watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:16:4926/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Lịch Sử > Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục-Chương 1-4 - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục-Chương 1-4
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 9
Theo Đường thư , Hàn Ước là người có chí dũng quyết, lõm bõm sử sách, có tài hành chính; trước đã làm thứ sử Kiền Châu. Đến khi Thăng Triều làm phản, Hàn Ước lĩnh chức An Nam đô hộ, đánh dẹp yên, Thăng Triều bị giết. Sau, quân phủ đô hộ nổi loạn, Hàn Ước bị đuổi, chạy về Quảng Châu.
Lời chua - Hàn Ước: Theo truyện Vương Phan trong Đường thư , Hàn Ước người Vũ Lăng thuộc Lãng Châu, tiến thân bằng tiền và thóc174 .
Năm Bính Thìn (836). (Đường, năm Khai Thành thứ 1).
Nhà Đường dùng Mã Thực làm đô hộ.
Theo Đường thư, hồi đầu năm Khai Thành -4, Mã Thực làm An Nam đô hộ, là người giỏi việc hành chính, cách ăn ở văn nã, làm việc quan thanh liêm trong sạch, không phiền nhiễu, dân các động đều được yên ổn. Thủ lĩnh các châu cơ mi175 đầu thần phục, xin chịu theo khuôn phép về việc thuế má. Năm Khai Thành thứ ba (838), Mã Thực tâu xin đổi huyện Vũ Lục, làm châu Vũ Lục, kén người thủ lĩnh ở đấy cho làm thứ sử. Vua Đường y theo lời xin ấy. Nhưng rồi ra lại bỏ, không đặt làm châu nữa. Lúc ấy có điềm: một cái ao trước vẫn sản ngọc châu, rồi một dạo tự nhiên mất đi, nay trong cái ao ấy lại sinh sản ngọc châu như cũ. Vì Mã Thực là viên quan có chính tích trội nhất nên được thăng làm quan sát sứ ở Kiềm Trung.
Lời cẩn án - Theo Liệt truyện trong Đường thư, Mã Thực làm đô hộ, chính sự trong sạch, dân các động được yên. Hạt châu ở ao lại sinh sản như xưa: đó là tiết thanh bạch cảm đến cả loài vật. Sách Thanh nhất thống chí liệt tên Mã Thực vào hàng các quan có tiếng ở An Nam, cùng với Triệu Xương, Vương Thức đều xứng đáng là những người trội nhất trong đám thú lệnh. Lại theo Địa lý chí trong Đường thư, năm Khai Thành thứ ba (838), Mã Thực dâng biêu xin đặt châu Vũ Lục. Việc ấy có chứng cứ rõ àng, thế mà Sử cũ bỏ sót không chép, chỉ chép "Thuộc Đường, năm Hội Xương thứ nhất (841), Vũ Hồn thay Hàn Ước làm kinh lược sứ". Nay xét Đường thư Bản kỷ, đời Văn Tông, năm Thái Hòa thứ ba (829), Ước bị quân nổi loạn đuổi. Kể từ năm Thái Hòa thứ hai (828) đến năm Hội Xương thứ nhất (841), trong khoảng đó còn có niên hiệu Khai Thành -4 gồm 5 năm phải còn có Mã Thực làm đô hộ. Vậy thì Vũ Hồn kế chân Mã Thực, chứ không phải thay chân Hàn Ước. Nay theo Đường thư, xin bổ chính để nêu rõ người thú mục tốt và chữa chỗ sai lầm. Lời chua - Mã Thực: Theo truyện Mã Thực , Thực là người Phù Phong, đậu tiến sĩ, lại đậu khoa chế sách.
Cơ mi: Theo Địa lý chí trong Đường thư , Thái Tông nhà Đường, sau khi bình định các Phiên Quốc176 thì Man Di các nơi dần dần nội thuộc, lúc ấy nhà Đường lấy ngay các bộ lạc của họ đặt thành châu, huyện, dùng người thủ lĩnh bộ lạc làm đô đốc, làm thứ sử, họ đều được cha truyền con nối, gọi là "cơ mi". Theo sách Cương mục tập lãm dẫn thiên Hán quan nghi nói rằng: (đồ vật làm đầu) ngựa gọi là cơ , (đồ vật dàm hai má) trâu gọi là mi . Ý nói kiềm chế các rợ mọi (tứ di) phải lỏng lẻo như đem buộc "cơ", "mi" cho loài trâu ngựa.
