watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
00:54:1327/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Xứ Phật Huyền Bí
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Tất cả các trang
Trang 15 trong tổng số 15

Chương 14

Sư Phụ Từ Trần Và Phục Sinh


Không hề quên lời yêu cầu của Sư Phụ tôi về việc viết lại tiểu sự của đức Lahiri Mahasaya. Trong thời gian tôi ở Ấn Độ, tôi không bỏ qua cơ hội nào để tiếp xúc với những vị đệ tử của ngài. Tôi ghi chép những tài liệu thu thập được và lập thành những tập hồ sơ dầy cộm, tôi kiểm chứng lại các sự việc, ngày tháng, và lượm lặt những hình ảnh, thơ từ cũ cùng nhiều tài liệu văn kiện khác. Những tập hồ sơ quá dầy, và tôi đã nhìn thấy trước với sự e ngại rằng công việc soạn thảo đòi hỏi rất nhiều công phu khó nhọc. Tôi bèn cầu nguyện ơn trên cho tôi đủ sức đảm nhiệm vai trò làm người viết tiểu sử của đức Tôn Sư cao cả. Nhiều vị đệ tử e ngại rằng trong một bản văn kiện chép lại, hình ảnh của Tôn Sư có thể bị giảm thiểu hay bóp méo. Một vị để tử nói:

- Ngôn ngữ văn tử không đủ diễn tả cuộc đời của một bậc thánh nhân.

Những đệ tử thân tín khác cũng muốn chôn chặt trong đáy lòng những kỷ niệm về vị Tôn Sư của họ. Tuy vậy, trung thành với lời tiên tri của Lahiri Mahasaya về việc chép tiểu sử của ngài, tôi không từ bỏ một cố gắng nào để thu thập những tài liệu từng chi tiết nhỏ nhặt về cuộc đời của ngài.

Ở Brindaban, tu sĩ Keshaha tiếp đón chúng tôi một cách nồng hậu tại đạo viện của người, một ngôi đền kiến trúc đồ sộ bằng gạch có vườn hoa rất đẹp chung quanh. Tu sĩ đã gần chín mươi tuổi nhưng vẫn còn tráng kiện đầy đủ sức khỏe. Râu tóc dài và trắng như tuyết, đôi mắt tinh anh vui vẻ, tu sĩ giống như một vị tộc trưởng thời xưa. Tôi cho tu sĩ biết ý định của tôi là sẽ nhắc đến tên người trong một quyển sách mà tôi sắp viết nói về các bậc danh sư Ấn Độ.

- Xin đại đức kể cho nghe vài điều về cuộc đời của ngài.

Tôi cố gây cảm tình, vì những bậc tu sĩ cao niên thường ít khi hay nói chuyện. Tu sĩ có một cử chỉ rất khiêm tốn:

- Đời tôi ít có những sự biến cố thăng trầm. Tôi trải qua phần lớn cuộc đời trong những vùng hẻo lánh trên dãy Tuyết Sơn, và đi bộ từ hang này đến động khác. Tôi có trông nom một đạo viện nhỏ trong một thời gian ở gần Hardwar, giữa những rừng cây to lớn. Đó là một nơi lý tưởng, ít có khách viếng thăm vì vùng ấy có rất nhiều rắn hổ mang.

Tu sĩ nói xong bèn cười.

- Về sau, một trận lụt của sông Hằng làm sụp lở cuộc đất, cuốn trôi mất đi cả đạo viện lẫn cả các ổ rắn. Các đệ tử của tôi mới giúp tôi xây cất đạo viện Brindaban.

Một người trong nhóm chúng tôi hỏi tu sĩ làm cách nào để khỏi bị cọp trên dãy Tuyết Sơn làm hại. Tu sĩ lắc đầu:

- Người Yogi đạt tới một trình độ tâm linh khá cao không còn sợ bị loài thú dữ làm hại. Có một lần ở giữa rừng tôi tình cờ chạm trán với một con cọp. Tôi bèn kêu lên một tiếng vì ngạc nhiên thì con cọp đứng sựng lại và trở nên bất động như một pho tượng đá!

Tu sĩ Keshaba lại cười về chuyện kỷ niệm đó.

- Đôi khi tôi cũng rời khỏi chỗ trú ẩn để viếng thăm Sư Phụ tôi ở Bénarès. Người thường hay nói đùa về những chuyến đi ta bà của tôi trong những vùng núi non hẻo lánh. Có lần Sư Phụ nói với tôi:

- Con có mang ở dưới chân con những ấn chứng của sự phiêu lưu. Thầy cũng mừng vì dãy Tuyết Sơn cũng khá rộng lớn đối với con.

Tu sĩ Keshaba nói tiếp:

- Có nhiều lần Sư Phụ xuất hiện đến với tôi trong thể xác phàm, bằng xương bằng thịt, dù là trước hay sau khi đã từ trần! Đối với Sư Phụ không có đỉnh núi cao tột nào mà ngài không thể đến được!

Hai giờ sau, tu sĩ Keshaba đưa chúng tôi vào phòng ăn. Tôi thốt ra một tiếng thở dài: “Lại một bữa tiệc thịnh soạn sắp dọn ra!” Từ khi trở về Ấn Độ đến nay chưa đầy một năm, tôi đã lên hơn hai chục kí lô! Tôi cũng không biết làm sao hơn vì thật là một điều vô lễ mà từ chối những món ăn cao lương mỹ vị được nấu nướng đặc biệt để thết đãi tôi. Ở Ấn Độ, và không một nơi nào khác, than ôi! Lại có sự mâu thuẫn là: Một tu sĩ xuất gia có hình vóc mập mạp, nặng cân, lại được thiên hạ nhìn bằng cặp mắt kính nể!

