem lên, lập đàn ma chay cúng tế, mà mai táng Hoài vương nơi Mân Châu.
Giữa lúc đó, bọn Anh Bố đã trở về Bành Thành, gặp Phạm Tăng thuật lại đầu đuôi.
Phạm Tăng thở dài, nói :
- Thôi thế thì còn ra gì nữa ! Vua Nghĩa Ðế do tôi và Vũ Tín Quân lập lên để trấn an nhân tâm, nay giết đi mang tiếng trong thiên hạ, nếu còn dời đô về Bành Thành nữa sao khỏi thiên hạ chê cười. Chúng ta phải trở về Hàm Dương can ngăn việc thiên đô mới xong.
Quý Bá nói :
- Khi trước Hàn Sinh can gián, bị Bá vương giận bỏ vào vạc dầu, bây giờ ai còn dám ngăn cản nữa ?
Phạm Tăng nói :
- Không liều chết ngăn cản thì rồi đây chúng ta sẽ bị chết cả bọn.
Nói xong, lưu Quý Bá ở lại Bành Thành, còn bao nhiêu thảy đều về Hàm Dương, vào yết kiến Bá vương.
Bá vượng đang thu xếp hành trang, thôi thúc bá quan hạn trong bốn hôm nữa sẽ đăng trình, xảy được tin Phạm Tăng và Anh Bố trở về tâu việc giết vua Nghĩa Ðế .
Bá vương thích chí nói :
- Thế là ta đã trừ được cái bệnh trong gan phổi rồi.
Phạm Tăng tâu :
- Bệnh gan phổi của Bệ hạ không phải ở vua Nghĩa Ðế mà là ở Hán vương. Bệ hạ trừ được Hán vương mới gọi là chữa được bệnh. Ngày nay Bệ hạ dời đô về Bành Thành ngày mai Hán vương dời đô ra Hàm Dương đó.
Bá vương lắc đầu nói :
- Quân sư chớ lo. Ðường Sạn đạo đã đốt rồi, quân Tam Tần ráo riết phòng bị, dẫu Hán vương có cánh cũng không thoát ra khỏi đất Ba Thục được.
Phạm Tăng tâu :
- Nếu Bệ hạ dời đô về Bành Thành tất Tam Tần trễ biếng, Hán vương thừa cơ hội ấy tấn binh. Ðường Sạn đạo đã đốt nhưng lòng người đã quyết, việc sửa chữa chẳng mấy chốc.
Bá vương tỏ vẻ bất bình nói :
- Hiệu lệnh đã ban, văn vũ đã chuẩn bị chỉnh tề, không thể sửa đổi được nữa. Quân sư chớ nói nhiều lời.
Phạm Tăng thấy Bá vương không nghe lời mình, hổ thẹn bước ra buồn bã sắp sửa hành trang để cùng các quan theo hộ giá.
Nhắc lại Hàn Tín từ khi tiễn chân Trương Lương đi rồi lòng hồi hộp, mấy đêm không ngủ được, lo chuẩn bị hành trang lên đường.
Trước khi ra đi, Hàm Tín ghé nhà Trần Bình thăm viếng.
Trần Bình thảy Hàn Tín đến, mừng rỡ đón chào và hỏi :
- Chấp kích lang sang chơi chắc có chuyện lạ ! Hay là cá sắp hóa rồng, rồng toan vượt bể ?
Hàn Tín biết Trần Bình không ưa gì Bá vơng, tìm lời nói thử :
- Bá vương dời đô về Bành Thành tất Hán vương thôn tính Tam Tần. Ðất Hàm Dương nầy e không giữ được . Ðô úy nghĩ sao ?
Trần Bình đáp :
- Bá vương lấy uy vũ hàm gốc, nấu Hàn Sinh, giết Nghĩa Ðế, lại thiên đô về Bành Thành, tôi tưởng cơ nghiệp không thể nào yên được. Trong chư hầu, chỉ có Hán vương là người đại lượng, có thể mưu đồ việc lớn.
Chấp kích lang ở đây không ra gì, sao không tìm nơi khác tiến thân, tội gì sống trong khổ cực ?
Hàn Tín đưa mắt nhìn quanh rồi nói nhỏ :
- Tôi có ý đó đã lâu, không dám giấu Ðô úy, ngặt vì quan san cách trở, đồn ải canh phòng rất nghiêm, không có giấy thông hành không thể nào đi lọt.
