watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:50:5326/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Lịch Sử > An Nam Chí Lược - Trang 10
Chỉ mục bài viết
An Nam Chí Lược
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 26
Chương 5 Đại Nguyên Danh Thần Vãng Phục Thơ Vấn

Quyển Đệ Ngũ
Đại Nguyên Danh Thần Vãng Phục Thơ Vấn
0

Năm Chí-Nguyên thứ 19 (1282), Sài-Trang-Khanh làm chức An-nam Tuyên-Uỷ-Sứ-Ty Đô-Nguyên-Soái, gửi thư cho Chấp-Sự của Thế-Tử An-nam như sau:
"Bản ty vâng lời thánh-chỉ tới quý quốc công cán, cốt-yếu để trấn-ngự biên-cảnh và an-ủy chonhân-dân được yên vui như trong một nhà, ngoài ra không có ý-định nào khác. Một số quân-sĩ đi theo, là hạng người chầu chực hai bên, chứ không phải quân lính đi chinh-phạt hoặc chiến-đấu với ai cả. Tôi sợ quý-quốc không rõ thánh-ân của Hoàng-đế và ý-định của chúng tôi, rồi sinh ra sự nghi ngờ lo sợ chăng, cho nên ngày tôi mới đến Tịnh-Giang, trước hết sai Lê-Trung-Tán sang bày tỏ mỹ-ý của Triều-đình vốn  khoan-hồng thương nước An-nam; còn sự bày bố xe ngựa quân lương và nhân-phu, cứ theo lệ thì quốc vương phải cho ra biên-giới đón tiếp. Bản ty ngày 16 tháng 3 đã tới đất Thị-Bình xuống ngựa, đến ngày 20 là tới đủ. Nay có Lê-Văn-Tuý đem thơ lại nói muốn hoản việc thương-lượng mà không nói rõ ngày nào nghênh tiếp đại-quân, làm như thế, là trong còn chất chứa sự hoài-nghi, chưa hết lòng thành-thực. Vả lại, trước đây tôi phụng-sứ qua An-nam, há có nói dối, xem sự thành thực của kỳ trước, thì suy ra việc ngày nay cũng không có điều gì giả-dối. Đến như Thế-Tử và nhân-dân An-nam, đối với sứ-vụ nầy có lợi hay không, sau khi phụng lời chiếu chỉ sẽ tự biết. Về phần Bản-ty đã nghiêm cấm các quân-sĩ, lại-thuộc không được xâm nhiễu nhân-dân, ngoài ra lại sai quan Bản-Ty Kinh-Lịch và Lệnh-Sứ là Vương-Lương cởi ngựa đi kiểm-điểm các việc quân-lương, quân-phu, ngựa trạm, những thứ mà quan viên của Bản-ty cần dùng, hạn cho sáu ngày phải tới Thị-Bình, nếu trái với kỳ hạn đã định, Bản-Ty về nước sẽ tâu với Thiên triều khu-xử một cách khác. Nhưng nghĩ rằng quý-quốc đã ân-cần qui-phụ từ mấy chục năm trước, chỉ vì thiếu điều đúng đắn, khiến cho sinh ra những điều lợi hại, há chẳng nên xét đến ru? Xem thư cho rõ, chẳng đợi nói dài.
Hồi ấy Sài-Thung vâng lãnh sứ-mạng đem quân đưa Trần-Di-Ái về nước, nhưng quốc dân không nhìn nhận 0.
Thư-văn của Thượng-Thư Trương-Lập-Đạo hiệu Hiển-Khanh gửi cho Thế-Tử An-nam
Năm Chí-Nguyên thứ 28 (1291), quan Thượng-Thư Bộ-Lễ là Trương-Hiển-Khanh gửi thư cho Thế-Tử An-nam như sau:
Lấy một tấm lòng thành thật, không kể sự hiểm-nghi, giữa hai nước nên nói thẳng điều lợi hại với nhau.