Vũ Lục châu: Tên một châu cơ mi, nay không biết ở đâu.
Trì châu: Theo Hán Thư , khi Mạnh Thường làm Thái thú Hợp Phố, hạt châu (ngọc trai) đã mất đi ở Hợp Phố, lại thấy trở lại. Trong Thanh Nhất thống chí có chép
"Châu trì" (hồ sản hạt trai) ở phía đông nam huyện Hợp Phố, là nơi người trong quận đến mò hạt châu.
Năm Tân Dậu (841). (Đường, Vũ Tông, năm Hội Xương thứ 1).
Nhà Đường dùng Vũ Hồn làm Kinh lược sứ.
Vũ Hồn đến nơi, bắt tướng sĩ sửa phủ thành; quân lính ở phủ Đô Hộ lại khởi loạn, đốt lầu thành, cướp kho đạn. Vũ Hồn phải chạy về Quảng Châu. Viên giám quân là Đoàn Sĩ Tắc dẹp yên đám quân lính làm loạn, Giao Châu mới được yên.
Năm Bính Dần (846). (Đường, năm Hội Xương thứ 6).
Tháng 9, mùa thu. Quân Man Nam Chiếu vào lấn cướp. Kinh lược sứ Bùi Nguyên Dụ đem quân các đạo đánh bại được địch.
Lời chua - Đường thư Bản kỷ chép là "tháng 9 năm Hội Xương thứ 6", Sử cũ chép sai là tháng 7, mùa thu.
Nam Chiếu , theo Lời chua của sách Cương mục (Trung Quốc), gốc tích người Nam Chiếu vốn là giống Man Di ở Ai Lao. Vị trí ở phía tây Diêu Châu. Theo Địa lý chí trong Đường thư , Nam Chiếu ở quận Vân Nam thuộc Diêu Châu, phía đông nam giáp Giao Chỉ, phía tây bắc giáp Thổ Phồn. Tiếng Man gọi vua là Chiếu. Trước kia có 6 Chiếu, Tức là: Mông Tuấn, Việt Tích, Lãng Khung, Đăng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá. Mông Xá ở mãi về phía nam, nên gọi là Nam Chiếu. Đến năm Khai Nguyên -28 nhà Đường Nam Chiếu dưới đời Bì La Cáp, mỗi ngày một mạnh lớn thêm lên, còn năm Chiếu kia thì suy yếu đi. Lúc đó, Bì La Cáp mới lấy tiền của đút lót cho tiết độ sứ Kiếm Nam là Vương Dục, xin hợp 6 đất Chiếu làm một. Triều đình ưng theo và đặt tên cho là Quy Nghĩa. Từ bấy giờ chúng mới lấy vũ lực phục được các Man khác, phá được Thổ Phồn, dời sang ở thành Thái Hòa, thành ra sau này Nam Chiếu làm mối lo cho miền biên giới. Theo Đường thư, truyện Nam Chiếu, Nam Chiếu từ năm Khai Nguyên -28, Bì La Cáp hợp 6 Chiếu làm một, truyền mãi đến con Phong Hựu là Từ Long, năm Hàm Thông thứ I (860), tiếm xưng đế, đặt niên hiệu là Kiến Cực, gọi tên nước là Đại Lễ, thường sang lấn cướp Giao Châu, bị Cao Biền đánh, thua chạy về nước.
Năm Đinh Sụu (857). (Đường, Tuyên Tông, năm Đại Trung thứ 11).
Tháng 4, mùa hạ. Nhà Đường dùng Chu Nhai làm kinh lược sứ.
Khi bấy giờ ở Giao Châu thường hay có giặc cướp ở nơi biên giới, Chu Nhai đang làm hữu can ngưu vệ đại tướng quân, đổi sang làm kinh lược sứ, không bao lâu lại về Quảng Châu.
Năm Mậu Dần (858). (Đường, năm Đại Trung thứ 12).
Tháng giêng, mùa xuân. Nhà Đường dùng Vương Thức làm kinh lược đô hộ sứ.