Trần Bình thở dài nói :
- Việc ấy không khó . Trong dinh tôi có văn thư ấn tín tôi sẽ cấp cho một đạo thông hành, có thể tự do đi lại. Nếu đồn ải nào hỏi thì cứ nói rằng : "Bá vương sai vào Bao Trung thám thính".
Hàn Tín đứng dậy nói :
- Ða tạ Ðô úy. Ngài cho Tín tôi mảnh giấy nầy thực quý hơn ngàn vàng. Nếu Tín tôi gặp thời, đạt danh vọng, nguyện không quên ơn tri ngộ.
Trần Bình nói :
- Ngài cứ an tâm, lập chí. Sau nầy tôi cũng phải tìm chỗ dung thân, chừng ấy ngài ra ơn tiến cử tôi thì còn gì quý hơn.
Hàn Tín lãnh giấy thông hành, từ giã về dinh. Tối hôm ấy dặn bọn gia nhân :
- Ta bận việc đi thăm người bạn, chúng bây ở nhà phải canh phòng cẩn mật. Nói xong, lên ngựa ra đi. Vó câu khấp khểnh vầng trăng chênh chếch mái đầu. Anh hùng yên ngựa đâu quản gió sương, bóng Hàm Dương khuất dần sau những rặng núi đen sì, giữa những màn sương lạnh.
Hàn Tín ra đi đã hai hôm thế mà tuyệt nhiên không ai hay biết.
Bọn gia nhân thấy Hàn Tín không về, bàn với nhau :
- Quan Chấp kích lang đi đâu không về, chúng ta phái vào báo cho quân sư kẻo mang vạ.
Chúng kéo đến dinh Phạm Tăng, bẩm :
- Chúng con là gia nhân ở dinh quan Chấp kích lang. Cách đây vài hôm có người khách lạ đến chơi, cùng với quan Chấp kích lang đàm đạo, cách đó mấy hôm, quan Chấp kích lang lại đi biệt không về. Vì vậy, chúng con đến đây cấp báo.
Phạm Tăng thất kinh, dậm chân, thở dài than :
- Thôi ! Cọp đã vào rừng rồi ! Ta còn mong gì mưu việc thiên hạ. Trước đây ta đã tâu xin Bá vương một là dùng, hai là giết, thế mà Bá vương không nghe, nay còn hối sao kịp.
Nói xong, vội vã vào triều, tâu với Bá vương :
- Hàn Tín trốn rồi, bệ hạ phải cho người đuổi theo bắt lại, nếu không, nghiệp cả khó bền.
Bá vương giận dữ, vỗ án hét :
- Ðứa thất phu ấy lại dám bỏ ta mà đi ư ?
Phạm Tăng nói :
- Hàn Tín là kẻ kiến thức, có thể giúp Bệ hạ làm nên đại sự, thế mà Bệ hạ đã không dùng, còn để cho hắn trốn, thất là bất lợi.
Bá vương nói :
- Nó không có thông hành thì làm thế nào ra khỏi Quan Trung được ?
Liền gọi Chung Ly Muội đến bảo :
- Ngươi dẫn hai trăm quân khinh kỵ , đuổi theo bắt Hàn Tín về đây, bầm thây làm gương cho kẻ khác.
Chung Ly Muội lĩnh lệnh dẫn quân đến cửa quan An Bình thì được tin Hàn Tín đã qua khỏi cửa quan hai hôm rồi.
Chung Ly Muội trách cứ quan Tổng Trấn. Quan Tổng trấn nói :
Hàn Tín hiện có văn thư , ấn tín rõ ràng, nói là Bá vương sai đi hội Tam Tần bàn việc khẩn cấp. Tôi làm sao dám ngăn cản ?
Chung ly Muội nói :
- Bây giờ quan Tổng trấn liệu có cách gì bắt Hàn Tín lại chăng ?
Quan Tổng trấn lắc đầu, đáp :
- Tướng quân khó mà theo kịp. Bây giờ chỉ có cách phi báo cho Tam Tần mang quân truy mã, may ra mới bắt được
Chung Ly Muội nghe lời, phi hịch cho Tam Tần, khiến truy nã rất gấp, rồi trở về Hàm Dương tâu lại với Bá vương.
Bá vương , nói :
- Ðứa thất phu ấy, dẫu có đi đâu lại làm nên trò trống gì mà ta phải bận tâm .