Chúng tôi kính vâng mệnh vua sang sứ nơi xa xuôi nầy. Ngày ra đi, các quan đại-thần ở trong triều có nói rằng: "Lời chiếu chỉ như trời đất đối với muôn vật, không chỗ nào là không đùm bọc chở che,  tuy nhiên, nước nhỏ hay nghi ngờ, các ông nên nói rõ cho Thế-Tử biết": Vã chăng Triều-đình Đại-Nguyên cao cả, từ đời Tam-Đại, chưa có thời-đại nào sánh kịp. Phương Bắc vượt qua núi Âm-Sơn, là cơ-nghiệp của Thánh-triều; phương Nam qua khỏi bể Viêm-Hải, tất cả các nước đều xưng thần; Hồi-Hột, một tù trưởng xứ Tây-Vực, đã băng sa-mạc mà đến dâng lễ-vật; Cao-Ly, một quốc-vương Đông-Dy, cũng vượt biển tới chầu; các vua nước Khiết-Đan, Nữ-Chân và Tây-Hạ, vì trái ý trời, cho nên bị tiêu diệt; các quốc trưởng Bạch-Thát, Côn-Ngô và Thổ-Phồn, vì vâng mệnh mà được kết làm thông-gia; các nước Vân-Nam, Kim-Xỉ và Bồ-Cam cho con vào Trung-Quốc làm tin. Đại-Hạ và Vong-Tống tại Trung-Nguyên đều xin phục tùng làm dân. Duy có Nhật-Nam, là nước nhỏ bé, bề ngoài thì trang-tác phục-tuùng, mà trong lòng chưa cảm-hóa, tuy làm chư-hầu, chịu lễ cống-hiến, không hề thiếu, mà chưa hết lòng trung thành. Xét lại sự dấy binh trị tội, cố nhiên là lý chính đáng của nước lớn; mà xếp dáo trốn tránh cũng là lòng khiêm-tốn của tiểu-quốc, như thế mới phải lẽ. Cớ sao lại chống cự với Trấn-Nam-Vương, tranh đấu không hề nhượng bộ, quên cả phận vua tôi mà dám làm; nào phải như đối với bọn Ô-Mã-Nhi, dụng mưu-kế mà thắng trận được đâu. Trong Kinh Xuân-Thu có lời trách: "Ngũ-bất-vi", (nghĩa là năm điều lỗi) 1, trong quyển Luận-Ngữ có đạo: "Tam-khả-uý", (nghĩa là ba điều đáng sợ)2, người quân tử phải nên biết. Người xưa có nói: "đánh vừa thì chịu, đánh mạnh thì chạy", câu nói ấy, nay sao không áp-dụng? Tội lỗi của Thế-Tử, thật Thánh-triều không tha thứ được mà còn không biết.
Có 3 điều không nên như sau:
1.- Nếu như quân lính của nước lớn đến đánh, mà nước nhỏ cố giữ lấy bờ cõi, dù thất trận cũng không hồi tâm, thì dân nước nhỏ phải bỏ đất đai mà trốn ở nơi góc biển, tuy sống cũng như chết, tuy còn cũng như mất. Như vậy, không thể trông cậy vào nơi biển hiểm-yếu được.
2.- Hơn 400 châu ở đất Giang-Nam, không đương nổi một mũi nhọn của xứ Trung-Nguyên, vả lại An-nam so với Giang-Nam, bên nào đông đúc hơn? Vậy làm thế nào mà chống cùng Thượng-Quốc? Năm nay cùng đánh, sang năm cùng đánh, hôm nay chết một số, ngày mai chết một số, nhân-dân tiểu quốc được bao nhiêu, có đủ mà cung cấp số lính không? Như vậy, không thể ỷ lại vào số đông người được.
3.- Nhà Tống lập quốc hơn 300 năm, một mai mất sạch như quét. Nước An-nam trước đây cùng nhà Tống làm nghĩa cha con, hai nước giữ gìn nhau như môi che răng, nay môi đã mất thì răng phải lạnh, cha đã chết, thì con phải cô-độc, là lẽ tất nhiên vậy. Sở dĩ mà con không đến nổi cô-độc là vì biết thần-phục triều Nguyên, ấy là hợp với đạo trời và được khí-vận tương-thông vậy. Nay bỏ đạo trời mà cậy sức người, lẽ phải bại vong, quốc vận không thể lâu dài được, há chẳng phải trái với đạo trời hay sao?
Tôi có nghe nói: "Hễ ai thuận theo trời thì hưng vượng, trái ý trời thì diệt vong". Thời xưa các nước chư hầu hoặc đến chầu tại chốn Kinh-Sư, hoặc họp Hội-Đồng tại Hội-Quán Bang-Nhạc 0. Khi có việc giặc giả thì bất luận ngày giờ, vượt ra khỏi bờ cõi mà không lấy làm khó khăn, nay Thế-Tử sợ gì núi cao sông rộng mà tránh mặt để gây ra cái họa binh-qua liên-kết; đó là chỉ sai một ly, mà đi xa ngàn dặm vậy. Việc cấp-tốc ngày nay là phải hối-cải điều lỗi của mình mà sửa mới, vào triều tại tội, Thánh-Thiên-Tử là vua muôn nước, đức-độ như vua Nghiêu, vua Thuấn, đã nói không khi nào nuốt lời, ắt Ngài tha hết tội lỗi nhỏ và gia ân lớn, rồi nước An-nam sẽ được thành một nước hưởng hạnh-phúc ngàn năm, được thường gần gũi nhau, như con với cha mẹ, vui vẻ không gì hơn nữa. Thế-Tử ở nước nhỏ, gặp được sự lợi ích, may mắn như ngày nay. Ngày sau các nước duyên-hải, dầu có xảy ra sự xâm lăng bờ cõi, nhưng ai dám động chạm tới nước An-nam? Thật ra cái oai đức to lớn của triều Nguyên ta đáng nương tựa, đáng trông cậy, đáng ăn nhờ lắm vậy! Cái cơ an nguy trong một hơi thở, cách nhau không lọt một sợi tóc, tôi không phải là người thuyết-khách, Thế-Tử chớ để dạ nghi ngờ. Nói như vậy, mà chưa được tin thì tuỳ ý Thế-Tử tự lo liệu, nếu ngày sau có gặp cơn hoạn nạn, thì tôi không biết nữa.
0.