Sau bữa tiệc, tu sĩ Keshaba nói riêng với tôi:

- Việc đại đức đến đây không phải là chuyện bất ngờ. Tôi có một thông điệp nhắn với đại đức.

Tôi lấy làm ngạc nhiên vì không ai có thể biết rằng tôi có ý định viếng thăm tu sĩ Keshaba. Tu sĩ nói tiếp:

- Hồi năm ngoái, tôi đang đi ngao du trên miền bắc dãy Tuyết sơn, gần Badrinarayan. Tôi đi lạc đường và tìm nơi trú ẩn trong một cái động lớn, động ấy hoang vắng, nhưng tôi thấy có một đống than hồng cháy âm ỉ dưới một lớp tro phủ lên trên, trong một lỗ trống dưới đất. Tôi tự hỏi không biết ai là người trong động đá này, tôi bèn ngồi gần bên đống lửa và nhìn về phía cửa hang. Bỗng nhiên có tiếng gọi phía sau lưng tôi:

- Keshaba, ta rất vui vì con đã đến đây.

Tôi bèn quay đầu nhìn lại, thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy đức Babaji! Đức Tôn sư cao cả đã hiện hình ra ở phía sau động đá. Tôi lấy làm hân hạnh mà được gặp ngài trở lại sau bao nhiêu năm xa cách, tôi bèn quỳ lạy dưới chân ngài. Đức Babaji bèn giải thích:

- Ta gọi con đến đây. Bởi đó, con mới đi lạc đường và tìm nơi trú ẩn nơi động đá này, là chỗ tạm thời của ta. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi chúng ta gặp nhau lần trước và ta rất vui mà gặp con trở lại.

Tôn Sư bất tử ban ân huệ cho tôi và nói thêm:

- Đây là thông điệp mà ta muốn nhắn gửi với Yogananda, y sẽ đến thăm con khi y trở về Ấn Độ. Y sẽ bận rộn rất nhiều việc liên quan đến Sư Phụ y và những đệ tử còn sống của Lahiri Mahasaya. Bởi vậy, con hãy nhắn với y rằng ta sẽ không gặp y lần này như y đang nhiệt thành mong ước, mà sẽ gặp y vào một dịp khác.

Tôi lấy làm vô cùng cảm động mà nhận được lời hứa hẹn của đức Babaji do tu sĩ Keshaba chuyển đạt cho tôi. Sự thất vọng của tôi liền tiêu tan, tôi không còn cảm thấy bâng khuâng vì đức Babaji không xuất hiện tại thánh lễ Kumbha Mela như Sư Phụ tôi đã nói trước.

Nhóm chúng tôi ngủ đêm tại đạo viện để sáng ngày hôm sau lên đường đến Calcutta. Vài ngày sau đó, khi về đến Calcutta, tôi rất buồn mà được biết Sư Phụ tôi đã rời khỏi đạo viện Serampore để đi Puri, cách đó độ ba trăm dặm về phía nam.

“Hãy đến Puri ngay lập tức.” Bức điện tín đó do một đệ tử Puri gửi ngày 8 tháng 3 năm ấy cho một đệ tử khác của Sư Phụ ở Calcutta. Khi tôi được biết về bức điện tín đó, hoảng kinh, tôi bèn quỳ xuống cầu nguyện Thượng Đế hãy cứu sống cho Sư Phụ tôi. Khi tôi sắp sửa rời khỏi nhà để đi ra ga xe lửa, tôi nghe một tiếng nói từ bên trong nội tâm:

- Con đừng đi Puri chiều nay. Lời cầu nguyện của con không được đáp ứng.

Tôi buồn thảm vô cùng, bèn thốt lên mấy lời:

- Ôi Thượng Đế! Ngài không muốn cho con đi Puri bởi vì Ngài bác bỏ lời cầu nguyện của con xin cho Sư Phụ được sống. Nếu vậy, cầu xin Sư Phụ con rời khỏi cõi trần này để theo đuổi một định mệnh cao cả hơn, nhân danh Ngài!

Tuân theo mật lịnh từ Chân Ngã của tôi vọng ra, tôi không đi Puri chiều hôm ấy. Chiều hôm sau, tôi đi ra nhà ga. Dọc đường tôi thấy một đám mây đen như mực bao phủ khắp nền trời. Sau đó, trong khi chuyến xe lửa chạy về phía Puri, tôi thấy một linh ảnh Sư Phụ đang ngồi, nét mặt nghiêm trọng lạ thường, với một ánh hào quang rất sáng chói bên cạnh người.

- Phải chăng thế là hết?

Tôi vừa hỏi, vừa chắp hai tay lên trong một cử chỉ van lơn.

Sư Phụ gật đầu, rồi cái linh ảnh tan biến dần.


Chiều hôm sau, tôi bước lên nhà ga Puri, và chấp nhận việc đã rồi. Thình lình, một người lạ mặt bước đến gần tôi.

- Đại đức biết Tôn Sư đã mất hay chưa?

Nói xong, y liền đi ngay, không nói thêm gì nữa. Tôi không hề biết y là ai, và do bởi đâu đã tìm thấy tôi.

Tâm thần bấn loạn, tôi dựa vào tường và hiểu rằng Sư Phụ tôi muốn loan báo cho tôi biết tin chẳng lành đó bằng đủ mọi cách. Về đến đạo viện, tôi gần như muốn xỉu. Tiếng nói nội tâm lại như nhắc nhở tôi: “Con hãy bình tĩnh lại, và giữ vững tinh thần.”