Tức truyền lệnh cho bá quan văn võ sắp sửa xe ngựa thiên đô đến Bành Thành. Chỉ để Tnmg Công ở lại giữ Hàm Dương mà thôi.
Nhắc lại Hàn Tín từ khi thoát ra khỏi cửa An Bình, thẳng tới Tản Quan, đến một ngã ba kia đường chật hẹp, ngoằn ngoèo, liền giở bản đồ ra xem, tìm lối tắt vào Bao Tnmg.
Bỗng có một viên tiểu tướng tay cầm hỏa bài, xông ngựa tới hỏi :
- Người kia ! Ði đâu ? Có giấy thông hành chăng ?
Hàn Tín xem qua, biết là người của Tam Tần, sai đi lùng bắt mình, liền giả cách nói :
- Tôi họ Lý, hiện có việc sang Bao trung, giấy thông hành có ghi rõ.
Nói xong, rút giấy thông hành trao cho viên tiểu tướng.
Viên tiểu tướng khúm núm giở ra xem, Hàn Tín thừa cơ rút thanh bảo kiếm đeo trong lưng, chém phăng một nhát, tiểu tướng rơi đầu.
Hàn Tín vội vã. buồng cương thượng lộ: Ði chưa bao xa, lại có bốn tráng sĩ đuổi theo bắt. Hàn Tín cũng theo cách ấy, cho mỗi người một nhát gươm đưa hồn về địa phủ. Ðoạn, quay ngựa nhắm hướng Tây mà chạy. Chay được một lúc Hàn Tín nghĩ thầm :
- Ta vừa giết mấy tên hỏa bài của Tam Tần, nếu cứ đường này thẳng tiến, e họ đuổi theo bắt gặp.
Liền rẽ cương sang một con đường hẻm về hướng Tây Nam.
Con đường này chung quanh núi rừng mù mịt, suối reo, đá dựng, không làm sao cưỡi ngựa được, con đường bị nghẽn, không còn lối nào sang đò Trần Thương được Hàn Tín buồn bã, lơ láo đứng nhìn bốn mặt, đâu đâu cũng rừng núi chập chùng.
Tình cờ gặp một tên phu, đang kẽo kẹt trên vai một gánh củi nặng, mò mẫm qua triền núi. Hàn Tín mừng rỡ, hỏi vội :
- Thưa lão trượng làm ơn chỉ dúm cho tiểu tử đường ra Trần Thương.
Lão tiều nghe hỏi, để gánh củi xuống, chỉ tay về phía trước, nói :
- Cứ dắt ngựa băng rừng đi tới sang rặng núi đá bên kia đến rừng Tiểu Tùng. Ði hết rừng ấy là đến khe Loan Thạch, trên khe có cầu đá, đi khỏi cầu đá thì có núi Nga Mi, phải trèo qua núi ấy mới có lối đi, nhưng phải khó khăn lắm. Ði một quãng nữa đến núi Thái Bạch, dưới chân núi có hàng cơm phải trọ lại đấy dùng cơm tối, sáng sớm mới lên đường. Hỏi lối sang núi Cô Vân đến núi Lưỡng Cước, sang đò Bắc Thủy, tới bến Hàng Khê. Ðấy là địa phận Nam Chính rồi. Nhưng nhớ phải đi đến nơi trọ trước trời tối, vì vùng núi ấy có con mãng xà rất nguy hiểm, ông phải cẩn thận lắm mới tránh được tai nạn.
Hàn Tín giở bản đồ ra xem, thấy không sai một nét nào cả. Hàn Tín cảm ơn lão tiều lên đường cất bước, giữa lúc ấy lão tiều cũng ì ạch gánh củi tên vai, xuống núi.
Hàn Tín vừa đi vừa nghĩ :
- Nếu Chương Hàm cho người truy nã, theo chân mình đến ngã ba gặp lão tiều này, và lão tiều lại chỉ đường như vậy thì mạng ta khó thoát. Vả chăng, mấy hôm nay ta lặn suối, trèo non người mỏi.ngựa mệt, vô phúc mà gặp truy binh, đành phải bó tay chịu chết, chứ chống cự sao nổi ! Thôi, thà ta chịu tiếng vong ân giết lão tiều phu này đi, để tuyệt lộ truy binh.
