watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:45:3626/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Lịch Sử > An Nam Chí Lược - Trang 11
Chỉ mục bài viết
An Nam Chí Lược
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 26
Nhà Tấn dẹp xong nhà Ngô, triệt hết quân lính ở các châu, quận, Thứ-Sử quận Giao-Châu là Đào-Hoàng dâng thư nói rằng: "Giao-Châu là dải đất chưa mở mang, ở một phương trời xa cách, phải hai ba lớp thông ngôn nói mới hiểu, liên-tiếp với mấy hòn đảo giữa biển, bề ngoài cách nước Lâm-Ấp chỉ vài ngàn dặm, tướng mọi tên là Phạm-Hùng trốn chổ hiểm trở, làm giặc đã mấy đời, tự xưng làm vua, hay xâm-phạm nhân-dân; địa giới liền với Phù-Nam, chủng loại rất đông, phân chia nhiều phe đảng, nương nhau chiếm cứ chỗ hiểm yếu, không chịu qui thuộc; hồi trước thuộc nhà Ngô, họ hay cướp bóc lương-dân, giết hại quan Trưởng-Lại. Tôi là con ngựa hèn bướng-bỉnh, hồi trước được nhà Ngô dùng để trấn-thủ tại phía nam, đến nay đã được mười mấy năm, trước sau có nhiều khi ra đánh, trừ được mấy đứa đầu sỏ, nhưng còn một số vẫn trốn ở chốn thâm-sơn cùng-cốc, chưa trừ hết được. Ban đầu số quân lính do tôi thống suất là 8.000 người; nhưng Nam-thổ ẩm-thấp và nhiều khí-độc, vả lại thường năm phải đánh giặc, khiến cho nhiều quân lính bị chết, hao mòn rất đông, hiện chỉ còn 2.400 người thôi. Nay bốn bể nhất thống, không nơi nào không qui phục, lẽ nên bãi bỏ việc binh-bị. Nhưng tôi thấy dân châu nầy ưa làm loạn, chưa nên giảm bớt quân lính tự làm yếu thế cho mình. Trong lúc yên lặng, biết đâu không xảy ra sự biến bất ngờ, tôi là người sống sót của nước Ngô mất rồi, thì bàn cũng không hiệu-lực gì".
Lúc bấy giờ, vua Tấn-Võ-Đế xuống chiếu y lời của Đạo-Hoàng. Đời nhà Tề, Thái-Thú hai quận Hoài-Nam và Tuyên-Thành là Lưu-Thiện dâng tờ biểu nói:
"Đất Giao-Châu ở ngoài cõi hoang-nhàn mà hiểu trở, cuối đời nhà Tống chánh-sự khắc bạc, cho nên dân ở cõi ấy làm phản, nay thì nên dùng lối nhân-đức mà cai-trị, không nên sai tướng-sĩ đi xa, thêm sự mệt nhọc mà động tới chỗ gần, ... (đoạn nầy khuyết mất).
Tống Thái-Tông nối ngôi được năm năm, có ý muốn đánh lấy đất Giao-Chỉ, Vương-Võ-Xứng thư qua Giao-Chỉ dụ rằng:
"Trung-Quốc đối với các nước mọi rợ, cũng như thân-thể đối với bốn tay chưn; khi vận-động co vào, duỗi ra, tùy lòng người ta, cho nên quả tim được gọi là ngôi của đế-vương. Ví-dụ: một người có một chưn đau, mạch máu không chạy, gân cốt không yên, thì phải uống thuốc để trị cho lành, trị bằng cách uống thuốc chưa lành, thì phải châm chích cho thấu vào chỗ đau. Không phải không biết rằng dùng thuốc thì đắng cho lỗ miệng, châm-chích thì có hại cho ngoài da, nhưng sự thiệt hại ít, mà bịnh lành là được sự ích lợi to lớn.
Vua đối với thiên-hạ cũng như vậy.
Thái-tổ Hoàng-đế ta được nhà Chu nhường ngôi, thanh danh, văn-vật, biến đổi trở lại như xưa.