Tôi bước vào phòng, nơi đó tử thi đã lạnh của Sư Phụ đặt ngồi theo tư thế liên hoa, vẫn còn vẻ tươi như hồi còn sống. Ít lâu trước khi từ trần, Sư Phụ đã lên cơn sốt, nhưng một ngày trước khi viện tịch, người có vẻ hoàn toàn bình phục. Nhìn thi thể Sư Phụ lúc ấy, không ai ngờ rằng người đã mất. Da vẫn mịn màng, bóng láng, nhưng nét mặt biểu lộ rõ sự an khang khôn tả. Sư Phụ đã bỏ xác hoàn toàn ý thức vào giờ đã điểm, khi Thượng Đế gọi người trở về.

Tôi kêu trong cơn thất vọng:

- Vị Thánh Sư của tỉnh Bengale không còn nữa!

Ngày 10 tháng 3, tôi đứng ra điều khiển lễ tống táng. Thi hài Sư Phụ được đem mai táng theo nghi lễ cổ truyền của dòng tu Swami. (Theo phong tục Ấn Độ, tục hỏa táng áp dụng cho tất cả mọi người, trừ ra những trường hợp rất hiếm mà những vị tu sĩ, đạo sĩ chân tu đắc Đạo có thể đem mai táng sau khi chết, vì thi thể các vị ấy được coi như đủ tinh luyện bằng ngọn lửa minh triết, không cần phải thiêu xác nữa.) Về sau, các đệ tử khắp nơi ở Ấn Độ đều tề tựu đến Puri để tưởng niệm Sư Phụ trong những cuộc lễ bốn mùa hằng năm.

Tôi trở về Calcutta. Hằng ngày tôi bận rộn với nhiều công việc: Thuyết pháp công cộng, lớp giảng Yoga, tiếp quan khách bằng hữu. Tuy vậy, tâm hồn tôi đã mang một vết thương sâu đậm sau khi Sư Phụ từ trần, và tôi tự hỏi:

- Bây giờ linh hồn Sư Phụ thiêng liêng tiêu diêu ở cõi nào?

Câu trả lời không thấy đến, nhưng lý trí của tôi thầm nhủ:

- Sư Phụ đã phản bổn hoàn nguyên và hợp nhất với Chân Như Đại Thể của vũ trụ, và đó là điều phúc lạc lớn nhất của người. Từ nay, người sống trong cõi Vô Cùng, là nơi mà sự chết không còn nữa.

Đồng thời, tình cảm của tôi lại than van:

- Từ nay, ngươi sẽ không còn gặp lại Sư phụ tại đạo viện cổ kính ở Serampore nữa. Ngươi sẽ không còn đưa bạn bè đến dưới chân Sư Phụ mà nói rằng: “Hãy nhìn xem, đó là bậc thánh sư minh triết của Ấn Độ!”

- Đức Krishna!

Linh ảnh huy hoàng của đức Krishna xuất hiện đến với tôi giữa một vầng hào quang sáng chói, khi tôi đang ngồi trong phòng khách sạn ở Bombay. Linh ảnh ấy xuất hiện trước đôi mắt kinh ngạc của tôi ngay trên nóc một ngôi biệt thự lớn ở trước mặt, khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ từng lầu ba.

Hình ảnh thiêng liêng ấy vừa mỉm cười vừa ra dấu như thiện cảm đối với tôi. Tôi đang tự hỏi về cái ý nghĩa của linh ảnh ấy, thì đức Krishna liền biến mất, sau khi đã ban ân huệ cho tôi. Trong lòng phấn khởi nhẹ nhàng, tôi cảm thấy linh ảnh này báo hiệu những biến cố quan trọng sắp tới về phương diện tâm linh.

Nhiều buổi thuyết pháp còn giữ tôi lại ơ Bombay trong ít lâu, sau đó tôi sẽ trở về tỉnh Bengale.

Trong ngày 19 tháng 6, năm 1936, đúng một tuần sau cơn linh ảnh về đức Krishna, tôi đang tham thiền trong gian phòng khách sạn nói trên, thì một ánh sáng huyền ảo kéo tôi khỏi cơn tĩnh tọa. Khắp phòng đều biến thành một cảnh giới hư ảo, ánh sáng mặt trời bỗng nhiên biến thành một thứ ánh sang phi phàm.

Giữa lúc đang say sưa ngây ngất, tôi nhìn thấy Sri Yukteswar xuất hiện trước mắt tôi, bằng xương bằng thịt:

- Hỡi con!

Sư Phụ nói với một giọng êm dịu, một nụ cười hiền hòa nở trên gương mặt phúc hậu như thiên thần.

Lần đầu tiên trong đời, tôi không quỳ xuống dưới chân Sư Phụ như mọi khi, mà tôi đưa hai tay ôm lấy người cứng. Sự bâng khuâng khắc khoải trong những tháng qua thật không có nghĩa gì so với niềm hạnh phúc vô biên của tôi trong lúc ấy.

- Bạch Sư Phụ kính yêu, tại sao Sư Phụ đã bỏ con?

Sự vui mừng quá trớn làm cho tôi nói đứt đoạn, rời rạc.

Tại sao Sư Phụ lại để cho con đi dự Thánh Lễ Kumbha Mela? Con đã tự trách mình một cách cay đắng dường nào vì đã bỏ Sư Phụ mà đi!

- Thầy không muốn làm trái ý con khi con đang hy vọng gặp đức Babaji ngay tại chỗ ngài đã xuất hiện đến với Thầy. Thầy chỉ bỏ con trong một lúc ngắn ngủi, phải chăng từ nay Thầy vẫn bên cạnh con mãi mãi!