Quan Bình-Chương là Lưu-Nhị-Bạt-Đô đánh yên giặc Hoàng-Thánh-Hứa rồi gửi thư cho vua An-nam
Từ khi nhà Tống mất nước, các khe động đã qui thuận hơn 20 năm, tuy không lo việc cống-hiến, nhưng Thánh-triều coi như các châu quận xa xuôi, nên bỏ qua, không thèm kể đến, khiến cho vài ba năm trở lại đây, tên Hoàng-Thánh-Hứa âm-kết với nước ngoài, nuôi giữ lòng làm phản. Bởi vậy, chúng tôi mới có cuộc chinh-phạt nơi bờ-biển nầy. Không ngờ chấp-sự lại dung nạp phản-thần tự ý gây sự ở biên giới; như tên Thánh-Hứa nầy phỉnh phờ các người nhỏ, trổ tính điên cuồng, không khác gì kẻ bắn trời, đốt đất, chém nền xã-tắc mà đốt. Tôi vì thế mà lo cho Chấp-sự 3, dung nạp nói cũng như nuôi cọp trong nhà để tự-vệ, cầm ngược lưỡi gươm thái-a (gươm sắc bén), mà giao cán cho người ta cầm, thật là không lợi cho mình. Tuy đứa ngu dại đến bậc nào cũng hiểu biết được. Ngày mồng tám tháng 11 nguyên-niên và ngày 21 tháng 2 năm thứ 2, nước tôi đã hai lần đưa thư qua nói rõ ý đó, mà để chậm lâu ngày không thấy trả lời, là vì cớ gì?
Ôi! đất Thượng-Tư 0 cắt lấy bề dài vá qua bề ngang, không đến 200 dặm vuông; kể cả nhà, đếm từng người, không đầy 5.000 nóc nhà, chỉ là một ổ giặc ẩn-nấp mà Chấp-sự lại viện-trợ cho chúng nó.
Thánh-triều đối với Chấp-sự, Chấp-sự đối với Hoàng-Thánh-Hứa, ai trọng, ai khinh? Đất rộng cả thiên-hạ, người đông cả bốn biển mà so với đất Thượng-Tư bé mọn, ai lớn ai nhỏ? Bên trọng bên khinh, đủ thấy khác nhau sự khó dễ, bên lớn bên nhỏ, dù thấy phạn biệt nổi an nguy, không biết Chấp-sự toan theo điều khó mà cầu yên, hay là theo bên dễ mà chịu nguy ư? Bây giờ, tôi xin vì Chấp-sự thử vạch ra ba kế hoạch: hiện nay tên Thánh-Hứa, trời đất không dung, nhân-dân và quỉ-thần đều giận, thoát thân đi trốn, dựa vào chút oai linh đời trước để lại, như con chó chết bị trói cổ, nếu nó không đợi đem binh tới đánh, tự trói mình đến đầu hàng mà lui tới làm tôi, tử tế như cũ, đó là thượng-sách. Địa giới Thượng-tư liền với Chấp-sự, chỉ cần một vài người tả hữu đồng-ác với nó, dùng chước phĩnh dỗ nó về giấu trong nhà, nói rằng không cho ai nghe biết rồi nhơn cơ-hội ấy, bắt mà cắt đầu đem hiến cho Triều-đình, đó là Trung-sách,... Nếu dùng hạng người gian những làm môi che răng, lấy hòn đảo ngoài biển làm giậu che nhà, giấu-giếm giúp-đỡ, mà không chịu đem nạp, rụt rè nghi ngờ mà chưa quyết đoán, như vậy bề trong đã mang tiếng dung-nạp kẻ bạn-thần, bề ngoài lại lỗi nghĩa thờ phụng Thượng quốc, ngồi chờ cùng nhau quyết một trận hơn thua, đó là hạ-sách. Hẳn như thi hành theo hạ-sách nói trên, thì tôi sẽ tâu lên Hoàng-đế rõ. Oai trời không lường biết được, hoặc có mối họa binh-cách, thì Chấp-sự phải lo sửa soạn chiến-thuyền, xây thành cho cao, đào ao cho sâu, nhà cửa kiên-cố, đồng ruộng trống không để chờ quân ta kéo tới mà đối-địch, tôi tướng dầu có mưu kế quỷ quyệt đến bực nào cũng không thể thi-thố như ngày trước được. Sở dĩ nói như vậy là vì quân đi chinh-phạt kẻ bạn nghịch thì có danh-nghĩa, mà đã có danh nghĩa thì quân ra trận được hùng mạnh, sự thắng bại rất là rõ-rệt. Một khi quân nhà vua đến đánh thì các cánh quân đồng tiến, dày đạp trên đất đai của khanh, phá tan hết nhà cửa của khanh, thì lẽ tất nhiên là mấy bức thành bằng ụ kiến, không thể nào chống cự với đại quân của Thiên-tử. Chấp-sự cũng sẽ làm như ngày trước, chở các vị thần-chủ đi, suất cả nhân-dân từ già đến trẻ, chạy trốn nơi khác, đến nỗi sinh linh trong nước đều phải phơi gan trải mật chết chóc đầy đường, không lẽ vì có một đứa thất phu mà làm cho bao nhiêu người vô-tội cũng bị lây mối hoạ, vì nước vì dân, có ai làm như thế không? Tôi hiện nay đóng quân tại Tịnh Giang, để chờ sứ-giả tới. Viết thư nầy để tỏ ý thành thật của tôi, tuy hơi dài dòng, Chấp-sự nên cẩn-thận chọn lấy.