Chức-vị của đế-vương như ông thầy chữa bệnh, trông thấy mọi rợ nào có chứng đau, thì tìm thuốc chữa, năm thứ nhất, thứ nhì, làm thuốc chữa cho Châu Lũng, châu Thục, châu Tương, châu Đàm; năm thứ ba, thứ tư, châm chích đất Quảng, đất Việt, nước Ngô và nước Sở; cơ-thể, gân, huyết, lành mạnh mau chóng, nếu không nhờ thần-cơ và tài lược của Vương-gia, có ai làm được như thế. Kịp đến nay Hoàng-đế nối ngôi, giữ nghiệp lớn, lấy toàn dân làm hậu thuẫn, chỉ châu U, châu Tinh là bệnh đau trong quả tim và gan ruột, bệnh ở trong tâm-phúc chưa trị thì tứ-chi làm sao chữa lành. Cho nên luyện phương thuốc nhơn-nghĩa, sửa soạn cái kim và mũi đá đạo-đức, chữa bệnh nơi gần cho thật lành mạnh, rồi điều-trị cả chín châu bốn biển, chẳng còn đau ốm gì. Xét lại Giao-Châu của Khanh ở cuối chân trời, nằm ngoài chín cõi, nếu so với thân người, thì chỉ bằng một ngón tay mà thôi! Dù chỉ có một ngón tay đau, thánh-nhân có lẽ gì mà không chữa. Vì vậy mà mở trí sáng suốt cho khanh, cho được thấm nhuần thánh-giáo của ta, khanh có theo chăng? Phương chi đời nhà Chu, có sứ thần họ Việt-Thường qua dâng con bạch-trỉ, nhà Hán có xây trụ đồng để phân giới hạn, đời Đường thì thường gọi là nội-địa; đến cuối đời Đường, gặp nhiều khó khăn, chưa xếp đặt yên.
Nay gặp đời thánh-triều (nhà Tống), bao trùm cả muôn nước, cơ-nghiệp thái-bình đã được thực hiện. Lễ thờ trời đất sẽ được cử hành, chờ khanh đến chầu ban cho tước lộc, nhưng vì khanh không chịu nội-phụ, gây ra một sự không hay, khiến cho ta phải buộc lòng chinh-phạt, tiêu diệt tiểu-quốc, khi ấy, thì dầu có ân-hận cũng không kịp nữa. Dù nước Giao-Chỉ, dưới nước sinh châu ngọc, ta cũng ném xuống suối; dưới đất sinh bạc vàng, ta cũng bỏ trên núi, nghĩa là ta không thèm lợi dụng của báu gì của khanh.
Dân của khanh ngẩng cổ mà bay, thì ta có xe và ngựa, dân khanh dùng mũi mà uống, thì ta có rượu thịt, để bỏ tục mọi rợ của khanh. 0; dân khanh cắt tóc, thì ta có áo mũ, dân khanh nói líu lo như chim, thì ta có thi thư, để dạy dỗ phong tục cho khanh. Đất Viêm-Giao, nóng bức, mờ mịt khói mù, thì ta đem chòm mây của vua Nghiêu, để rưới cơn mưa ngọt; khí độc dưới biển bốc lên, như lửa đốt nắng thiêu, thì ta lên cây đàn của vua Thuấn quạt ngọn gió êm. Khanh là ngôi sao mờ, không ai biết đến, còn ta là ngôi sao tử-vi đế-tọa, các sao đều phải chầu bậc chí-tôn; đất khanh có giống yêu ma, người ta thấy quái dị mà sợ, thì ta đúc cái đỉnh lớn khiến cho chúng không dám làm
hại. Vậy thì khanh phải ra khỏi hòn đảo man-di để xem lễ nhạc ở nhà Minh-Đường, Bích-Ung 11; bỏ lối ăn mặc đồ cỏ, lá cây, mà yêu chuộng đồ thêu thùa, áo xiêm long phụng; khanh có tới mà chịu làm tôi không, đừng để bị trị tội gấp; ta đương sửa soạn xe cộ, quân lính, xếp đặt chuông và trống, hễ theo ta, thì được tha tội, nghịch lại thì ta đánh, theo hay không theo, trong hai đường ấy, khanh hãy xét lấy.
Năm Thái-Bình-Hưng-Quốc thứ 5 (980), quân nhà Tống qua đánh Giao-Chỉ thất lợi, Điền-Tích dâng sớ nói rằng:
Nay đánh Giao-Chỉ không thành công, sách Xuân Thu có nói: "mòn quân phí của" và Binh-Thư có nói: "cùn gươm gải giáo" là thế. Tôi nghe Thánh Thiên-Tử không lo làm cho rộng bờ cõi, mà chỉ lo làm rộng nền đức nghiệp, theo cách dụng võ, có bảy đức 12 hay, Bệ-Hạ sao không suy rộng ra. Trời sinh giống mọi ở bốn phương, Bệ-Hạ lấy nước của họ, có bổ-ích gì. Nếu thánh-đức được ngày một canh tân, thì người xa tự nhiên tới triều-cống và ngoại quốc tự nhiêu về đầu hàng. Nước họ sẽ có tật dịch, nước họ sẽ mất mùa. Sách Thượng-thư có nói: " duy người có đức mới cảm động đến trời", lại nói: "các nước mọi đều tới chầu". Sách Chu-Dịch nói: "Thánh-nhơn làm việc trước trời mà không trái ý trời, huống chi là bốn giống mọi ư?". Tôi thường đọc Hàn-Thi Ngoại-Truyện có nói: "Việt-Thường tới cống hiến, trải qua chín lớp thông-ngôn mới tới, Châu-Công hỏi vì duyên cớ gì mà đến, thì người đi sứ đáp rằng: "trời không có gió bão, không có mưa dầm, biển không có sóng dữ, đã ba năm nay, chắc là ở Trung-Quốc có vị thánhnhơn làm vua, nên tới chầu vậy". Xưa vua Thái-Tông đánh nước Liêu, Nguỵ-Trưng can gián, kịp sau niên hiệu Trinh-Quán, thiên-hạ được thái-bình, nội-địa của Trung-Quốc gồm có 360 châu, lại có 200 "Ki-Mi" châu, mở đồn điền, phái lính thú, đều ở ngoài xa, không cần xuất binh mà họ tự cầu nội-phụ. Giao Châu là xứ biển, thuỷ-thổ đầy khí lam-chướng, nếu đánh có thắng trận mà lấy, cũng như được đám ruộng đá; người đi tới không quen thuỷ-thổ, người ở đó không chịu được nửa ngày, quân lính đã đóng lâu, chết mất rất nhiều. Bệ-Hạ hãy nghĩ sự chinh-chiến là khổ sở, tiêu dùng lại tốn hao, nên thương binh sĩ, tiếc nhân lực, chớ nên làm cùn gươm giáo mà phí của, cho lo yên trị bề trong, chiêu-tập người ở xứ xa đi tới, chớ hững hờ việc trong mà siêng năng việc ngoài. Nên hạ chiếu cho kẻ Chấp-Sự hoản việc giết hại, không nên tức giận vì một nước man di nhỏ mà làm tổn thương thể-diện của triều-đình.
Vua Thái-Tông ban thơ khen rằng: Điền-Tích phô bày việc đời xưa mà răn dạy cho đời nay, nói thẳng không giấu giếm gì; ở địa vị ngôn-quan, không tùng a với ai, thật là xứng đáng tư-cách một bề tôi can-gián, đáng khen chuộng. Đối với quốc sự, ta đã suy nghĩ chín chắn, mỗi khi cử binh đánh nước phản-nghịch, đều có lý-do, chớ không phải là việc vô danh-nghĩa. Nước Giao-Chỉ gần mấy năm nay, xảy ra việc tiếm ngôi cướp nước, tiếp tục không ngừng, theo lời tâu của Quảng-Tây-Chuyển-Vận-Sứ thì nhà Đinh-Triền bị giặc hãm hại, rối loạn không khi nào yên, nhân-dân ở nước ấy, không biết nương tựa vào ai, Phương chi trải qua mấy triều, nước Giao-Chỉ đã triều-cống không ngừng, ta làm nhân-chủ nở nào không cứu vản, nên mới cho đạo quân ở biên-quận qua an-ủi dân ấy, mà không tham đất đai của họ, nay cho bãi quân rút về.
Năm Hy-Ninh thứ 9 (1076), nhà Tống, Trương Phương-Bình dâng sớ lên Thần-Tông luận về việc phòng ngự Giao-Chỉ có 10 điều, điều thứ 9 có nói:
Các vị tổ-tông bản-triều, mỗi khi gặp những việc lớn ở biên giới, từng đem ra bàn luận với nhiều người. Nay vì việc An-nam, ta đã dấy binh chinh-phạt là một sự phải vượt qua nguy-hiểm, lợi hại rất nhiều, nhưng Thánh-chỉ đã định trước, lời bàn trong nước đã đồng ý, vậy kính xin đặc biệt hạ chiếu-thư, khiến các bề tôi trong triều và ngoài quận, đều dâng lên kế-sách để tỏ đường lối của triều-đình là thăm dò ý-kiến của mọi người, ngõ hầu bốn phương biết ý của Bệ-Hạ là thận-trọng, ba quân biết lòng của Bệ-Hạ là nhân-ái và nhân đó xét lời phải trái, lại được biết tài trí của quần-thần. Người ngu lo nghĩ ngàn điều, tất có một điều phải lẽ, lựa chọn cái hay nhỏ mọn mà làm, không phải là vô ích.