Nghĩ rồi liền quay ngựa lại gọi :
- Hời lão tiều, xin lão dừng chân cho tôi hỏi thêm điều này nữa.
Tiều phu nghe gọi, quay gánh lại. Hàn Tín bước đến chém một gươm đứt làm đôi, rồi mang xác đem vùi nơi sườn núi.
Nhìn nấm mồ oan, Hàn Tín rơi lệ, than :
- Lão tiều hỡi ! Tín không phải là phường bất nhân, bạc nghĩa, chỉ vì sợ lỡ việc lớn, đành Phải hy sinh mạng lão . Mai sau Tín này được thành thân, xin đến đây làm lễ hộ tang, lập đền thờ cúng. Hồn lão có linh thiêng xin phò hộ bước bôn đào của Tín này.
Xác tiều phu đã vùi kín, Hàn Tín lên nglra, gạt lệ bôn hành.
Người sau có thơ rằng :
Kiếm báu trao tay chửa giết thù
Giết người.ân nghĩa : lão tiều phu
Hàn quân vì muốn mưu thiên hạ
Sao nỡ đem ân đáp nghĩa thù
Hàn Tín theo lời dặn của lão tiều, băng qua núi đá, sang rừng Tiểu tùng, đến khe Loan Thạch, và vất vả mấy ngày mới tới núi Thái Bạch. Dưới núi có hàng cơm, Hàn Tín xuống ngựa bước vào, gọi chủ quán đem rượu thịt ra ăn.
Rượu nồng hơi ấm, rừng núi u buồn, xa xa lơ thơ vài vầng mấy bạc lồng bóng xuống khe sâu, bơ vơ như bước chân dũng sĩ chưa định hướng, Hàn Tín thở dài, chợt nghĩ đến cái chết của tiều phu vừa rồi, bất giác ngâm một bài thơ, rồi sẵn dịp mượn bút mực để lên vách đá. Thơ rằng :
Dần bước đỉnh non cao
Gặp ghềnh theo lối nhỏ
Mây nghiêng mái trời xanh
Suối tuôn ghềnh sỏi đỏ
Ngoắt ngoéo đến muôn trùng
Gớm thay ! Thật hiểm trở !
Rừng thẳm càng đi sâu
Càng đến nơi tuyệt lộ !
Trời xui gặp lão tiều
Chỉ đường đi rất rõ
Ân đức biết chừng nào ?
Nghìn vàng chưa báo bổ !
Ta vì lòng lo riêng
Sợ quân theo truy nã
Sức yếu và thế cô
Vào lưới không thể gỡ !
Cắn răng rút gươm thiêng
Giết Tiều, vùi xuống hố!
Hỡi ơi Lão tiều phu
Linh thiêng xin phù hộ
Ta há bạc tình chi
Chỉ lo, về hậu lộ
Lão sống chỉ vào rừng
Suốt đời thêm cực khổ !
Ta sống để mai này
Ðem thân đi diệt Sở
Sở diệt, thiên hạ yên
Muôn dân khỏi thống khổ
Ấy vậy kẻ vong tình
Xin lão chớ oán nộ !
Mai sau được thành công
Quyệt lòng đền báo bổ
Con lão ta xin nuôi
Phú quý chung hưởng thọ
Vành trăng lả lướt soi
Chập chùng mây mờ tỏ
Hồn lão đến đây chăng ?
Chứng minh lòng ta đó !
Hàn Tín đề thơ xong, ngồi gật gù đánh chén, ngâm đi ngâm lại bài thơ mãi không thôi. Thình linh, bên ngoài có một tráng sĩ, vung kiếm xông vào, xem qua bài thơ một lượt rồi quay lại hỏi Hàn Tín.
- Anh này muốn chết sao ? Ðã bỏ Sở bôn đào vào đây thế mà còn dám giết người dọc đường, đề thơ lên vách ! Nếu tôi bắt anh đem nạp cho Bá vương thì anh liệu làm sao ?
Hàn Tín thất kinh, đẩy ly rượu sang một bên, đứng dậy nói :
- Nếu tôi không lầm, tráng sĩ là người Bao Trung, làm dân nước Hán, cớ sao lại có ý ấy ?