Năm Diên-Hựu thứ 3 (1316), Trung-Thư-Tỉnh Xu-Mật-Viên khiến chức Vạn-Hộ là Đăng-Dực, Lưu-Hưởng tên tự là Đạo-Tông và quan viên do Quảng-Tây Soái-Phủ phái ra là Triệu-Trung-Lương, sang điều-tra việc nước An-nam xâm phạm địa-giới; Sau đây là bức thơ của Lưu Thiên-Hộ 0 gửi cho vua An-nam
Chúng tôi trộm nghĩ rằng: "nước nhỏ mà thờ nước lớn, là cái đạo sợ oai trời, dùng quân-lực để cầu sự tạm-an, không phải là cái mưu làm yên nước, những lẽ thuận nghịch phải cho rõ rệt, cái cơ an nguy phải xem xét đến. Từ xưa nhà Hán đặt ra chín quận, nhà Đường đặt ra năm quản, nước An-nam là một quận hay quản nói trên, tức là một xứ mà thanh-giáo Trung-Quốc đã lan tràn tới. Nay nhà Nguyên đã nhất-thống, văn-hoá đã hổn-hợp với nhau, phương Đông tới Nhật-Bản, phương Bắc tới Sóc-Phương, các nước ở ngoài thanh giáo, từ xưa tới nay chưa từng nội-phụ, mà bây giờ đã chịu đến làm tôi, tuy có tám nước mọi cậy thế cứ-hiểm, không qui hàng, vì tội hậu-chỉ 4, mà nay đã bị tiêu diệt và đã làm quận huyện của Trung-Quốc. Duy có nước An-nam là nơi ky-mi, vẫn được hưởng quyền "phế-trí" 5, ơn khoan-hồng của triều-đình so với các tiểu-quốc khác, đã hơn nhiều rồi. Huống chi dâng đồ-tịch và cống-hiến phẩm-vật, sự phân-biệt giữa thượng-quốc và hạ-quốc xưa nay vẫn rõ-rệt; cống-phẩm của quý quốc vẫn bạc mà triều-đình trả lại rất hậu, như vậy, cái ân-huệ yên vỗ của triều-đình cũng rất đầy đủ. Thánh-triều đối với quý-quốc có phụ bạc gì đâu. Nay vì sao không chịu yên giữ, lại muốn cẩu thả mở mang bờ cõi, tuy một khoảnh đất trong sơn-thôn không trong hệ gì, nhưng quan-hệ đến bản-đồ của quốc-gia là việc rất lớn. Hơn nữa, những kẻ bị chém giết, bắt bớ, đều là dân của triềuđình, việc làm ấy cho là tầm-thường tiểu-khấu, mà tội lỗi chất chứa thật to như gò núi, người có học thức tất không ai làm như vậy. Tỉnh-Viên được tin, nhưng nửa tin nửa ngờ, chưa dám tâu lên triều-đình, sợ Thánh-thượng nổi giận lên chăng. Cho nên phái chúng tôi qua trước, xét nhận tình hình, nay mắt trông những việc đã làm đều có chứng-cứ hiển nhiên. Sự thể đến thế, há có thể để yên chăng? Không biết mưu mô làm điều phản-nghịch kẻ nào bày ra? Hoặc do người quốc-trưởng hay do quan-lại ở biên quận gây ra, xin nói rõ cho chúng tôi biết để làm giấy thân trình. Ví bằng trở về điều thiện mà đổi điều lỗi, đem những nhân-dân bị bắt bớ cùng những ruộng đất bị chiếm lấy mà trả lại cho triều-đình, thế là chuyển họa làm phúc, thì quân hỏi tội cũng có thể hoản lại được. Nếu như chấp-mê, không giác ngộ, còn tìm lời cải lẽ, thì chúng tôi tâu về Thiên-triều, sẽ có ngày thi hành chinh-phạt.
Than ôi! Nước nhỏ của Chấp-sự so với cương-thổ của Thánh-triều, thật trăm phần chưa được một. Hơn nữa, quân lính có danh nghĩa hỏi tội, khi qua quí quốc, lẽ tất nhiên cũng quét sạch sào huyệt như núi Thái-Sơn đè trên đống trứng, lẽ gì mà không tan nát. Kẻ thức-giả nói quí quốc đã nguy ngập lắm, Chấp-Sự phải lo liệu ngay".
Lúc đó, Thế-Tử An-nam sai Triều-Thỉnh-Lang là Khảng-Tất-Quá, Phụng-Nghị-Lang là Đỗ-Tắc-Dương qua dâng tờ điệp và các đồ vàng bạc, nhưng Lưu-Thiên-Hộ nhận tờ điệp và khước các tặng phẩm.