Bài sớ của quan Giám-Sát Ngự-Sử là Thái-Phụng-Hỷ trong năm Hy-Ninh thứ 10 (1077) dâng lên vua Tống-Thần-Tông về việc chinh phạt Giao-Chỉ lần thứ hai:
Tôi nghe Hán-nho nói rằng: "Đấng Thánh-nhơn lấy độ lượng bao dung thiên-hạ", trong truyện thì nói "sông, biển dung nạp những đồ ô uế, đấng quốc quân thì bao hàm cả sự trần cấu", xem thế đủ biết việc trị loạn giữa thiên-hạ là vô cùng, nếu so tính từng tý từng ly, thì sợ rằng không hợp với đạo-lý. Vì vậy, thánh-nhơn cho là phong tục ở chỗ hoang-phế nên lấy sự "bất trị" để cai trị, mà thiên-hạ đều được thống trị một cách yên ổn. Từ khi bọn giặc Giao-Châu không qui thuận, trong một góc nhỏ mọn, mà quân lính kế tiếp chết đường, người chuyển-vận lương hướng cũng tiếp tục chết bịnh số nhiều, tốn phí của trong nước kể hàng ức vạn; trải năm nọ qua tháng kia, cũng đã mệt nhọc lắm rồi, mà sở đắc mấy châu Quảng-Nguyên mà thôi. Núi cùng biển độc, Giao-Châu là nơi vực sâu bụi rậm dầy đặc sương mù, hơi độc xông lên, làm cho diều quạ đang bay bị rơi xuống; khí ẩm-thấp, theo gió tràn lan làm cho người sinh bệnh; cơ hồ không phải một cảnh giới có người, tuy có lấy được hết toàn cõi cũng không ích gì cho thiên-hạ. Về vấn-đề trị tội An-nam, thì An-nam đã chịu lỗi rồi. Đời trước, mọi Tam-miêu không phục tùng, vua Thuấn chỉ đánh bảy tuần rồi lui quân về; việc làm hợp nghĩa, không gì hơn nữa. Bấy giờ hai tướng Quách-Quỳ, Triệu-Tiết, còn ở lại Giao-Châu, quân lính phải đi chưa trở về dinh ngũ, dư-luận huyên truyền, cho rằng Lý-Càn-Đức còn dụng kế tiềm tàng, chưa hẳn chắc đầu hàng, nên triều đình lại muốn đem quân tới đánh, ... không biết có phải thế không? Tôi nghĩ rằng tục mọi rợ ở ngoài khu-vực hoang-phố, phải dùng thông-ngôn, mới tới xứ nó được; ở đời Tam-Đại (Hạ, Thương, Chu) đã có cách cai trị rõ ràng, chu đáo, nhưng cũng coi xứ ấy không đáng trị. Vì sao vậy? Là vì không muốn lấy việc nơi xa làm nhọc cho chỗ gần và lấy việc bên ngoài để làm phiền cho người trong nước.
Nay triều-đình lấy cớ bọn man di hay đi cướp bóc, nên đã thu hết đất của chúng và giết tên cầm đầu, nhưng bè đảng của chúng còn sót lại, sợ chúng ngày sau còn khởi sự làm loạn, thì chỉ dùng bọn Quỳ và Tiết để làm Thái-Thú, khiến chúng khiếp sợ cái oai lược của cuộc chinh-phạt mà không dám quấy rối nữa. Nếu vạn nhất có cuộc xuất-chinh lần thứ hai, thì tôi xin phải giảng bàn lo nghĩ cho kỷ-càng, cho người ở Quế-Châu và Quảng-Châu, yên nghĩ vài năm, chờ khi vết thương đã bình-phục, sẽ bàn lại việc chính-thảo, không nên khinh-suất, để tỏ độ-lượng to tát của Bệ-Hạ dung nạp cả những loài ô uế. Tôi thật người kiến-thức cạn, nói thô-sơ, có động chạm đến oai trời, xin chịu tội.
An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Ngũ Chung