Tráng sĩ cười lớn, kéo Hàn Tín ngồi xuống ghế, nói :
- Tôi nói đùa đấy, xin Tướng quân hỷ xả cho. Tôi vốn họ Tân tên Kỳ, người Phú Phong, mấy năm nay vì lánh nạn nhà Tần nên theo cha tôi là Tân Kim, đến đây mở hàng cơm độ nhật. Từ thuở bé, tánh ưa cung kiếm, nên mải ham mê săn bắn, chưa nghĩ đến việc tiến thân, lập nghiệp. Ðêm vừa rồi, tôi nằm chiêm bao, thấy một con hổ từ đỉnh núi cao nơi phương Ðông chạy đến, nằm trên đám cỏ. Với giấc mộng ấy, tôi đoán chắc hôm nay thế nào cũng gặp được quý nhân. Vì vậy suốt ngày tôi ở nhà chờ tiếp đón.
Hàn Tín nghe nói mừng rỡ đứng dậy cầm tay Tân Kỳ, cùng ngồi chung bàn đấu chén. .
Rượu ngà ngà say, Hàn Tín nói :
- Tôi xem tráng sĩ không phải là kẻ giá áo, túi cơm. Nay thiên hạ đang loạn lạc, Hán vương chiêu hiền đãi sĩ, sao tráng sĩ không bái yết, đoạt ấn phong hầu, để thỏa lòng hào kiệt ?
Tân Kỳ nói :
- Tôi có ý ấy đã ìâu, song nghĩ rằng Hán vương muốn thâu thiên hạ tất phải đem quân dẹp Tam Tần. Mà dẹp Tam Tần không có con đường nào khác hơn là đường ra núi Thái Bạch này. Vậy xin Tướng quân vào trước, lúc nào Tướng quân đem binh ra đây tôi sẽ vin tháp tùng vậy.
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi .
- Ðường ra Tam Tần không còn đường nào khác hơn sao ?
Tân Kỳ nói :
- Xưa nay chỉ theo đường Sạn đạo. Bây giờ Sạn đạo đã bị đốt rồi, người Sở cũng như người Tần, không ai biết con đường này cả. Nếu quân Hán theo con đường này kéo ra, xuất kỳ bất ý đánh một trận, tất Tam Tần phải mất.
Hàn Tín nói :
- Tráng sĩ quả là kẻ kiến thức. Nhưng, xin chớ lộ việc này với ai. Lúc tôi đem binh diệt Tần sẽ nhờ tráng sĩ làm hướng đạo .
Tân Kỳ mời Hàn Tin vào nhà trong, gọi mẹ và vợ ra giới thiệu. Cả nhà vui vẻ.
Hàn Tín và Tân Kỳ kết, làm anh em. Ðêm ấy cả hai ngủ chung giường, và mờ sáng, Hàn Tín giã biệt.
Tân Kỳ nói :
- Phía trước là núi Cô Vân, núi Lưỡng Cước, đường sá hiểm trở, lại có con mãng xà rất lớn. Khách đi đường không khéo sẽ nguy đến tính mệnh. Vậy tôi xin đưa Tướng quân đến bến Hàn Khê rồi sẽ trở về.
Hàn Tín từ chối, nói :
- Thôi xin cám ơn hiền đệ, làm như thế quá phiền phức.
Tân Kỳ nhất định không nghe, gọi gia nhân đến dặn :
- Chúng bây ở nhà trông nom quán hàng, khoản đãi khách khứa. Ta đi tiễn Hàn tướng quân vài hôm sẽ về.
Dứt lời, cầm một ngọn giáo, đeo một túi cung, theo Hàn Tín ra đi.
Không có gì vui vẻ hơn khi đường xa được người tri ngộ . Hai người trao đổi tâm tình, quên cả đường xa mệt nhọc Chẳng bao lâu đã đến bến Hàn Khê.
Tân Kỳ chỉ tay ra phía trước nói :
- Ở đây chỉ còn cách Bao Trung chừng vài dặm. Vậy tiểu đệ xin trở bước.
Hàn Tín bùi ngùi cầm tay nói :
- Chúng ta hẹn ngày tái ngộ, và ngày ấy sẽ là ngày thanh gươm yên ngựa, đem sức tài thị thố giữa ba quân.
Xưa nay, những cảnh tương biệt bao giờ cũng đeo sầu, và có bịn rịn đến đâu cũng phải đến phút giây dứt bỏ.
Hàn Tín lên ngựa ra roi, vó câu khấp khểnh. Tân Kỳ đứng nhìn theo một lúc, rồi quay lại đường cũ trở về chân núi
Thái Bạch.