Tiền Triều Thư Sớ
Mân-Việt đánh Nam-Việt, Hán-Vũ-Đế cử binh đánh Mân-Việt, Hoài-Nam-Vương là Lưu-An dâng thư can vua đại lược nói rằng:
Bệ-hạ làm vua cả thiên-hạ, thi ân huệ, hoản hình phạt, đánh nhẹ các thứ thuế, thương xót kẻ quan, quả, cô, độc nuôi ông già bà lão, chẩn tế người túng thiếu. Đức thịnh đầy nhẩy ở trên, ơn hoà khắp nhuần xuống dưới, người ở gần tới cầu thân phụ thuộc, người ở xa hoài-vọng đức-độ, cả thiên-hạ êm đềm, người được sống yên ổn, tự-tất suốt đời không thấy giặc là gì.
Nay nghe nhà đương cuộc cử binh, toan qua đánh nước Việt, tôi tên là An, trộm nghĩ mà lo cho Bệ-Hạ. Đất Việt ở ngoài địa-phương Trung-Quốc, dân họ đều cắt tóc vẽ mình, không thể dùng pháp-độ của Trung-Hoa là nước đai mũ mà cai trị được.
Từ nhà Hán định quốc đến nay là 72 năm, 2 nước Mân và Việt đánh nhau không biết mấy lần, nhưng Thiên-Tử chưa từng cử binh vào đất ấy. Nam-Việt không có thành quách, làng xóm, chỉ ở trong khe suối, hang đá và vườn tre, từ xưa tập luyện thuỷ chiến; đất đại ở sâu xa, tối tăm mà nhiều khe suối rất hiểm; sông núi cách trở gay go, cây cối rậm rạp, lui tới khó khăn không xiết kể. Mới trông qua, như tuồng là dễ, mà muốn tới thì khó khăn. Thiên-hạ nhờ anh-linh của tổ-tông, cả nước đều yên, người từ trẻ đến tóc bạc không hề thấy giặc, giữa nhân dân, vợ chồng và cha con đều được yên-ổn là nhờ ân-đức của Bệ-hạ. Người Việt tiếng là làm tôi, những đồ cống hiến không đem vô Đại-Nội, một tên lính cũng không dùng gì vào việc bề trên. Nay chúng nó đánh nhau, mà Bệ-Hạ đem quân ra cứu viện, tức là lấy người Trung-Quốc mà chiều chuộng bọn mọi rợ. Hơn nữa, người Việt có tính khinh bạc, phản phục không thường, họ không tuân theo pháp-độ của Trung-Quốc đã lâu rồi. Hễ không phụng chiếu-chỉ, bèn cử binh qua đánh, thì tôi tưởng việc binh-cách không khi nào nghĩ ngơi được. Phát quân vào đất Việt là vấn-đề quan trọng, phải đi kiệu qua núi, chèo đò vào sông; đi vài trăm ngàn dặm toàn là tiếp giáp rừng sâu, tre rậm, dòng nước trên dưới đều vấp phải đá, trong rừng lại nhiều rắn độc, cọp dữ, đến mùa hè, trời nắng, thi sinh ra chứng thổ tả, hoắc loạn, gian-nan, vất vả và tật bệnh tiếp nối với nhau. Quân lính chưa từng cầm gươm giao chiến, nhưng người từ trần và bị thương chắc đã đông. Tôi lại nghe sau khi đánh giặc, ắt bị mất mùa, vì dân mọi người đầy khí sầu khổ, làm cho âm dương mất điều-hoà và ảnh-hưởng tới trời đất, do đó mà sanh ra tai hại.
Bệ-Hạ đức sánh với trời đất, ơn thấm đến cỏ cây, có một người nào đói rét không hưởng trọn tuổi trời mà chết, thì cũng lấy làm thương xót, trong nước không trộm cướp gì đáng lo sợ mà lại khiến cho binh lính phơi thây nơi chiến-trường, tắm dầm chỗ hang núi, dân ở biên-giới ban ngày phải đóng cửa, tối đi làm ăn, mà vẫn không đủ ấm no. Tôi là tên An nầy, trộm nghĩ rằng Bệ-Hạ nên trong việc dân là phải hơn. Tôi lại còn nghe nước Việt khác với Trung-Quốc, trời đã hạn cho một dãy núi cao, xưa nay không ai bước chân tới, xe ngựa không thông, hình như trời đất đã cách biệt nước trong và nước ngoài vậy. Huống chi phương Nam nóng nực và ẩm thấp, gần mùa hè thì khí độc và nóng nảy khó chịu, nhân dân phải trần truồng ở dưới nước. Có nhiều sên, rắn và các giống sâu độc, bệnh dịch thường xảy ra, người chưa chết vì gươm giáo mà hai, ba phần mười đã chết bệnh; tuy lấy hết cả nước Việt, cũng không đủ bù lại sự hao tổn. Gần đây, tôi nghe người đi đường nói, vua Mân-Việt bị em là Giáp giết rồi Giáp lại bị diệt, dân đó chưa thuộc vào ai, nếu Bệ-hạ phái một trọng-thần tới làm điều nhân-đức và treo thưởng chiêu-vỗ, thì dân đó từ già đến trẻ, tất sẽ đua nhau quy thuận Thánh-đức; nếu không dùng tới, thì nối tiếp dòng vua đã đoạn-tuyệt, dựng lại nước đã diệt vong, lập Vương-Hậu, để bảo tồn nước Việt, tất nước Việt sẽ đem con cháu qua làm tin, chịu làm chư-hầu và dâng lễ cống. Như vậy, Bệ-Hạ chỉ tốn một cái ấn tấc vuông và sợi giây gấm thêu một trượng hai (để vấn vào ấn) mà trấn ngự được một phương chư-hầu, không phiền một tên lính, không sờn một cây giáo, mà cả ân lẫn oai đều được rõ rệt. Đời Tần sai quan Uý là Đồ-Thư qua đánh nước Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở đám đất không, lâu ngày quân lính mệt mõi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại-bại, bèn đem các người đi đày qua để giữ gìn. Trong lúc ấy, trong nước ngoài nước đều tao động, dân sự rối ren, người đi không về, kẻ qua không trở lại, người người không vui sống, đua nhau chạy trốn, đâm ra trộm cướp, gây thành mối hoạ tại Sơn-Đông. Lão-Tử nói: "Hễ quân lính ở đâu, mọc chông gai ở đó", là thế. Vì dụng binh là việc dữ, một chỗ có giặc, thì bốn mặt đều theo; tôi sợ đều biến sinh ra, trộm cướp nổi dậy, do nơi cuộc đánh Mân-Việt mà ra. Sách Chu-Dịch nói: "Vua Cao-Tông đánh nước Quỉ-Phương đến ba năm mới hơn được".