Theo Đường thư , Vương Thức đang làm thứ sử Tấn Câu, vì có tiếng giỏi, được thăng làm An Nam đô hộ: Người làm đô hộ trước, gặp lúc đang đại hạn, ruộng bị khô, lại làm lũy gỗ177 (để ngăn ngừa giặc cướp), bắt dân hàng năm nộp tiền. Đã không làm hoàn thành cho kịp thời, lại hạch sách và bắt dân đóng góp rất gắt gao! Đến khi Vương Thức sang làm đô hộ, Thức trích lấy tiền thuế một năm mua cây táo gai (cức mộc)178 , ken làm lũy suốt 12 dặm, bãi bỏ thuế ngoại phụ hàng năm để nhẹ cho thường dân; lại đào hào, rào lũy, ngoài trồng tre gai, giặc cướp không thể vào được. Sau, quân Man cướp Cẩm Điền bộ, Vương Thức sai người dịch lời mình hiểu dụ họ, một đêm kia quân Man kéo đi, sai người đến tạ rằng: "Chúng tôi tự đến bắt quân Lạo làm phản, chứ không phải làm giặc đâu".
Theo Cương mục (Trung Quốc), Vương Thức là người có tài năng và mưu lược, khi mới đến phủ, thấy đô hiệu là La Hành Cung đã từ lâu vẫn chuyên giữ chính quyền, số quân tinh nhuệ dưới cờ chỉ huy của hắn có tới hai nghìn người, còn quân của phủ đô hộ chỉ có mấy trăm người gầy yếu. Vương Thức đến nơi đem Hành Cung ra phạt trượng và cách thức.
Lời chua - Vương Thức: theo truyện Vương Bá trong Đường thư , Vương Thức người đất Thái Nguyên, đậu khoa hiền lương phương chính179 khoảng giữa niên hiệu Đại Trung -12, làm thứ sử Tấn Châu, cứu sống được mấy nghìn dân xiêu giạt, vì thế nổi tiếng được thăng làm đô hộ An Nam.
Cức mộc: Tên một thứ cây, dùng làm lũy, bền được vài mươi năm. Theo lời chua trong Cương mục180 , khoảng giữa niên hiệu Vĩnh Lạc -21 đời Minh, thượng thư Trần Hiệp, khi ở Giao Chỉ tìm được sách An Nam chí (có chép) Vương Thức đời Đường trồng cây táo gai làm chiến hào chìm181 , xung quanh hào trồng tre gai, giặc cướp không xâm phạm được. Nay ở Giao Chỉ có cây táo gai.
Cầm Điền: Chưa biết rõ ở đâu.
Bộ: Tức là bến đò; Cẩm điền bộ tức là bến đò Cẩm Điền. Theo sách Thanh Xương tạp ký , ở Lĩnh Nam gọi Tân (bến sông) là Bộ.
Tháng 5, mùa hạ. Quân Thổ man đến lấn cướp. Vương Thức đánh lùi được địch.
Theo truyện Nam Chiếu trong Đường thư , trước kia Lý Trác làm kinh lược sứ, khắc nghiệt tham ô, tự tư tự lợi, cứ mỗi đấu muối đổi lấy một con trâu, người Man Di không chịu nổi. Họ liên kết với tướng Nam Chiếu là Đoàn Tù Thiên cướp phủ đô hộ. Họ tự xưng là Bạch Y một mệnh quân (Quân Áo trắng liều mạng). Lý Trác lại giết tù trưởng người Man là Đỗ Tồn Thành; dân chúng Thổ Man đều oán giận, dắt người Nam Chiếu vào cướp vùng biên giới. Vì thế Giao Châu mới xảy ra mối lo ở biên cương; đến đây người Man lại vào cướp. Vương Thức đánh lui được quân Man.
Tháng 7, mùa thu. Dân Giao Châu nổi loạn, vây phủ thành Vương Thức bắt giết dân nổi loạn.
Theo sách An Nam kỷ yếu , khi bấy giờ có gian dân182 họp nhau làm loạn. Nhân ban đêm, họ đánh trống reo hò, kéo đến vây thành, phao đồn là quan kinh lược sứ Chu Nhai sai đạo binh dưới cờ là Hoàng đầu quân183 vượt biển sang đánh úp, xin đưa quan đô hộ184 về Bắc (Trung Quốc). Nay ta đến đóng ở thành này để chống lại với Hoàng đầu quân từ Bắc phương kéo sang. Vương Thức đang ăn cơm; có người khuyên nên lánh đi. Vương Thức trả lời: "Ta nếu dời chân một chút thì thành này vỡ ngay". Vương Thức cứ ngồi ăn thong thả đến xong bữa. Đoạn, Vương Thức đóng áo giáp, đem những kẻ tả hữu lên thành,
kéo cờ đại tướng, ngồi đấy quở trách dân nổi loạn, thì chúng trở tan chạy. Ngay hôm sau Vương Thức cho bắt và giết hết.