- Nhưng phải có Sư Phụ thật chăng? Phải chăng Sư Phụ vẫn mang lấy cái thể xác bằng xương bằng thịt mà con đã chôn dưới lòng đất ở Puri?

- Phải, con hỡi, đây chính là Thầy. Đây là cái thể xác bằng máu thịt của Thầy. Nó vốn tinh anh và tế nhị đối với nhãn quang siêu đẳng của Thầy, nhưng đối với con, thì nó là một thể xác vật chất. Thầy, đã dùng những nguyên tử của vũ trụ để cấu tạo nên một thể xác hoàn toàn mới, giống như cái thể xác mộng ảo hư giả mà con đã chôn ơ Puri, dưới lòng đất lạnh của một thể xác mộng ảo. Thật vậy, Thầy đã hồi sinh, nhưng không phải trên cõi trần thế, mà trên một cõi giới thanh cao hơn, trên đó những nhân vật đều tiến hóa cao hơn nhân loại ở dưới trần. Con và những người thân yêu của con có ngày cũng sẽ thăng thiên lên cõi ấy và sum họp với Thầy.

Tôi nhìn Sư Phụ với lòng kính yêu khôn tả trong khi người nói cho tôi biết trạng thái của con người ở bên kia cửa Tử. Tôi nói:

- Bạch Sư Phụ mến yêu, thể xác của Sư Phụ bây giờ giống y như cái thể xác mà con đã khóc ơ đạo viện Puri.

- Phải đấy, thể xác mới của Thầy làm một bổn sao đúc y như khuôn khổ thể xác cũ. Thầy có thể tạo nó thành hình hay giải thể nó tan biến đi tùy ý muốn, và có thể làm lại như vậy thường xuyên là ở cõi trần. Khi giải thể, trong chớp mắt Thầy có thể di chuyển với tốc lực của ánh sáng từ bầu hành tinh này tới bầu hành tinh khác, từ cõi giới này đến cõi giới khác.

Sư Phụ mỉm cười nói tiếp:

- Tuy con thường di chuyển trong những ngày gần đây, Thầy vẫn tìm lại con dễ dàng tại Bombay!

- Bạch Sư Phụ, cái chết của Sư phụ đã làm con đau khổ rất nhiều!

- Ta đã chết thật chăng? Thật là một điều vô lý!

Cặp mắt Sư Phụ chiếu lóng lánh tình thương và biểu lộ sự vui vẻ. Người lại nói thêm:

- Cõi thế gian là mộng ảo nên con chỉ nhìn thất cái có thể xác hư ảo của Thầy. Kế đó, con đã chôn cái xác đó, vốn là một vật hư giả mộng ảo. Bây giờ, cái thể xác bằng xương bằng thịt này, mà con đang quan sát và ôm chặt lấy nó, đã hồi sinh trên một cõi giới khác, cũng lại là một điều mộng ảo khác nữa. Một ngày kia, cái thể xác tinh anh này và cái cõi giới của nó, cả hai đều là mộng ảo, cũng tan biến đi mất vì tất cả chỉ là phù hoa giả tạm. Bất cứ ảo mộng nào cuối cùng cũng phải tan vỡ khi ta thức tỉnh. Yogananda con hỡi, con hãy biết phân biệt điều mộng ảo với điều chân thật!

Cái ý niệm về sự hồi sinh theo triết hệ Védanta đó làm cho tôi thán phục vô cùng. Tôi lấy làm hổ thẹn mà đã khóc Sư Phụ ở Puri, khi tôi nhìn thấy cái thể xác bất động của người. Từ nay tôi đã biết rằng Sư Phụ vẫn luôn luôn còn sống và thức tỉnh nơi Thượng Đế, đối với người thì kiếp sống vừa qua chỉ là tạm thời, cũng như sự hồi sinh của người trong lúc hiện tại, và tất cả những trạng thái đó đều là những đối tượng trong vòng ảo ảnh của vũ trụ. Sư Phụ nói tiếp:

- Bây giờ, Yogananda con hỡi, con đã biết sự thật về sự sinh tử, và hồi sinh của Thầy. Từ nay con đừng khóc than vì Thầy nữa, mà hãy báo tin về sự phục sinh của Thầy cho mọi người biết. Chừng đó, niềm hy vọng sẽ nhen nhúm trở lại trong lòng thế gian đau khổ, còn mê muội trong vòng vô minh hắc ám, mà sự chết vẫn thường làm cho họ sợ sệt!

- Bạch Sư Phụ, con sẽ hứng khởi xiết bao mà chia sẽ với toàn thể thế gian cái niềm vui về sự phục sinh đó!

Sri Yuteswar còn nói cho tôi biết nhiều điều huyền bí khác nữa mà tôi không thể tiết lộ nơi đây. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ người xuất hiện đến với tôi trong phòng khách sạn tại Bombay, người đã trả lời hết tất cả những câu hỏi của tôi. Nhiều lời tiên tri về tình hình thế giới đã được thực hiện.

- Bây giờ, hỡi con yêu quý, Thầy phải từ giã con!

Tôi cảm thất Sư Phụ từ từ thoát khỏi cái vòng tay ôm chặt của tôi. Giọng nói của Sư Phụ vang rền, gây nên một tiếng vọng lại từ trong nội tâm của tôi.

- Mỗi khi con đắm chìm trong cơn đại định, nhập thiền, và con kêu đến Thầy, Thầy sẽ ở bên cạnh con bằng sương bằng thịt, cũng như hôm nay!

Vừa nói dứt lời hứa hẹn thiêng liêng đó, Sư Phụ đã biến mất.