Chú Thích:
Sách Tả-Truyện, Ẩn-Công năm thứ 11 chép: không đo đức, không lường sức, không thương yêu người thân, không chứng minh lời nói, không xét mình là có tội, phạm năm điều không phải, mà đi chinh phạt người khác.

Sách Luận-Ngữ, Khổng-Tử nói: người quân-tử có 3 điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại-nhân, sợ lời nói của thánh-nhân.

Chấp-sự là người có phận sự làm một việc gì, ở đây nhà Nguyên dùng để gọi vua An-nam.

Hậu-Chí: Đời nhà Hạ vua Đại-Võ họp 800 nước Chư-hầu, chỉ có nước Phòng-Phong tới sau, bị vua Võ giết.

Quyền "Phế-trí" tức quyền có thể tự lập hoặc tự phế vua.

Chinh: Tới mà chính tội-danh, người trên trị tội, người dưới phải chịu tội, không kháng cự lại, nghĩa là để giữ trật-tự.

Chiến: Tới đánh có ý cướp đất đai của cải, cho nên phe bị đánh phải dùng võ-lực kháng-cự, có cuộc thắng bại, không kể trật-tự, ai mạnh nấy được.

Tức chỉ Sĩ-Nhiếp.

Châu-Quan tức chỉ Hợp-Phố. Thời Tam-quốc, nhà Ngô đổi tên Hợp-Phố làm Châu-Quan.

Cửu nghĩa là chín (9). Điện nghĩa là khu, cõi. Vùng quanh thành nhà vua cách 500 dặm gọi là điện. Ngoài cửu-điện nghĩa là ngoài9 cõi, cũng như ngoài 9 châu, tức là những nước xa xôi.

Nhà Minh-Đường, Bích-Ung là điện đài nhà vua, dùng để họp Hội-Đồng, tiếp tân, giảng sách, v.v... có đồ nhạc-khí, ca hát, có lễ-nghĩa, trật-tự, ...

Bảy đức hay là: Cấm bạo, trấp binh, bảo đại, định công, an dân, hoà chúng, phong tài. "Xuất Tả Truyện Tuyên công năm thứ 12".

HOMECHAT
1 | 1 | 244
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com