Giao Châu bấy giờ luôn luôn đói kém và loạn lạc, đến nỗi hàng 6 năm không có thuế nộp lên trên, trong quân lính không có khi nào khao thưởng. Vương Thức mới sửa lễ cống, khao các quân sĩ. Từ đấy các nước Chiêm Thành, Chân Lạp đều sai sứ đi lại và trả lại những dân đã cướp đi từ trước.
Lời chua - Hoàng đầu quân: Theo Đường thư , lính thú đóng ở Trung Vũ mặc áo cánh rộng vạt ngắn đầu đội khăn vàng, nên phương nam gọi là Hoàng đầu quân, đó là tứ lính tinh nhuệ trong nước. Lúc đó kinh lược sứ là Chu Nhai đã về Quảng Châu, nên đám dân nổi loạn phao đồn như vậy.
Chiêm Thành: Tức là Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb.3, 20).
Chân Lạp: Tên nước, ở về phía nam Lâm Ấp. Theo Đường thư , Chân Lạp còn có tên là Cát Miệt (Khơ Me). Chân Lạp vốn xưa là thuộc quốc của Phù Nam, sau năm Thần Long -1 đời Đường, chia làm hai: nửa về phía bắc có nhiều gò núi, gọi là Lục Chân Lạp, tức nay là Cao Miên; nửa ở về phía nam liền biển, nhiều hồ, nhiều chằm, nên gọi là Thủy Chân Lạp, nay là sáu tỉnh Nam Kỳ185 .
Năm Canh Thìn (860). (Đường, Ý Tông, năm Hàm Thông thứ 1). Tháng 3, mùa xuân. Nhà Đường cho Lý Hộ sang làm đô hộ.
Theo Cương mục (Trung Quốc), giặc ở Chiết Đông là Cửu Phủ làm loạn, vua Đường bàn với các quan kén tướng đi đánh, Hạ Hầu Ti nói: "Vương Thức, con nhà nho, trước làm quan ở An Nam, đã có công, có thể dùng được". Vì thế mới vời Vương Thức cho làm Quan sát sứ Chiết Đông, dùng Lý Hộ sang thay Vương Thức làm Đô hộ.
Tháng 12, mùa đông. Nam Chiếu đánh phá phủ thành, Đô hộ Lý Hộ bỏ châu lỵ chạy.
Theo sách Thông giám, khi Lý Hộ mới đến Đô hộ phủ, giết người tù trưởng dân Man là Đỗ Thủ Trừng. Đồng đảng của Thủ Trừng mới xui người Nam Chiếu đánh phá phủ thành, Lý Hộ chạy về Vũ Châu.
Năm Tân Tị (861). (Đường, năm Hàm Thông thứ 2).
Tháng 6, mùa hạ. Nhà Đường dùng Vương Khoan làm Kinh lược sứ.
Lý Hộ bị thua, nhà Đường đem quân Ung quản và quân các đạo lân cận sang cứu.
Theo sách Thông giám, Lý Hộ từ Vũ Châu tập hợp lính thổ, kéo về đánh các quân Man, lấy lại được châu thành. Vua Đường trách Lý Hộ về tội bỏ thành trì, giáng chức cho làm tư hộ Đam Châu. Sau đó vua Đường cho rằng họ Đỗ của Thủ Trừng hãy còn mạnh lắm, cốt sao nhuế nhóa để mong thu dùng được họ, bèn cho Tồn Thành, cha Thủ Trừng, làm Kim ngô tướng qân. Vua Đường lại quở trách Lý Hộ về tội giết Thủ Trừng, liền đày đi Nhai Châu một thời hạn, lâu dùng phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan sang thay Lý Hộ.
Lời chua - Ung Quản: Tức là Ung Châu một khu vực hành chính do nhà Đường đặt. Theo sách Cương mục tập lãm , quản cũng như phủ.