Sự buồn thảm vì chia ly nay đã tiêu tan. Sự đau xót bị thương vì cái chết của Sư Phụ, nó làm cho tôi mất sự bằng an trong nội tâm, từ nay không còn nữa. Một niềm phúc lạc triền miên không dứt, tràn ngập hồn tôi làm cho tôi say sưa ngây ngất. Những tư tưởng và cảm nghĩ trong lành, tinh khiết nhất vẫn làm trong tiềm thức của tôi, nay đã có dịp thức động và buộc khởi trở lại do cuộc viếng thăm huyền diệu của Sư Phụ.

Trong chương này, tôi tuân lịnh Sư phụ để loan báo cho người thế gian biết cái tin về sự hồi của người, dẫu rằng việc ấy sẽ gặp phải sự thờ ơ lãnh đạm của thế hệ duy, không tin tưởng. Tuy nhiên, bản tính con người vốn không phải là thấp hèn, sa đọa. Trong tương lai sẽ có lúc một sự cố gắng vận dụng ý chí cũng đủ gây cho con người một sự thức động tâm linh, và cứu cánh sẽ thúc đẩy y bước vào đường giải thoát.

Hết

Đạo Sư Mahasaya


Sư Mẫu, chính lịnh tôn sư đã làm phép truyền Đạo cho con. Tôn sư là Thầy của cha mẹ con và của sư phụ con, tức là Sri Yuteswar. Xin Sư mẫu hãy cho con có hân hạnh được nghe Sư mẫu kể lại cuộc đời của Tôn sư?

Tôi thưa những lời trên với Sư mẫu Kashi Moni, phu nhân của đức Lahiri Mahasaya. Nhân dịp đi ngang qua Bénarès, tôi quyết định thỏa mãn ước mơ mà tôi hằng ôm ấp từ lâu, là thăm viếng Sư Mẫu. Bà tiếp tôi một cách khả ái tại ngôi nhà cổ của gia đình bà. Tuy tuổi tác đã cao, bà có một gương mặt hồng hào tươi tỉnh, bao trùm bởi một bầu không khí tâm linh. Vóc dáng trung bình, bà có một nước da trắng, đôi mắt lớn trong sáng làm dịu hẳn gương mặt của một bậc hiền phụ. Bà nói với tôi:

- Chúc lành cho con, con hãy bước vào.

Sư mẫu Kashi Moni đưa tôi vào một nơi tịnh thất tại đây bà từng sống chung với đức phu quân của bà. Thật làm một sự hân hạnh cho tôi khi tôi được viếng nơi tịnh thất của vị Tôn Sư độc đáo, tại đây người đã từng đóng vai trò của một người chủ gia đình như mội người thế gian. Sư mẫu chỉ chỗ cho tôi ngồi trên một ghế lót nệm, ở bên cạnh bà. Sư mẫu bắt đầu nói:

- Nhiều năm đã trôi qua trước khi tôi biết được tính chất thiêng liêng của phu quân tôi. Một đêm nọ, chính trong phòng này, tôi nằm mơ thấy một linh ảnh nhiệm mầu. Các vị thiên thần bay lượn nhẹ nhàng trên đầu tôi. Phu quân tôi, ngồi trong tư thế liên hoa, cũng lơ lửng trên không, với các vị thiên thần bao vây chung quanh. Vô cùng ngạc nhiên khôn tả, tôi vẫn không biết là tôi đang mơ. Lahiri Mahasaya nói:

- Em hỡi, em không mơ đâu. Em hãy từ bỏ sự ngủ mê của linh hồn em.

Lúc ấy, phu quân tôi mới từ từ hạ xuống đất, tôi liền quỳ lạy dưới chân người, và nói:

- Bạch Tôn sư, xin người hãy tha thứ cho tôi sự điên rồ đến mức vẫn coi như người là chồng tôi. Tôi hổ thẹn xiết bao mà thấy rằng tôi vẫn ngủ mê trong sự vô minh bên cạnh một người đã thức tỉnh trong cõi thiêng liêng. Kể từ đêm nay, người sẽ không còn là chồng tôi nữa, mà là Thầy tôi. Tôn sư có vui lòng nhận kẻ hèn này làm đệ tử chăng?

Tôn sư bảo tôi:

- Hỡi linh căn thánh thiện, hãy đứng dậy. Tôi bằng lòng nhận.

Người chỉ các vị thiên thần:

- Em hãy nghiêng mình trước mỗi vị thiên thần này.

Khi tôi đã nghiêng mình kính cẩn chào mừng hết tất cả các vị, những giọng nói của các thiên thần đồng thanh vang rền:

- Hỡi phu nhân cao cả! Chúng tôi xin chào mừng phu nhân!

Các vị liền cúi chào dưới chân tôi và biến mất. Linh ảnh ấy rõ ràng thật sự đến nỗi làm cho tôi thức dậy liền khi đó, một ánh sáng rạng ngời tràn ngập khắp phòng. Tôn sư bèn dạy tôi hãy làm lễ nhập môn theo pháp môn Kriyâ Yoga.

Tôi nói:

- Tôi tiếc là không được biết pháp môn này sớm hơn để thánh hóa cuộc đời tôi.

Lahiri Mahasaya nói với một nụ cười an ủi:

- Đó là bởi vì thời giờ chưa đến. Tôi đã âm thầm cứu chuộc trong vòng bí mật một phần lớn nghiệp quả của em. Bây giờ, em đã chuẩn bị sẵn sàng và đã bằng lòng, thì nay mới đúng lúc.

Tôn sư bèn đặt bàn tay lên trán tôi. Một vầng ánh sáng xoay vòng hình trôn ốc xuất hiện và lần lần biến thành một ngôi sao năm nhánh.