Quỉ-Phương là nước mọi nho nhỏ mà Cao-Tông là ông vua cường-thịnh nhà Ân. Một ông vua cường-thịnh một nước lớn mà đánh một nước mọi rợ rất nhỏ, còn đến ba năm mới thắng, thì biết dụng binh không thể khinh thường được. Tôi nghe rằng: "đạo binh của Thiên-Tử có "chinh" 6 chứ không "chiến" 7, nghĩa là đi đánh đâu không ai dám đánh lại. Nếu như người Việt có đứa liều chết, cầu may, nghịch với viên Chấp-Sự của nó mà xung phong đi trước, dầu một tên phu-xe, gặp khi không phòng bị, cũng giết được mà đem đầu về dâng lấy công. Như vậy tuy lấy được đầu của vua Việt, thì nhà Đại-Hán cũng lấy làm thẹn.
Bệ-Hạ coi chín châu như một nhà, dân đâu cũng là thần thiếp cả. Bệ-Hạ chỉ lấy đức hoá mà che chở, khiến nhân-dân đều an sinh lạc-nghiệp, ơn để muôn đời, truyền xuống con cháu vô cùng vô tận, cả thiên-hạ yên như núi Thái-Sơn, bốn phương ràng buộc lấy nhau, một cách vững vàng. Còn như cảnh thổ của mọi rợ, không đáng giá động phiền đến binh-mã một ngày.
Lúc bấy giờ quân nhà Hán chưa qua khỏi đất Lĩnh-Nam, vừa gặp dịp người em vua Mân-Việt là Dư-Thiện giết vua đem đầu nạp cho Vương-Khôi. Khôi nhân tiện đóng quân, cáo với Hán-An-Quốc và đem đầu về báo. Vua Hán ra lời chiếu bãi-binh. Sau đó khiến Nghiêm-Trợ tuyên lời dụ cho Nam-Việt. Vua Việt là Hồ cúi tạ nói: "Đức Thiên-Tử vì tôi mà dấy binh trị nước Mân-Việt, tôi không biết lấy gì báo đáp", rồi khiến Thái-Tử Anh-Tề qua Trung-Quốc chầu hầu vua Hán. Vua Hán ban lời khen ngợi ý-nghĩ của Hoài-Nam-Vương.
Trong năm đầu hiệu Vĩnh-Nguyên (89), đời vua Hán-Hoà-Đế, các quan Lĩnh-Nam dâng những quả lệ-chi tươi. Đường-Khương dâng thơ can rằng: "Tôi nghe người trên không lấy đồ ngon vật lạ làm đức, người dưới không lấy sự cống hiến đồ ăn làm công, chúng tôi thấy bảy quận ở Giao-Chỉ dâng những trái long-nhã, lệ-chi, v.v... thì phải trong khoảng mười dặm để một trạm ngựa, năm dặm một nơi nghĩ, để tiện ngày đêm chuyển đạt. Xét lại đất Nam nóng nẩy, khắp các ngã đường đều có ác-thú, khiến cho nhiều người bị chết dọc đường; vã lại, hai vật nầy được dâng lên triều-đình, vị tất có thể làm cho sống lâu thêm". Vua Hoà-Đế bèn hạ chiếu nói rằng: "của quí của nước xa lạ mà đem về vốn để dâng lên phụng thờ tôn tổ; nếu có sự tổn-hại đến nhân-dân, thì trái với lòng thương dân. Vì vậy, hạ sắc dụ cho các quan lớn không nên cống-hiến lệ-chi và long-nhãn nữa".