Đam Châu: Tức là Đam Nhĩ, đời Đường thuộc về đạo Lĩnh Nam. Xem: Triệu Thuật Dương vương, năm Kiến Đức thứ nhất -6.
Đây trở lên, từ năm Tân Dậu, thuộc nhà Lương, niên hiệu Đại Đồng thứ 7, đến năm Tân Tỵ thuộc nhà Đường, niên hiệu Hàm Thông thứ 2, cộng ba trăm hai mươi mốt năm -320.
Chú thích:
136 Chức quan đứng đầu một bộ được đặt ra từ thời Hán. Thời kỳ đầu Thượng thư còn gọi là Tào.
137 Một chức quan trông coi cổng thành ở thời nhà Lương. Quảng Dương môn lang là canh gác cổng thành thứ nhất ở phía tây nam thành Kiến Khang.
138 Nay là thôn Tử Các thuộc xã Thái Đô, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
139 Nguyên văn là Vạn Xuân đài. "Đài" là một kiến trúc vật xây cao, có thể nhìn ngó xuống dưới thấp.
140 Chức quan đứng đầu triều, như Tể tướng.
141 Chỉ Dương Phiếu.
142 Tức là tên gọi của Độc sử phương dư kỷ yếu . Cố Tổ Vũ -56, tên tự là Phục Sơ, lại có tự nữa là Cảnh Phạm, quê ở Vô Tích thuộc Giang Tô, người cuối đời Minh đầu đời Thanh. Sách này gồm 130 quyển, trong có 9 quyển chép về hình thế cương vực châu quận các triều đại, 114 quyển chép về Nam Bắc trực lệ 13 tỉnh, 6 quyển chép về nguyên ủy núi sông, 1 quyển chép về phân dã thiên văn. -1355.
143 Tiếng "mị nương" ở đời Hùng Vương cũng như tiếng công chúa ở đời sau, chứ không phải tên riêng.
144 Tức là cấm thành, nơi vua ở.
145 Tức là Lào.
146 Miền núi nước Lào.
147 Tức là Đại Tần Bà La Môn gọi tắt, ở biên giới Ấn Độ (theo Tập san bác tổ , tập IV, năm 1904, trang 371).
148 Dương Thận -71, tự Dụng Tu, hiệu Thăng An, người Tân Đô đời Minh. Ngài cuốn Điền tái ký này, Thận còn có cuốn Điền trình ký và nhiều tác phẩm nữa -1084.
149 Một tên riêng tỉnh Vân Nam.
150 Hai chữ "cát" khác nhau: chữ cát ở tên cũ ___ nghĩa là cắt; chữ cát ___ ở tên sau nghĩa là dây sắn.
151 Hai chữ "nha" theo tiếng Việt thì âm như nhau, nhưng theo chữ Hán, mặt chữ khác nhau.
152 Hai chữ "nha" theo tiếng Việt thì âm như nhau, nhưng theo chữ Hán, mặt chữ khác nhau.
153 Tên nôm là Cồn Liêu, nay thuộc Nam Định.
154 Cửa biển Đại Nha nay là cửa Tam Tòa lục bộ, đấy cũng có đền thờ Triệu Việt vương, lại có bia chép chuyện rõ lắm.
155 Sách Cương mục in gọi sai là Kỷ Mão, thật ra phải là Tân Mão mới đúng: Kỷ Mão là năm 559 (Triệu Việt vương năm thứ 11), tính đến Nhâm Tuất là năm 602 thì sẽ là 44 năm, chứ không phải là 32 năm. Vậy xin chữa là Tân Mão .
156 Một chức quan mang tính thi hành nhiệm vụ, không đặt thường xuyên.
157 Còn có âm nữa là "đồ", nên cũng đọc là "đồ", nhưng theo âm "chà" mới đúng với tên đất mà ta còn biết được.
158 Chức quan đứng đầu Giao Châu, trông coi quân dân, như chức Thứ sử các đời trước.
159 Sách Cương mục in sai là năm Phổ Thông thứ 6, thực ra là năm Phổ Thông thứ 4 (523) (Tb.3, 33). Vậy xin đính chính lại.
160 Tên một dân tộc thiểu số xưa.
161 Chế độ tô, điệu nhà Đường mỗi suất đinh được một khoảnh ruộng, hàng năm, phải nộp hai hộc thóc, gọi là tô ; mỗi năm lại phải nộp hai tấm lụa, ba lạng bông (nếu không nộp lụa mà nộp vải thì phải tăng thêm một phần năm), ba cân gai, hoặc nộp bạc thì phải mười bốn lạng, gọi là điệu .