- Cầu cho tâm thức của em hòa hợp với cõi Thiêng Liêng Tuyệt Đối xuyên qua ngôi sao này.

Giọng nói của Tôn Sư vọng lại như một khúc nhạc văng vẳng từ đằng xa. Những linh ảnh nối tiếp theo sau những linh ảnh cũng như các đợt sóng ngoài biện cả, diễn ra trước nhãn quang tâm linh của tôi. Kế đó, những chân trời sáng chói đổi thành một biển tràn đầy một niềm phúc lạc nó lôi cuốn lấy tôi và làm cho tôi ngất lịm đi không còn ý thức về ngoại cảnh. Khi tôi tỉnh dậy vài giờ sau đó, Tôn Sư truyền thụ cho tôi bí thuật của môn Kriyâ Yoga.

Kể từ đêm đó, Tôn Sư không còn ngủ trong phòng tôi nữa, vả lại người có cần ngủ đâu, và chỉ ở gian nhà tầng dưới cùng với các đệ tử, ngày cũng như đêm".

Sư Mẫu Kashi Moni đắm chìm trong cơn im lặng, và tôi phải xin bà kể lại những kỷ niệm khác về cuộc đời của Tôn Sư.

Sư Mẫu mỉm cười và nói:

- Tôi phải thú nhận tội lỗi đối với Tôn Sư. Vài tháng sau lễ nhập môn, tôi bắt đầu cảm thấy bị bỏ rơi và cảm thấy cô đơn. Một buổi sáng Tôn Sư bước vào phòng. Sẵn bất mãn trong lòng, tôi liền trách móc: "Ông dành hết tất cả thời giờ cho các đệ tử ông, và hoàn toàn bỏ phế trách nhiệm đối với vợ con. Tôi rất tiếc rằng ông không hề lo nghĩ gì đến việc trợ cấp thêm ít tiền bạc để chi dụng trong gia đình".

Tôn Sư nhìn tôi một lúc và thình lình, không hề rời khỏi chỗ, người đã tàng hình biến mất. Kinh hoảng, tôi nghe tiếng người vang rền trong gian phòng trống trơn:

- Em thấy chăng, tất cả đều là hư không. Làm sao một vật hư không như tôi có thể đem tiền bạc cho em?

- Bạch Tôn Sư, em xin lỗi, muôn vàn lần xin người thứ lỗi! Đôi mắt tội lỗi của em không còn nhìn thấy Tôn Sư nữa. Xin Tôn Sư hãy hiện hình trở lại trong thánh thể của người!

- Có ta đây!

Những lời này vang rền ở phía trên đầu tôi. Tôi ngẩn đầu nhìn lên thì thấy Tôn Sư hiện hình trong khoảng không, đầu đụng tới trần nhà. Đôi mắt người phóng ra những tia chớp sáng lòe làm chóa mắt tôi. Kinh sợ thất thần, tôi bèn sụp lạy, vừa úp mặt xuống đất vừa khóc nức nở khi Tôn Sư bình tĩnh hạ xuống đất. Người nói:

- Em hỡi, hãy tìm kiếm sự phong phú tâm linh thay vì những của cải vật chất bỉ ổi của trần gian. Khi em sở đắc được cái kho tàng tâm linh đó, em sẽ thấy rằng những lợi lộc vật chất tự nhiên sẽ đến.

Người lại nói: "Một trong các người con tâm linh của ta sẽ đáp ứng mọi nhu cầu vật chất của em".

Những lời nói của tôn sư đã được thực hiện, một vị đệ tử cúng dường một số tiền lớn để trợ cấp cho gia đình chúng tôi.

Tôi cám ơn Sư Mẫu Kashi Moni đã thuật lại cho tôi nghe những kỷ niệm quý báu. Ngày hôm sau tôi lại đến nhà Sư Mẫu và có dịp đàm luận về triết lý với Tincuri và Ducuri, hai người con trai của đức Lahiri Mahasaya. Hai anh em đều cao lớn, mạnh khỏe, có một bộ râu đen dầy, giọng nói êm dịu, và những dáng điệu lịch sự, theo lối cổ. Cả hai đều đang tu học để nối nghiệp cha mình.

Kashi Moni không phải là nữ đệ tử duy nhất của đức Lahiri Mahasaya. Tôn Sư còn có đến hằng trăm nữ đệ tử khác, trong số đó có mẹ tôi. Một vị nữ đệ tử tên là Abhoya cũng đã gặp đức Mahasaya trong một dịp đáng ghi nhớ. Ngày nọ, bà ấy thưa với Tôn Sư:

- Xin Tôn Sư cứu mạng cho đứa con thứ chín của con! Con có tám đứa đều chết yểu chỉ ít lâu sau khi sinh ra đời.

Tôn Sư mỉm cười, thương hại:

- Đứa con sắp tới của con sẽ được sống. Con hãy tuân theo một cách chặt chẽ những lời dặn của Thầy. Đó là một đứa con gái sẽ sinh ra trong đêm nay. Con hãy giữ cho cái đèn dầu còn cháy cho đến sáng, nhất là đừng để cho nó tắt trong khi con ngủ mê.

Con gái của Abhoya sinh ra trong đêm, đúng như đức Tôn Sư đã tiên đoán. Bà dặn người nữ trợ tá hãy châm đèn cho đầy dầu. Hai người đàn bà thức như vậy cho đến khuya, nhưng sau cùng thì ngủ thiếp đi. Cái đèn cạn dầu chỉ còn cháy leo lét và sắp sửa tắt.
Thình lình, cửa phòng ngủ mở ra với một tiếng động lớn. Hai người đàn bà liền thức giấc và trước đôi mắt kinh ngạc của họ, đức Lahiri liền xuất hiện:

- Abhoya, con hãy nhìn xem, cái đèn đã sắp tắt!