Trong thời đại Hán-Thuận-Đế -18, dân ở quận Tượng-Lâm nổi giặc đánh giết quan Trưởng-Sử, Thứ-Sử Giao-Châu là Phàn-Diễn thảo-phạt mà không được thắng, triều-đình đề-nghị sai các tướng phát quân lính ở châu Kinh, châu Dương, châu Duyện và châu Dự, cả thảy 40.000 người tới đánh giặc ấy. Lý-Cố bác lời nghị ấy và nói rằng: "Đảng trộm cướp ở châu Kinh, châu Dương đương còn kết bè kết lủ, chưa tan rã, quân mọi rợ ở quận Võ-Lăng và Nam-Quận chưa được xếp đặt yên-ổn; quận Trường-Sa và quận Quế-Dương hay bị mấy chuyến trưng binh, nếu sinh ra việc tao-động gì, ắt lại thêm sự hoạnnạn, ấy lẽ thứ nhất không nên làm. Người ở châu Duyện và châu Dự đi xa đến 10.000 dặm và không có kỳ-hạn trở về; nếu hạ chiếu để cưỡng bách họ ra trận, thì họ phải làm phản trốn đi, ấy là lẽ thứ hai không nên làm. Thuỷ-thổ ở Nam-Châu ẩm-thấp lại thêm dịch-lệ, sẽ làm cho trong mười người phải chết bốn, năm, ấy là lẽ thứ ba không nên làm. Đường đi muôn dặm, quân lính mõi mệt, vừa tới miền Lĩnh-Ngoại đã không còn sức để đánh giặc, ấy là lẽ thứ tư không nên làm. Mực đi của quân-lính một ngày là 30 dặm, mà từ Châu-Duyên, châu Dự tới quận Nhật-Nam cả thảy 9.000 dặm, vậy phải đi 300 ngày mới đến; mỗi người ăn một ngày hết 5 thăng gạo, vậy phải dùng gạo đến 600.000 hộc, chưa kể vật-thực của các tướng, lại, ngựa và lừa, hễ cử binh thì sở-phí như thế, ấy là lẽ thứ năm không nên làm. Đặt quân lính trú tại đâu, ắt là người bị chết số đông, đã không đủ sức chống với địch, thì phải phát thêm quân và dân ở đó để sung vào quân ngạch, như vậy, đã là một việc không thể kham được, phương chi lính bốn châu mà đi cứu tai-nạn ở quảng đường muôn dặm, lao khổ biết chừng nào, ấy là lẽ thứ sáu không nên làm.
Ngày trước Trung-Lang-Tướng là Doãn-Tựu tới đánh mọi Khương làm phản ở Ích-Châu, dân Ích-Châu căm hờn mà ca rằng: "Tặc lại thượng khả, Doãn lai sát ngã" nghĩa là quân giặc tới còn dễ chịu, ông Doãn tới là giết ta. Rồi Tựu bị mời về, quân lính thì giao cho Thứ-sử sở-tại là Trương-Kiều đốc suất, Kiều nhân những tướng tại đó, trong một tháng thì quét sạch bọn trộm cướp; điều ấy chứng tỏ rằng sai tướng ra dẹp loạn là vô ích, không bằng sự hiệu-nghiệm của các quan tại châu quận. Vậy nên chọn người dũng-lược, nhân-từ giữ chức Tướng-Súy, Thứ-sử và Thái-Thú, dồn quan và dân Nhật-Nam sang quận Giao-Chỉ, chiêu tập dân man di, khiến cho họ cùng đánh nhau, một mặt khác đem vàng bạc tơ lụa để làm quân nhu. Nếu có kẻ nào dùng mưu phản-gián, đem đầu giặc đến dâng nạp, thì thưởng cho nó bằng cách phong chức tước và ban cho đất đai.
Ngày trước có Chúc-Lương làm quan Thứ-Sử tại Tịnh-Châu, có tính dũng-quyết, Trương-Kiều thìcó công phá quân giặc, đều có thể dùng được.
Thuận-Đế hoàn-toàn nghe theo lời bàn của Lý-Cổ.
Bức thư của Viên-Huy, khách ngụ ở Giao-Chỉ hối Hán mạt, gửi cho Tuấn-Quắc.
Sứ-quân ở Giao-Chỉ 8 học hỏi rộng rãi hơn người, thông thạo về môn chính-trị, ở trong thời đại loạn mà bảo-toàn một quận của mình cai trị hơn 20 năm, không có giặc giả gì, nhân-dân không ai thất nghiệp, người hành-khách tới lui đều được nhờ phước, tuy ông Đậu-Dung trước giữ đất Hà-Tây cũng không hơn được.
