Chỉ mục bài viết |
---|
Chiếc Bài Ngà Phiêu Lãng |
Trang 2 |
Trang 3 |
Tất cả các trang |
Giọng Ngạn nhỏ dần như để chỉ mình nghe. Mấy tiếng sau mơ hồ, Vầm không hiểu ông thầy muốn nói gì. Hắn thò lõ mắt ra nhìn Ngạn đợi chờ. Đột nhiên, thấy anh hai tay ôm lấy cái bài ngà, con mắt đăm đăm nhìn xa vời dòng sông như đang khấn nguyện một điều gì...Một đợt gió ào ạt vang xa, mặt trăng mây che khuất. Tự nhiên Ngạn...ớn lạnh trong người. Anh trịnh trọng nói với thằng Vầm :
Chuyện gì liên quan tới cái này. Mày nói hết. Đừng có đùa giỡn ba hoa.
Tao báo cho biết. Linh vật, không phải tầm thường đâu.
- 5 -
...Khi ông già còn sống kể. Đời ông nội cũng lặn cát sạn, chuyên đóng khố còn nghèo cực hơn đời ông già. Một lần đội rổ lên bến đổ cát sạn xuống, ông nội thấy lòi ra cái vật lạ. Hay hay...Chẳng biết thứ chi ? Nghĩ là còn của quý vàng ngọc cũng không chừng, ông nội ráng lặn xuống nhiều lần nữa...Cứ thấy sáng loà ra trước mặt như bạc. Rõ ràng là có hai...
- Cái gì sáng như bạc ?
- Hai con cá gáy vảy bạc, to chưa từng thấy. Hễ gặp người lặn xuống tới nơi là cặp cá hiện ra, bơi qua bơi lại như canh giữ chi ở chỗ nớ. Ông nội phải lên. Sau hỏi xa gần, có người nói bài ngà nhà quan là thứ chẳng lành. Vật quý báu mà bán...không ai mua. Đem đi cho, chẳng có ai thèm lấy. Người ta nói cất chi thứ quyền uy, đã nhiều âm oán. Nhà mô vay...Đời con, cháu nấy trả. Mắc mớ chi, khi không đem về nhà ? Thầy thuốc Nam dặn đừng liệng đi. Ngà voi mài ra trị được chứng con nít khóc "Dạ đề" rất hay, cất phòng cho con cháu đời sau. Cứ bọc thiệt kín không hở ra gió máy. Lấy sáp "trừ tà" rồi bôi bùn "khử quý" đi. Do tà thì hay theo phong mà tới gọi là phong tà. Còn bôi bùn trét đất vô rồi thì quý chi nữa ? Ông nội thương con cháu không vất. Cứ để trong độc bình.
Quả nhiên, đến đời ông già...sinh ra thằng Vầm khóc "Dạ đề" thâu canh suốt sáng. Khóc lồi lỗ rún ra ngoài. Ông già nhớ sực việc xưa, lấy mài cho uống vài ba dạo thì lành. Từ đó không khi mô biết khóc lóc chi nữa. Lớn lên có cực...sún răng cũng cứ cười. Cái lạ !
Thằng Vầm lại nhăn răng ra...hô hố. Hắn nốc hết cốc và rồi tự thưởng bằng một cốc khác tràn be. Ngạn sửng sốt...Bây giờ nhìn rõ ràng, thằng Vầm sún mấy cái răng quá sớm. Hắn rung đùi bành bạch :
- Uống, ông thầy. Cực khóc lóc ai cho lon gạo. Ra là chỉ cười cho khoẻ. Cười chánh cống, nịnh nọt chi ai. Cũng nhờ cái vị thuốc Nam.
- Hồi tao ngủ...mơ. Mày có nghe khóc cười gì đó ?
- Không rõ. Mà thôi đi, chuyện ông thầy cao siêu. Ai hiểu...
Bổng nhiên Ngạn phá ra cười hết sức sảng khoái :
- Ở đời dạy nhau. Tiếc tao dạy mày quá ít. Mày dạy tao hơi"bị nhiều". Cứ như chuyện cái bài ngà đây là một. Còn nói cao siêu chó gì. Tự nhận tao là thằng dốt được chưa ? Uống...