Người vừa nói vừa chỉ cái đèn, người nữ trọ tá liền hối hả châm thêm dầu. Kế đó, ngọn đèn lại sáng và Tôn Sư liền biến mất. Cái cửa phòng liền đóng lại và tự khóa chặt lấy nó.

Thế là người con thứ chín của Abhoya còn sống sót. Người con gái ấy vẫn còn sống vào năm 1955 khi tôi được tin tức của gia đình Abhoya.

Một trong những đệ tử của đức Mahasaya là Kâli Kumar Roy có thuật cho tôi nghe nhiều chi tiết lạ kỳ về cuộc đời y khi y sống bên cạnh Sư Phụ.

Roy kể chuyện như sau:

Tôi thường trải qua nhiều tuần nơi tịnh xá của Tôn Sư. Tôi nhận tháy rằng những tu sĩ dòng “Danda” mỗi đêm đều đến am thất ngồi dưới chân Tôn Sư. Đôi khi họ thảo luận về vấn đề tham thiền hay những vấn đề đạo lý cho đến sáng mới kiếu từ ra về. Trong những dịp sống tại tịnh xá, tôi nhận thấy rằng Tôn Sư không bao giờ ngủ.

Trong giai đoạn tiếp xúc đầu tiên với Tôn Sư, tôi đã gặp phải sự chống đối mãnh liệt của chủ tôi, một người có óc duy vật. Chủ tôi chế giễu:

- Tôi không muốn thâu dụng những kẻ cuồng tín. Nếu tôi gặp phải ông Thầy bịp bợm của anh, tôi sẽ cho y một bài học!

Lời hăm dọa đó suýt nữa đã làm cho tôi chấm dứt những cuộc viếng thăm tịnh xá. Tôi trải qua hầu như mỗi đêm tại nhà Tôn Sư; có một lần chủ tôi rình mò đi theo tôi và lọt vào phòng khác, hẳn là với ý định thi hành lời hăm dọa của ông ta. Khi ông ta vừa ngồi xuống thì đức Tôn Sư liền nói với một nhóm độ chừng mười hai người đệ tử:

- Các con có muốn xem một bức tranh không?

Chúng tôi đồng tình, Sư Phụ bèn ra lệnh tắt đèn và nói:

- Các con hãy ngồi thành vòng tròn, kẻ trước, người sau, và đưa hai bàn tay ra bịt mắt người ngồi đằng trước mình.

Tôi không ngạc nhiên mà thấy ông chủ tôi cũng vâng lời làm theo lệnh của Tôn Sư, hẳn là một cách miễn cưỡng. Sau vài phút đồng hồ, Tôn Sư hỏi chúng tôi nhìn thấy gì? Tôi đáp:

- Bạch Sư Phụ, con nhìn thấy một giai nhân mặc một chiếc áo Sari viền chỉ vàng, đứng bên cạnh một loại cây có lá rất toàn.

Những đệ tử khác cũng tả cảnh đúng y như thế. Tôn Sư bèn day qua ông chủ tôi và nói:

- Ông có nhận ra người đàn bà đó chăng?

- Thưa có!

Người chủ tôi cố đè nén cơn xúc động mạnh:

- Tôi đã hoang phí tiền bạc rất nhiều vì người đàn bà này, mặc dầu tôi đã có một người vợ hiền. Tôi rất hổ thẹn vì ý định nó đã đưa tôi đến đây. Tôn Sư có thể tha thứ cho tôi và nhận tôi là đệ tử chăng?

- Nếu ông sống một cuộc đời tốt lành gương mẫu trong sáu tháng, ông sẽ được chấp nhận.

- Nếu không, tôi sẽ không thu nhận ông.

Trong suốt ba tháng, chủ tôi chiến đấu với sự cám dỗ, nhưng rốt cuộc ông ta bại trận và lại nối tiếp liên lạc với người đàn bà kia. Hai tháng sau đó, ông ta từ trần. Khi đó tôi mới hiểu ý nghĩa lời nói úp mở của Sư Phụ về việc không thể thu nhận ông ta.

Lahiri Mahasaya có một người bạn đồng môn bản lĩnh rất cao cường, là Tôn Sư Trailinga, mà người ta nói rằng đã già đến gần 300 tuổi. Hai vị Yoga này thường tham thiền chung với nhau. Tôn Sư Trailinga nổi tiếng đến nỗi ít người Ấn Độ nghi ngờ những phép lạ của người làm. Nếu đấng Christ tái sinh và đi dạo trên các đường phố ở New York, điều ấy cũng không gây xúc động mạnh và sôi nổi trong dân chúng như việc xuất hiện của Trailing ở Bérarès cách đây khoảng vài chục năm.

Người ta thường thấy Tôn Sư nuốt nhiều thứ thuốc độc rất mạnh mà không sao cả. Hằng ngàn người, trong số đó hiện nay có nhiều người còn sống, đã từng thấy Trailinga ở Bénarès nổi trên mặt nước sông Hằng. Trong nhiều ngày, Tôn Sư nằm trên mặt nước, hoặc lặn xuống nước trong một thời gian rất lâu. Người ta thường thấy, trên bờ sông Hằng, tôn sư ngồi yên bất động trên bực thềm đá nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng mặt trời Ấn Độ. Bằng những việc lạ lùng đó, Trailinga định chứng tỏ rằng một người Yogi thoát khỏi sự trói buộc của vật chất, chẳng hạn như sự nhu cầu dưỡng khí và những thứ khác. Dầu ở trên mặt nước, hay ở dưới nước, dưới bóng mát hay dưới ánh nắng gắt của mặt trời, Tôn Sư chỉ sống bằng sức mạnh thiêng liêng: sự chết không còn xâm phạm đến người được nữa.