Quan Thái-Thú quận Giao-Chỉ và Hiệp-Phố đời Ngô là Tiết-Tống cùng Thứ-Sử Lữ-Đại dẹp loạn của Sĩ-Huy, Lữ-Đại bị triệu về, Tiết-Tống dâng sớ nói rằng:
Hồi xưa Đế-Thuấn đi tuần phương Nam rồi mất tại Thương-Ngô, nhà Tấn đặt quận Quế-Lâm, Nam-Hải và Tượng-Quận, vậy thì bốn nước nói trên đã nội-thuộc Trung-Quốc lâu rồi. Triệu-Đà khởi nghiệp ở đất Phiên-Ngung, vỗ yên quân-trưởng Bách-Việt phía Nam quận Châu-Quan 9 cũng là trong phạm-vi của bốn nước ấy. Hiếu-Võ-Đế đời Hán giết Lữ-Gia, mở chín quận, đặt Giao-Chỉ Thứ-Sử để thống trị; sông núi dài mà xa, tập tục không giống nhau, người không có tôn ty, dân không biết lễ-nghĩa, dù có đặt quan cai-trị cũng xem như không có. Từ đó về sau, đưa phạm-nhân ở Trung-Quốc sang tạp cư với dân bản-xứ, dạy cho đọc sách, hơi thông hiểu các mục lễ-hoá. Kịp khi Tích-Quang làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, Nhâm-Diên làm Thái-Thú quận Cửu-Chân, dạy dân cày cấy, đội mũ đi giày, lập trường học, dạy bảo lễ-nghĩa, đến nay hơn 400 năm rất có hiệu quả, nhưng đất rộng người đông, núi rừng hiểm trở, dân dễ làm loạn và khó cai trị. Các quan huyện yên vỗ chỉ thị oai khiến phục-tùng; thâu lấy thuế ruộng chỉ đủ nhu dụng mà thôi, còn việc cung nạp các loại thổ-sản như trân-châu, hương-liệu, ngà voi, sừng tê, san hô, chim anh-võ, lông-trĩ, con công, các vật lạ, là để làm của báu, chứ không cần bắt họ nạp thuế nhiều để bổ-ích cho Trung-Quốc. Tiếc rằng tại xứ ở ngoài "Cửu-Điện" 10, sự lựa chọn quan lại không được cẩn thận, thời Hán, pháp-độ không được nghiêm, các quan-lại địa-phương thường hay làm việc trái phép. Tôi thấy Hoàng-Cái làm Thái-Thú quận Nhật-Nam, mới xuống xe đã đánh giết viên Chủ-Bộ ở quận ấy vì tội cung-đốn không được sung mãn, nhưng rồi cũng bị dân đuổi; còn Đam-Manh là Thái-Thú Cửu-Chân, vì cha người hầu là Châu-Kinh thiết tiệc và mời quan Thái-Sử đến dự, khi rượu ngon uống say, có đánh nhạc, công-tào là Phan-Hâm đứng dậy múa, biểu Kinh ra múa, Kinh không đứng dậy, Hâm muốn cưỡng bách, Đam-Manh giận giết Hâm; vì vậy, em Hâm tên là Miêu suất quần chúng đánh Manh, cho nên Thái-Thú Sĩ-Nhiếp phải phái quân tới đánh, nhưng không diệt được. Vừa quan Thứ-Sử là Châu-Phủ dùng bọn người làng là Ngu-Bao, Lưu-Ngạn, chia nhau làm quan Trưởng-sử, xâm lấn ngang ngược với dân-gian, một con cá thia bắt đổi một hộc lúa, làm cho nhân dân căm hơn làm phản, rồi giặc ở núi đánh về cả châu cả quận, Phù chạy xuống biển, thất lạc mà chết. Lúc ấy, nhờ Bộ-Chất lần lượt xếp đặt, mới tái lập được trật tự và giềng-mối. Sau đó, Lữ-Đại dẹp yên cuộc loạn của Sĩ-Huy, mới đặt lại các Trưởng quan, nêu rõ phép vua, oai ra muôn dặm, nhân-dân các quận châu lớn nhỏ đều hấp-thụ được phong-hoá tốt.
Coi như thế, sự vỗ-yên dân biên-giới là nhờ bởi người có tài-đức, hễ đặt quan đứng đầu các châu quận, phải chọn người có đức-tính thanh-liêm, tuy bờ cõi ở xa, mà rất có quan-hệ đến cơ hoạ-phúc.
Nay nước Giao-Chỉ tuy rằng hơi tạm yên, mà còn có bọn giặc Cao-Lương ở đó. Còn bốn quận Nam-Hải, Thương-Ngô, Uất-Lâm và Châu-Quan đều chưa yên, vẫn còn giặc giả. Nếu Lữ-Đại không trở về Nam nữa, thì viên Thứ-Sử mới phải là người tài giỏi để cai-trị cả bảy quận và dùng mưu-trí, kế-hoạch, sắp đặt thế nào cho yên, mới có bổ ích. Hễ dùng người thủ-thường, không có thuật gì lạ, thì bọn dân cường bạo ấy càng ngày càng thêm.
Quan Trung-Thư-Thừa nhà Ngô là Hoa-Hạch tiến-cử Lục-Duệ và nói rằng: "Lục Duệ có tài thông đạt, có nết liêm-khiết, xưa đã từng trải công việc văn-phòng, điều hay giỏi hãy còn chép lại; trước đây, ở quận Giao-Châu, tuyên-bố được ân-đức triều-đình, khiến bọn lưu-dân đều qui-phục, các quận ở góc biển đều nghiêm-lặng, ở hơn mười năm, giữ gìn yên ổn, ông bỏ hết sự ham chuộng của quí. Sinh bình ông, ở trong không có bọn hầu hạ phấn son sắc đẹp, ở nhà không chứa những bữu vật như ngà voi, sừng tê và đồ châu ngọc, v.v... một vị nhân-thần giữa đời nay, thật khó được có người như ông ấy, nếu mời về trao cho nhậm chức cao trọng, thì việc triều-đình bất kỳ là việc gì, cũng hay tốt cả.

HOMECHAT
1 | 1 | 194
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com