Hai thầy trò chạm cốc, cười to. Cười "chánh cống". Ngạn lại mở bàn tay ra ngó chăm chăm. Cái bài ngà đem làm vị thuốc Nam đã là đặc biệt không ngờ. Lại trị chứng khóc đêm quả lại càng kỳ bí. Anh mày mò :
- Khi uống...thuốc thì mùi vị gì. Ra sao ?
- Lào khào trong cuống cổ không có mùi vị. Cái lạ...Một lúc sau nổi lên nghe ò e, lùng thùng trong lỗ tai to lắm. Tợ đờn ca xướng hát vui vẻ đủ thứ. Con nít nằm trong nôi nín khóc mà nghe. Riết chẳng cần ru hò chi cũng ngủ êm khi mô không biết.
Ngạn nín lặng nhìn mặt trăng tròn. Anh cầm mãi chiếc bài ngà trên hai tay rất trịnh trọng. Thằng Vầm hết hứng. Hắn đặt cốc rượu xuống khoang đò, nhìn lơ mơ sông nước chung quanh. Im vắng. Tiếng lá trúc đâu đó rì rào trong gió, như gần như xa...Ánh nến lung lay hai cái bóng người tự nhiên không nói cười gì nữa. Một con cá nổi lên quẫy mạnh mạn đò chói sáng dưới màu trăng dát bạc. Ngạn chưa bao giờ thấy mặt sông mênh mông như lúc này. Tự nhiên anh liên tưởng tới cuộc hội thảo trong mấy ngày vừa qua. Ngạn bất ngờ buột miệng :
- Đàn ca xướng hát thì quả là vị Tướng công lỗi lạc ấy.
Thằng Vầm đâu biết gì. Hắn chỉ kết thúc câu chuyện của mình :
- Hết khóc "Dạ đề" xóm vạn chài đều ưa. Ngủ ngáy mới được yên thắm cũng là nhờ cái công vật nớ. Còn của ông tướng ông trạng mô ai biết. Có mà hiện ra, gặp mặt quan chi thêm chuyện. Ông già có nói rõ "tránh voi chẳng xấu mặt nào" còn nhớ. Bài ngà nhà quan không lấy ra từ cái nanh voi rừng thì là ở mô ? Voi là voi bài ngà trước ngực nhà quan. Là quyền to chức lớn nói... khéo đó. Còn voi thiệt, tận trên rú trên rừng có mô gặp hằng ngày ? Cho nên, khi dùng xong phải cất ngay thiệt kín. Đừng thấy lạ dòm ngó. Có quý báu cũng không hay ho chi. Bởi mới nói bán chẳng có người mua, cho cũng không ai thèm lấy. Chuyện cái bài ngà nhà quan rứa thôi...Thằng em nói hết.
Thấy Ngạn vẫn ngơ ngẫn nhìn trăng, không trả lời. Hắn biết ông thầy có vẻ chú trọng vật đang cầm trên tay. ThằngVầm nói thực :
- Biếu ông thầy kỷ niệm. Để mãi không dùng chi nữa.
- Của này là gia bảo truyền đời. Mày bị tội bất hiếu đó.
Thằng Vầm tỉnh bơ :
- Dạy "Không ai giàu ba họ. Chẳng ai khó ba đời" Thôi đi, là xưa rồi. Ngồi đó mà tin hà. Thằng...Vầm con, đời thứ tư cũng đã khá rành rọt gần in thằng...Vầm cha. Không khéo lặn cát sạn tới bốn đời ham chi nữa. Ông thầy ưa, lấy dùm đi. Để thằng cháu đích tôn thắp cây nhang cho ông nội được không.
Nói là làm. Hắn rút thẻ nhang vẫn kẹp ở liếp khoang, châm hết ngay vào ánh nến. Cắm chắc nịch vào mạn đò xong, hắn khấn vái rất to :
- Từ nay thằng cháu đích tôn "lên bờ" mần ăn. Dứt khoát là chủ bãi, không chịu đội rổ lặn xuống sông nữa. Là vì đã có đàn em...lặn thay rồi. Ông nội chịu chưa ? Hay là cứ...trước răng sau rứa. Còn để lại cái vị thuốc Nam trừ khóc lóc chi nữa ? Ông nội yên tâm...Là tốt.