Quyền năng của Tôn Sư Trailinga không phải chỉ trên địa hạt tâm linh mà còn trên địa hạt vật chất. Người cân nặng trên 300 lbs, tính trung bình mỗi tuổi một pound! Ngoài ra người chỉ ăn rất ít và lâu lắm mới ăn một lần. Như thế một vị minh sư bất chấp mọi luật lệ khi nào điều đó có một lý do bí ẩn, mà chỉ có vị ấy biết mà thôi. Tôn Sư thường giữ giới tịnh khẩu. Tuy có một gương mặt tròn và bụng hơi lớn, Tôn sư Trailinga ít khi ăn uống, như đã nói ở trên. Sau khi không ăn uống gì trong nhiều tuần, người chỉ gián đoạn cơn tuyệt thực bằng vài chén sữa chua của các đệ tử đem cúng dường. Có một lần, một kẻ hoài nghi định dùng một cách thử để y chứng minh rằng Tôn Sư Trailinga chỉ là một tay đại bợm. Y đặt trước mặt Tôn sư một bình nước vôi để quét tường, làm bộ kính cần cúi đầu và nói:

- Bạch Tôn Sư, con xin cúng dường Tôn Sư một bình sữa tươi để ngài dùng.

Không do dự chút nào, Tôn Sư Trailinga cầm bình nước vôi uống hết sạch đến giọt cuối cùng. Trong giây lát kẻ đùa nghịch ác độc kia nhào lăn xuống đất và ôm bụng kêu trời:

- Bạch Tôn sư, xin Tôn sư cứu con! Bao tử con nóng như lửa cháy, xin Tôn Sư tha tội cho con!

Tôn Sư bèn từ bỏ cơn im lặng thường nhật và nói:

- Con há chẳng biết rằng khi con đưa chất độc cho ta uống, mạng sống của ta và con chỉ là một. Nếu ta không biết rằng Thượng Đế vốn hiện diện khắp nơi, ở trong bao tử của ta cũng như tiềm tàng trong mỗi hột nguyên tử của vũ trụ, thì ta đã bỏ mạng vì bình nước vôi ấy rồi. Bây giờ, con đã hiểu ý nghĩa thiêng liêng của quả báo dội ngược, con hãy đứng dậy và từ nay đừng gây nghiệp ác với bất cứ một người nào!

Kẻ đùa ác bị trừng phạt đích đáng, được chữa khỏi bởi lời nói của Tôn Sư Trailinga, bèn cúi đầu lủi thủi ra đi.

Việc đảo ngược sự đau đớn trở về cho người tác họa này không phải là do ý chí của Tôn Sư khiến ra như thế mà là do luật công bằng nó cai quản mọi sự sinh hoạt theo định luật chu kỳ của vũ trụ. Đối với một người đã có sự giác ngộ thiêng liêng như Tôn Sư Trailinga, định luật đó hành động một cách đương nhiên vì người đã hoàn toàn chinh phục được phàm ngã.

Luật công bằng thiêng liêng tác động một cách máy móc trong trường hợp Trailinga và kẻ đùa bỡn độc ác đó, an ủi chúng ta về mọi sự bất công trong xã hội loài người. Chúa trời đã nói: "Sự báo thù là ở trong tay Ta, hãy để cho Ta phát lạc mọi việc ân đền oán trả". Ta có cần gì phải nghĩ đến sự trả thù khi mà luật công bình của Trời Đất sớm muộn gì cũng giải quyết mọi sự vay trả, trả vay? Những người bất minh phủ báng sự công bằng, tìm bác ái và sự toàn tri thiêng liêng, họ cho rằng những điều đó đều là không tưởng, bịa đặt. Quan điểm thiển cận đó thật ra là sai lầm, và sự thật đã chứng minh trái ngược lại.

Ân huệ của Tôn Sư Trailinga cũng đã được ban rải cho người cậu tôi. Một buổi sáng, cậu tôi gặp Tôn Sư và một nhóm đệ tử nơi những bực thềm đá trên bờ sông Hằng ở Bénarè. Cậu tôi vạch một lối di xuyên qua đám đông để đến gần Tôn Sư Trailinga, cúi xuống làm lễ và sờ hai bàn chân của Tôn Sư, ngay tức khắc cậu tôi lấy làm vui mừng mà cảm thấy được chữa khỏi một chứng bịnh kinh niên làm cho người rất đau đớn khổ sở lúc bình thường.

Có một lần, Tôn Sư Trailinga quên sự im lặng thường nhật của mình để làm lễ trước đứa Lahiri Mahasaya giữa chốn công cộng. Một đệ tử phản kháng:

- Bạch tôn sư, với tư cách một bậc tu sĩ khổ hạnh và xuất gia, tại sao tôi sư lại làm lễ một cách quá tôn kính đối với người tu sĩ tại gia?

Trailinga đáp:

- Con hỡi, Lahiri Mahaysaya là người nắm giữ một vai trò thiêng liêng và một sứ mạng đặc biệt trong Thiên Cơ. Xét bề ngoài, người làm tròn những bổn phận của người gia trưởng, nhưng đồng thời người cũng có một sự giác ngộ tâm linh, là điều mà vì đó ta đã từ bỏ hết tất cả mọi sự chiếm hữu của cải vật chất của trần gian.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 145
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com