162 Chế độ tô, điệu nhà Đường mỗi suất đinh được một khoảnh ruộng, hàng năm, phải nộp hai hộc thóc, gọi là tô ; mỗi năm lại phải nộp hai tấm lụa, ba lạng bông (nếu không nộp lụa mà nộp vải thì phải tăng thêm một phần năm), ba cân gai, hoặc nộp bạc thì phải mười bốn lạng, gọi là điệu .
161 Cũng đọc là Bồ Đà hoặc Xà Bà.
162 Một chức quan ở thời nhà Đường, đứng đầu miền đất nước ta, như chức Thứ sử thời trước.
163 Tức là nhân dân theo văn hóa Hán tộc (Trung Hoa).
164 Theo nghĩa đen, cơ là cái dây giàng đầu con ngựa; mi là cái giàn hai má trâu bò. Cơ mi là giàng buộc lỏng lẻo, có đặt ra châu nhưng không bắt theo đúng kỷ luật chế độ.
165 Một chức quan được đặt ra từ thời nhà Đường. Đứng đầu phủ An Nam đô hộ, tức cai quản toàn bộ quân dân miền đất nước ta.
166 Tập khai về địa chí của tỉnh Sơn Tây.
167 Nay thuộc thị xã Sơn Tây (ngoại thị).
168 Một chức quan ở thời Đường, đứng đầu cai quản toàn bộ miền đất nước ta.
169 Bắt dân hằng năm đóng thuế vào cả một kỳ.
170 Tức vua nước Chiêm Thành.
171 Một chức võ quan cấp bậc thấp.
172 Tù tức là Tù trưởng, người đứng đầu các người Man.
173 Xem chú giải ở trên, năm 546.
174 Quyên tiền và thóc để được làm quan.
175 Xem chú giải ở trên, năm 757.
176 Các nước ở ngoài Trung Quốc mà thần phục Trung Quốc như: Cao Ly, Bách Lế, Thổ Phồn, Đột Quyết, v.v...
177 Nguyên văn là "một sách".
178 Xem Lời chua ở dưới.
179 Tên một khoa thi để kén nhân tài có từ đời Hán. Khoa thi này chuyên tuyển lấy những người có tài văn học để bổ làm quan. Đời Đường, Tống vẫn còn noi theo.
180Cương mục là một bộ sử Trung Quốc mà sách Cương mục ta theo dùng làm mẫu (xem phàm lệ). Sách Cương mục (Trung Quốc), tác giả là Chu Hi đời Tống (thế kỷ XI): thế mà lời chua ở đây lại nói: "Theo lời chua trong Cương mục thì khoảng năm Vĩnh Lạc -21 đời Minh v.v...". Mới xem, có thể ngờ là không đúng. Nhưng xét kỹ về lại lịch sách Cương mục , ta cũng có thể tin là không sai. Khoảng thế kỷ XI, Chu Hi nhân sách Tự Trị thông giám của Tư Mã Quang làm thành sách Thông giám Cương mục (gọi tắt: Cương mục ), phỏng theo lối Xuân thu , chia ra phần cương và phần mục . Sau giao cho học trò là Triệu Sư Uyên làm trọn bộ gồm 59 quyển. Sau nữa Kim Lý Tường làm thêm Tiền Biên. Đến đời Minh, Thương Lạc làm tục Hậu biên. Đến hồi Kiền Long (thế kỷ XVII). Tất Nguyên lại theo lối Tự Trị thông giám làm tiếp từ Tống đến Nguyên, gồm 320 quyển. Sách này tuy không tinh tường bằng sách của Tư Mã Quang, nhưng rất thông dụng.
181 Nguyên văn là "Đường Vương Thức thụ cúc mộc vi một hào, chu thực chính trúc".
182 Theo nghĩa đen, gian dân là người dân không làm ăn chính đáng theo đúng pháp luật.
183 Vì ai nấy bịt đầu bằng khăn màu vàng, nên gọi là "Hoàng đầu quân" (theo chú thích của Đại việt sử ký , quyển 6, tờ 14b) xem thêm Lời chua của Cương mục ở dưới.
184 Chỉ Vương Thức.
185 Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 275
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com