Ngạn bửng lửng. Anh đăm chiêu nói :
- Mày chưa hiểu ý tao. Lấy làm gì ? Đâu phải sợ mà bỏ qua lòng tốt của mày. Nếu tao đem đi rồi thì kỷ niệm có còn đâu ? Vả lại, cứ mãi mãi ở đây thì mới thật đúng như tâm nguyện của người xưa. Mày có biết đâu. Linh vật này...
Thằng Vầm lắc đầu quầy quậy. Ngạn giải thích :
- Là tao muốn...Cái bài ngà này còn lại mãi với dòng sông. Đã bao nhiêu thời gian nằm "mắc cạn" trên khô ? Từ đó mà thứ linh vật này đành bôi bùn, trét sáp luân lạc trong tay những kẻ như mày. Chừng ấy...Đủ rồi. Suốt ba thế hệ nối nhau lênh đênh trên sóng nước. Cơ vận ấy hạng như mày không thể hiểu được đâu. Yên tâm đi...Là tốt.
- Dài dòng chi thằng em khó hiểu. Tức là...vất lại xuống sông quách...cho rồi. Đã nói, cho không ai thèm lấy.
- Không...Không phải vất đi mà là trả về. Trả về dòng sông lưu giữ nó. Khi còn trong dòng chảy núi sông, của báu mới trở thành linh vật. Nếu không - như mày thấy - chỉ để dành cho trẻ nít. Những âm thanh gì mày nghe từ thuở khóc trong nôi ? Tại sao kỳ diệu. Khi mà ngay cả câu ru hò của mẹ vẫn không làm nguôi tiếng "Dạ đề" ? Có phải đấy là thứ âm thanh "xướng ca vô loài" như người xưa miệt thị. Không. Đấy là đỉnh cao nghệ thuật một thời...Nghệ thuật ấy - duy nhất - đi tới chỗ tận cùng của hạng trầm luân trong xã hội. Nơi tất cả nghệ thuật khác đều...bỏ rơi và lảng tránh. Nghệ thuật ấy - sớm hơn hết - biết quay về để đồng cảm và nâng đỡ con người đứng lên từ cát bụi...Cát bụi phận người...Ôi,
Tướngcông và Nương tử. Ai tài hoa ? Ai mệnh bạc? Ai cười và ai khóc ? Không. Không...Không ai là mệnh bạc. Bởi đã là cát bụi thì bất kỳ màu sắc nào, với bất kỳ ai...Cũng không còn gì phân biệt. Lý bình đẳng tối cao và sau cùng tự nhiên đã vốn có nơi đây. Vâng, khi mà mọi người từ khước. Hai người ấy đi tìm và cùng hát mãi những lời ca...Bài hát ngợi ca bình đẳng.
Tướng công, ngoài tài hoa, tâm hồn và vốn liếng truân chuyên...Ông còn có một dũng lực mà thế nhân không đương nổi. Dũng lực bước qua những quy lệ đã ngàn năm...Nương tử. Kẻ tài hoa phận bạc. Sự thường xuyên bất công từ mệnh vận. Những người mòn đời trong cát bụi trầm luân...Có phải sinh ra là đã góp phần hoàn thiện Tướng công kia ? Ôi, những Hồng nhan tri kỷ của Tướng công...Sự kết hợp giữa lời ca và nước mắt. Đấy là những tài hoa ngoài rìa chiếu cuộc đời. Vì thế, mãi mãi họ vẫn còn vang bóng...Dù chỉ là vang bóng vô danh.
Thằng Vầm có nằm mơ không ? Khi ông thầy xoá mù chữ cho hắn năm nào đang nói những gì không thể nào hiểu nổi. Song biết phải làm gì khi ấy, hắn đứng dậy nghiêm trang chấp hai tay vào nhau như hồi đang làm lễ gia tiên. Thầy giáo Ngạn ngồi đó giữa khoang đò, hai bàn tay nén vào nhau run run đầy xúc cảm. Xưa nay, nghề lặn cát sạn như thằng Vầm chẳng thèm biết sợ ai. Nay hắn nhìn dòng Hương giang như một bí ẩn lớn trong đời. Dòng sông mà trước đây khi bất hoặc nghe ai nhắc tới, hắn đều chế nhạo "Mùa nước lụt xuống đó mà thơ. Còn mộng à ? Thằng Vầm cát sạn đây này...Nhô lên hụp xuống ba bốn đời chưa lặn ra cái mộng chi hết. Đừng có ai bày đặt rành chuyện sông Hương hơn tao. Láo toét cả".
Bây giờ thì hắn bắt đầu biết sợ. Một niềm kính sợ mông lung. Ông thầy giáo thì nghèo xơ, hết sức hiền lành. Dòng sông thân thiết và đã trở thành máu thịt đời hắn từ lâu...Một thể xác thứ hai. Còn ma quỷ ? "Vì răng không chịu hiện ra tao hỏi nhiều việc. Chê cực khổ à ? Hay là ma với quỷ cũng lo đi tráo trở mần ăn. Khi sướng rồi...lơ tao luôn. Đồ đểu". Thế thì hắn kính sợ cái gì ? Cảm nhận...nhưng không thể gọi tên, hắn nghĩ chắc chắn hạng người như thầy Ngạn giảng giải khúc chiết được điều này.
- Thằng em dốt nát, không biết chi. Nghe hoài "như nước đổ lá môn" Có điều hình như...Ông thầy đang nói với chỗ mô đó oai linh to lớn lắm...
Không phải để cho thằng vạn đò nghe. Có chi không trúng, phạm oai linh nớ ông thầy chỉ vẽ, bỏ qua.
- Đã bảo yên tâm. Mày có công là khác. Không phải nói với ma quỷ nào cả. Mà có ma quỷ thì cũng không khiến thằng như mày phải cung kính thế đâu. Là tao đang nói tới...Khí thiêng Sông Núi. Cái này thì chẳng cần chữ nghĩa. Có "cảm" được như mày. Là tốt.
Với thằng Vầm như thế quá đủ. Sẽ khó lòng để nói về điều ấy. Bởi cảm nhận qua tiềm thức vốn tồn tại song không có cơ hội đích thực nào cho chính nó hiện thân như nguyên bản do dòng ý thức bên trên - khi lý luận giải thích, diễn dịch - đã làm nơi môi giới thông qua. Có thể sẽ tồn tại vô số những "Bản dịch của ý thức" ? Trong khi "Nguyên tác từ tiềm thức" thì không bao giờ...nhiều hơn một. Ngoài "cảm" để nhận ra, làm thế nào giảng giải, định nghĩa đích thực về Khí thiêng Sông Núi ???
Ngạn trịnh trọng bằng cả hai tay.... Từ từ nâng bài ngà lên và trước con mắt hết sức cung kính của thằng Vầm, anh buông tay ra giữa mặt nước. Tiếng động nhỏ, vật rơi xuống dòng sông. Liên tiếp hai cốc rượu làng Chuồn rưới xuống.
Hình ảnh con đò treo đèn lồng ngũ sắc cứ tưởng như chưa hề biến mất trước mặt anh. Tiếng cười...Lời ca của vị Tướng công và Nương tử...Bốn người lính lệ vai áo đẫm sương đêm. Vẫn dòng Hương giang bát ngát này và ánh trăng rằm dát bạc. Ồ, nhiều nữa...Còn bao nhiêu ca từ và thi phú. Anh chỉ nhớ nổi hai câu, nhẩm lại một mình để lại thấy mênh mang đầy sương lan...khói toả "Ngã vô truy Tước Lệnh chi bài thế trung lạc khứ lưu giang vô tái ngộ...Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai bôn lưu đáo hải bất phục hồi" ...
Vâng, rõ ràng sanh phách cầm ca vẫn mơ hồ còn văng vẳng đâu đây. Đám mây bay qua. Mặt trăng rằm rạng rỡ như gương.
-2005
Trần Hạ Tháp